Thuở bé, đọc Tây Du Ký tôi rất thích đoạn tả vua khỉ Mỹ
Hầu Vương (Tôn Ngộ Không sau này) nằm dựa thành cầu ngủ say sưa trên đường
về, sau một chầu nhậu với bạn bè gồm vua của các loài thú .Trong giấc ngủ,
Mỹ Hầu Vương bổng thấy có hai tên quỷ sứ đến mời đại vương khỉ đi chầu…Diêm
Vương.
Diêm Vương đáp “Đại vương đã tới ngày tận số nên không còn được sống trên dương
thế. Đại vương phải xuống âm ty để chờ xét xử. Nếu đại vương ăn ở hiền đức, đại
vương sẽ được tiếp tục đầu thai làm khỉ.. Nếu ăn ở ác nhân,
ác đức , đại vương sẽ bị trừng trị ở chín từng địa ngục, sẽ bị cưa hai, bị nấu
dầu, bị cắt đuôi, cắt lưỡi…”
Mỹ Hầu Vương rụng rời tay chân thầm nghĩ : “Chẳng lẻ từ nay ta không còn được
đánh đu, rong chơi, bơi lội … làm vương làm tướng lủ khỉ nhỏ nơi Thủy Liêm Động
thân yêu?”
Bọn Diêm Vương này là ai mà dám xét xử ta. Vốn thông minh, Mỹ Hầu Vương biết
lúc này mình phải tỏ ra nhún nhường:
“có gì làm bằng chứng rằng ta đã tới số ?”
Diêm Vương sai thư ký mang ra cho Mỹ Hầu Vương xem một quyển sổ dày
ngoài bìa ghi “Hộ Tịch Loài Khỉ” , trong đó có ghi rành rành Mỹ Hầu Vương
ngày , tháng đó là phải chết.
Vua khỉ giả bộ liếc ngang qua rồi bất ngờ xé toang quyển sổ.
Mỹ Hầu Vương nằm ngủ trên cầu mấy ngày bổng tỉnh dậy. Bọn khỉ nhỏ vui mừng
hò reo khi Đại Vương của chúng kể lại câu chuyện chầu
Diêm Vương và cho biết rằng từ nay loài khỉ được miển dịch với cái chết.
Mấy ngàn năm sau có một người cũng nằm ngang thành cầu mà ngủ,
mặc cho người qua kẻ lại dòm ngó, mặc cho nắng chiếu xiên trên mặt.
Người ấy tên là Bùi Giáng. Có lẻ những câu thơ sau được làm trong những lúc ông
thơ thới nằm ngủ bên cầu:
“Rụng rời dĩ vãng xô ngang
Kết thành tố mạch đôi đàng chia nhau
Nửa xin để lại bên cầu
Nửa xin trường mộng nhiệm màu mang đi” (1)
Từ ngàn xưa thi nhân đã lưôn trải hồn thơ lên những chiếc cầu:
Cảnh tiển đưa bên cầu lúc nào cũng buồn và đẹp hơn ở siêu thị
hay bến xe đò:
“Ngòi đầu cầu , nước trong như lọc,
Đường bên cầu cỏ mọc còn non
Đưa chàng lòng dặc dặc buồn
Bộ khôn bằng ngựa, thủy khôn bằng thuyền” (2)
Buổi chiều trong thơ Nguyễn Du sao êm dịu đến vậy
khi có bóng dáng một cây cầu:
“Dưới cầu nước chảy trong veo
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha”.
Nhưng các nhạc sĩ mới là những người mê cầu nhất. Hãy nghe
văn Cao mô tả niềm hạnh phúc lần đầu đón bước chân nàng tìm đến:
“Nhà tôi bên chiếc cầu soi bóng
Em đến tôi một lần
Bao lũ chim rừng
Hợp đoàn trên khắp bến xuân” (3)
Bài hát “Bên Cầu Biên Giới” của Phạm Duy thì lại mang đến cho ông tai họa.
Theo lời ông kể trong một hồi ký, Bên Cầu Biên Giới được sáng tác tại Chợ
Neo, năm 1948.mô tả mối tình say đắm của ông với một cô ca ve tuyệt đẹp
đã hoàn lương. Vì bài hát này ông bị kiểm điểm tơi tả và có lẻ vì không được tự
do sáng tác, ông bỏ kháng chiến, tìm cách vào Nam.
Chẳng phải bài “Trăng Rụng Xuống Cầu” đã đưa Nguyễn Hữu
Thiết lên hàng nhạc sĩ được yêu thích một thời ?
Ngày xưa chưa có nhiều sắt thép, chưa phát minh ra xi
măng nên loài người chỉ có thể bắt những nhịp cầu nho nhỏ. Những cầu ván
cũ kỷ , những cầu tre lắt lẻo gập ghình khó đi thân quen, gần gủi với khách bộ
hành biết bao.
Cầu thường cao hơn mặt đường nên khi đi qua cầu người ta thường đi chậm lại và
được nhìn thấy nhau nhiều hơn. Cầu bao giờ cũng là nơi mát mẻ
nên các chàng trai, cô gái thường hay ra cầu để hóng gió hay để chờ
đợi ai đó , làm sao mà biết được.
“Ngày đó trên chiếc cầu, em nhớ chăng?
Một chiếc áo dài màu trắng xinh xinh
Một nụ cười, mời anh, đưa em vào đời
Và từ đó hai đứa mình quen nhau (4)
Những cây cầu dài đến mấy cây số thời văn minh hầu như
không mặn mà với thơ nhạc như thời “Ví dầu cầu ván đóng đinh”.Thật lạ. Những
cây cầu dây văng lộng lẫy và tuyệt đẹp mới mọc lên ở nước tôi không
gợi cho người ta một niềm tự hào dân tộc mà khiến cho người ta nghĩ đến cái chết.Tin
trên báo, cho đến nay đã có 42 người nhảy cầu Cần Thơ tự tử.
Buồn quá!
Không còn cảnh chờ phà để có cớ chuyện trò rôm rã, không còn nữa những
giây phút được thấy cuộc đời trôi đi bình yên, chậm rãi.
Xe chạy vun vút trên cầu đưa ta về nhà nhanh hơn nhưng biết đâu cũng đưa ta về
quá sớm với những tuyệt vọng , rối ren chưa kịp phân giải.
Tôi vốn sợ tốc độ. Một thời báo đăng tin, Việt Nam dự tính mua tàu
siên tốc của Trung Quốc để người dân có thể ăn sáng, uống cà phê ở
Hà nội rồi ăn trưa ở Sài Gòn. Nghe mà ớn lạnh.
Bỗng nhớ và ngưỡng mộ họa sĩ Hoàng Lập Ngôn với chiếc
xe ngựa đưa ông cùng gia đình và bạn bè lãng du từ Bắc chí Nam. Chiếc xe
ngựa được họa sĩ thiết kế như một ngôi nhà gọi là “ Nhà Lăn Mê Ly” vừa là
phương tiện di chuyển, vừa là phòng triển lãm di động vừa là nơi hội họp bạn
bè.
Ôi! Một thời lãng mạn, đáng yêu quá chừng:
“Ồ mê Ly đời sống với cây đàn
Tình tình tang dạo phím rồi ca vang” (5)
Rồi mấy cái hầm nữa chứ! Trời ơi! Tôi ghét mấy cái hầm quá
đi thôi.
Khi những cây cầu dây văng thay thế cho phà Mỹ Thuận, phà Rạch Miểu, tôi tiếc
cái cảm xúc khi đứng trên phà , nhìn những mãng bèo lục bình
trôi trên dòng nước mênh mông. Nhưng dầu sao khi xe qua cầu,
mình vẫn còn nhìn thấy trời nước , làng mạc xa xa.
Chuyến lữ hành còn ý nghĩa gì khi xe chui qua hầm chứ không chạy
ngang qua đèo Cả, Đèo Hải Vân, Đèo Ngang ? Chẳng lẽ ngày nay người ta tất
bật kiếm tiền để được hẹn nhau ở Thái Lan, Singapore chứ không còn muốn hẹn
nhau ở Cầu Ngói Thanh Toàn (8)? Chẳng lẽ ngày nay người ta ngồi với nhau ở
Cà Phê tầng 68 chứ không còn thích ngồi “Bên Dòng Sông Trẹm”? (7). Chẳng lẽ
ngày nay người ta chỉ biết chúi mũi nhìn vào màn hình Ipad chứ không thèm
nhìn nhau để thấy lòng rưng rưng khi cùng nhau nhìn ngắm
những con đường cây cỏ chen nhau, cheo leo qua vách núi khi
chiều nắng xế , rồi nhìn thấy mấy chú tiều lom khom gánh củi, rồi ngâm nga: “Nhớ
nước đau lòng con “Quốc Quốc”? (6)
Huyền Chiêu
(1) Hôm Qua Mộng- Thơ Bùi Giáng
(2) Trích Chinh Phụ Ngâm
(3) Bến Xuân- Văn Cao
(4) Ngày đó (nhạc của…)
(5) Ô Mê Ly-Văn Phụng
(6) Thơ Bà Huyện Thanh Quan
(7) Tên một quyển tiểu thuyết thập niên 50
(8) tên một cây cầu cổ nhỏ bé ở Huế.