Mến tặng
anh Đàm Quang Hưng, vị tú tài đọc nhiều hiểu rộng,
có thể
giải thích được nhiều sự việc kể cả những giấc mơ mầm đá.
Đất Am Mơ
có vị tú tài tuy tuổi khá cao, đã về hưu nhưng vẫn còn tráng kiện. Thời trai trẻ
độc thân, bạn bè gọi ông là cậu Tú, lâu dần người trong xóm chẳng ai biết tên
tuổi thật của ông, cũng quen gọi là ông Tú.
Am Mơ nằm
trong một vùng thung lũng rộng, gồm vài nông trại ngay bên cạnh một khu núi rừng
bát ngát. Người ta nói thời tiền sử, đất này hãy còn là biển, đứng trên vách
núi nhìn xuống, có thể được xem cá voi đùa rỡn. Sau này, tuy một khu vườn quốc
gia đã được thiết lập trong vùng nhưng Am Mơ không bao giờ mất vẻ thô sơ, hoang
dã. Khi ông Tú mua đất dựng nhà ở đây thì cả vùng đã bắt đầu mở mang. Dẫu vậy,
ông vẫn thường được nghe dân cư trong vùng kể những câu chuyện quái dị về rừng
núi chồn ma, đôi khi thêm cả câu chuyện thời chiến về một nông trại đã được
dùng làm nơi giam giữ tù binh. Nghe thì biết vậy tuy có vài lần chính mắt ông
Tú được trông thấy mấy chú chồn lảng vảng trong rừng cây sau nhà. Còn mùa đông,
nai đến kiếm ăn thì thôi, khỏi nói, đôi khi có cả gấu.
Ông Tú theo
Tây học nhưng lại giữ phong cách cổ lỗ sĩ, nguyên tắc cùng mình, không bao giờ
chịu nợ nần ai một xu, mua gì cũng trả cash, ngay cả mua ô-tô cũng không
trả góp. Từ ngày nghỉ hưu, ông Tú trở nên lãng đãng, trí nhớ xem chừng suy yếu,
làm việc gì dù quen thuộc cũng lóng ngóng, thường mất phương hướng về cả thời
gian lẫn không gian. Những khi cần giao tiếp, ông diễn tả hay hiểu sự việc một
cách khó khăn, nhất là với những gì trừu tượng, phán xét suy yếu, tính tình
thay đổi và ít khi chủ động. Rồi lại thêm tình cảnh lấn cấn với vợ, tính khí
ngày càng trở nên bất thường, ông đôi khi ngồi yên lặng hàng giờ nhìn tuyết bay
phất phơ ngoài cửa sổ, lại cũng hay vô cớ chửi thề hay nói tục. Người xung
quanh bảo nhau ông Tú có nhiều triệu chứng tiêu biểu của bệnh Alzheimer, chỉ
riêng ông thấy mình vẫn an nhiên tự tại.
Vào những
ngày đẹp trời, cơm nước xong, chờ cho nắng tắt, ông Tú thường một mình đi thơ
thẩn dạo chơi trong khu xóm, muôn thủa đượm màu thôn dã, idyllic, như ai
đó mô tả. Mùa xuân đến, những cây forsythia hoa vàng rực rỡ chen chúc nhau
trong khoảnh vườn trước cùng với những cây táo dại hoa đỏ hồng tươi. Chẳng mấy
chốc đã lại thấy mùa thu trở về, lá cây đổi mầu sặc sỡ, nao nức trong cánh rừng
rậm rạp với lũ cây phong, cây sồi, cây thông... cao vút. Con đường hun hút trước
nhà mà ông Tú thường gọi là đường lên động thiên thai, thật sự ông làm sao biết
được nó cũng có thể đưa đến những hang động của ma chồn? Thế nhưng điều đó
không có gì quan trọng với ông. Cái thế giới mà bây giờ ông thường lai vãng vào
ra một cách vô vi, thanh thản, là một thứ thế giới Liêu Trai mờ nhạt, khi thực
khi hư, ở nơi ấy không gian tĩnh lặng, thời gian không xác định, thường hay
giao tiếp với đám đông bạn bè thân thuộc trên mạng, ai nấy đều thành đạt, được
phong chức tước (1), áo mũ xênh xang, lợi danh có đủ, ông này công tử, những
ông khác, quan nọ quan kia, có ông được cả tước vương dù không ai biết ngài ngự
ở phương nào? Cho nên, nếu có thêm tiên phật hay chồn ma vào cõi ấy thì sáng tối
cũng nhập nhòa, sêm sêm một thứ mà thôi.
Một buổi
chiều, ông Tú đi dạo như thường lệ, thoáng chốc đã vào đến trong rừng. Mùa thu
ngày ngắn, đêm xuống rất nhanh. Bất chợt, trời sập tối đen và ông thấy hiện ra
trước mặt một tòa nhà nguy nga, xa xa bên trong hãy còn đèn sáng. Thấy cổng hé
mở không ai canh gác, ông Tú liền lững thững bước vào, đi giữa đám cỏ cây được
vun xới cẩn thận. Đang đi, nhác thấy xa xa thấp thoáng bóng người như có lính
gác đi tuần, ông vội bước ngay vào một căn nhà nhỏ gần đấy. Một lão bà đang ngồi
nấu nướng món gì trong cái nồi đồng, ngạc nhiên ngửng lên nhìn rồi kêu khẽ:
- Chết thật,
ông là ai? Đã muộn rồi sao còn dám vào đây?
- Dạ, vãn
sinh vốn sống đã lâu trong vùng, vẫn thường đi dạo quanh đây. Không hiểu tại
sao hôm nay tự nhiên lạc vào trong phủ?
Bà lão cho
biết đây là phủ Chúa và bà là người chính trông coi việc bếp núc trong phủ. Thường
ngày, bà không thức khuya như hôm nay nhưng vì buổi chiều, Quan Trạng đến mang
theo một ít “mầm đá ” (2) (ấy là cách Quan Trạng gọi mấy viên đá) và bảo
bà ninh thật dừ như ninh chân giò cho Chúa ngự thiện. Bà than phiền rằng ninh mầm
đá đã bao nhiêu lâu mà vẫn chưa thấy hề hấn gì, thỉnh thoảng mấy tên lính hầu cứ
xuống hỏi han, thúc giục. Bà bảo đêm hôm khuya khoắt, đi lạc vào đây là một điều
tối ư nguy hiểm vì nếu chẳng may lọt vào mắt mấy tên lính canh thì sẽ bị tình
nghi là thích khách, sẽ bị bắt, và bị tra khảo tàn nhẫn. Ông Tú nghe có ý sợ
hãi, bà lão thấy vậy nói mấy câu trấn an rồi lảng sang chuyện thăm hỏi ông về
thân thế, học hành.
Đang khi
ông Tú trò chuyện với lão bà thì từ nhà trong bước ra một nữ lang xinh đẹp, vóc
người nhỏ nhắn. Cả hai cùng khựng lại, ngỡ ngàng nhìn nhau. Bà lão bèn giới thiệu:
“Đây là cháu gái của lão, góa chồng mấy năm nay, con cái đã lớn ra ở riêng nên
về đây bầu bạn cho vui nhà vui cửa và lão cũng bớt cô đơn; còn đây là vị tú tài
ở cùng trong xóm, hôm nay lỡ bước đi lạc vào đây.”
Nữ lang cất
tiếng: “Thật là nguy hiểm!” Ông Tú lúc ấy đã định thần, nhìn nữ lang rồi nói:
“Mong cô nương thứ lỗi. Lúc nãy tiểu sinh vô lễ, trân trối nhìn vì thấy cô
nương trông giống như tạc tuy có lẽ lớn hơn ít tuổi, một người quen cũ của tiểu
sinh từ ba mươi năm trước, lòng ngần ngại không tiện hỏi.” Nàng đang định trả lời
thì có tiếng người ngoài cửa, lão bà ra hiệu cho hai người yên lặng rồi đưa cả
hai vào nhà trong, đóng cửa, xong trở ra nói chuyện với lính hầu. Nữ lang lẳng
lặng dẫn ông Tú sang chái nhà bên để lẩn tránh. An toàn rồi, nàng mới ngỏ lời:
“Vâng, đã thật ba mươi năm và em chính là người quen cũ anh nhắc tới. Nhân tiện,
xin anh bỏ mấy chữ 'cô nương' hay 'tiểu sinh' đi, nghe lôi thôi quá.”
Ông Tú thẫn
thờ, một lúc lâu mới đáp: “Tôi còn nhớ rõ lần cuối cùng nói chuyện với em, đó
là một chập tối thứ Sáu, cũng là lần đầu tôi mời em đi nghe ca nhạc nhưng em từ
chối, bảo hãy gọi lại rồi cáo từ đi ngay. Tôi đoán chừng em đã có bạn nên tôi
thôi, không muốn làm bận tâm em.”
Chái nhà
bên là một căn buồng trống trải, đồ đạc sơ sài, ánh sáng lờ mờ cho thấy một chiếc
phản nhỏ kê ở đầu buồng, đầu bên kia là một đống cỏ khô hay rơm để sẵn cho súc
vật ăn vào mùa đông. Hai người ngồi xuống cạnh nhau trên mép tấm phản. Người
đàn bà bắt đầu kể các chuyện xa gần của đời mình: “Không, ngày ấy em chưa có bạn
trai, và em cũng cảm thấy hơi lạ khi anh không gọi lại em nữa.” Nàng kể sang
chuyện học hành, ra trường, lập gia đình rồi sinh con cái.
Cuộc
sống tạm gọi là yên ổn, có lẽ cũng có thể gọi là hạnh phúc, ít nhất được vài
năm nhưng rồi người chồng thường hay vắng nhà, càng ngày càng lâu hơn, bỏ mặc
người vợ vừa đi làm kiếm ăn vừa chăm nom con cái. Cuối cùng, khi nàng bắt đầu sửa
soạn ly dị thì người chồng lâm bạo bệnh và qua đời. Nàng có cảm tưởng như vừa
được giải thoát nhưng đó không phải là một dịp vui mừng.
Giọng người
đàn bà đều đều, có vẻ mệt mỏi, lạnh lẽo, không chút xúc động nhưng ông Tú cảm
thấy trong giọng nói ấy một nỗi hoang vắng, chịu đựng. Bao nhiêu năm trong ba
mươi năm ấy? Ông nắm tay người đàn bà, ngồi sát lại gần hơn, nàng ngả đầu vào
vai ông. Xung quanh họ, chỉ có sự yên lặng. Trống chợt điểm canh ba. Đêm tối mịt
mùng nhưng vẫn đủ để trông thấy bóng mấy con dơi dáo dác bay qua lại kiếm ăn.
Đống rơm
trước mặt làm ông Tú nhớ đến cái ổ rơm khi còn nhỏ sống ở nhà quê. Ông nghe gợn
trong lòng nỗi ao ước được nằm lọt thỏm trong cái ổ rơm tỏa ra hơi ấm ấy. Ông đứng
dậy, bước ra, san đống rơm làm ổ, cẩn thận lấy cái chiếu ở trên phản phủ lên
trên rồi quay lại, đỡ người đàn bà ra ổ rơm mới tươm tất.
- Thôi, đã
khuya và em đã mệt, hãy nằm tạm xuống đây ngủ, tôi trông cho.
Gần đến
canh tư, người lính hầu trở lại tìm lão bà, bảo thôi không cần ninh mầm đá nữa.
Bà xem lại nồi ninh, vẫn thấy mầm đá nếu có dừ thì cũng còn lâu mới được như
chân giò, bèn quay nhìn người lính, dò hỏi. Y kể đêm đã khuya, Chúa đói vì quá
bữa, Quan Trạng bèn lấy từ trong bọc ra một lọ Đại Phong cho Chúa dùng tạm với
cơm. Giờ thì Chúa đã no rồi, không còn chờ để ăn mầm đá nữa.
Đợi cho người
lính đi khuất, lão bà cầm nến vào tìm cô cháu và ông Tú. Vào đến nhà ngang, bà
chỉ thấy một mình ông ngồi ngủ gật ở phản. Bà hỏi cô cháu đâu? Ông chỉ vào ổ
rơm. Bà đánh thức cô: “Con dẫn tú tài ra đường mòn và chỉ lối cho ông về xóm
trước khi trời sáng, ta trông chừng lính canh cho.”
Hai người
trông nhìn trước sau cẩn thận trước khi ra khỏi cổng sau phủ Chúa. Họ sánh vai
cùng đi trong rừng đêm đen tối, đôi vai thỉnh thoảng chạm nhau khiến họ rùng
mình. Gần đến đường mòn, có một đống lá cây ai đó đã quét vun vào đó. Ông Tú
nghe văng vẳng như có tiếng hát đâu đây, “Ngày sang thu anh lót lá em nằm...”
Họ dừng lại, chia tay, người đàn ông nói: “Tôi trân quý em. Mình đã có một
dịp cách đây ba mươi năm, dù cái đó không có gì bảo đảm sẽ xẩy ra một tương lai
rất khác, tươi đẹp hơn, nhưng chắc sẽ không còn dịp ba mươi năm nào nữa.” Lần đầu
tiên, ông thấy mình ôm hôn người đàn bà thắm thiết, nàng không kháng cự mà còn
nồng nàn thì thầm qua hơi thở: “Em muốn cho anh một baby nhưng đã muộn
quá mất rồi!”
Mãi gần
trưa ngày hôm sau, người nhà mới tìm thấy ông Tú đang ngủ ngon lành trong đống
lá cây đủ mầu đã được vun vén cẩn thận. Bệnh Alzheimer tất nhiên không
có gì thay đổi, nhưng người xung quanh nhận thấy ông Tú không còn hay chửi thề
hoặc nói tục nhưng lại hay lẩm bẩm hai chữ “mầm đá” mà không ai hiểu căn
nguyên. Ông thích ngâm nga, đọc thơ “mầm đá,” có người nói đùa ông đã trở thành
một tay Alzheimer chữ nghĩa:
Ôi mầm
đá thân yêu,Ta tìm đến em,Những giấc mơ dài bất tận...
Sau lần đi
lạc ấy, người nhà luôn luôn để trong túi ông chiếc điện thoại lưu động có GPS
(3) được mở sẵn. Vài lần thấy ông về muộn, nhờ có GPS nên người nhà tìm được
ông dễ dàng và lần nào cũng thấy ông quanh quẩn gần chỗ đống lá cây, nơi đã tìm
thấy ông lần đầu.
Nhưng có một
lần, mãi đến gần trưa vẫn không thấy ông Tú đâu, tưởng ông ngủ nán, người nhà
vào trong buồng tìm, ông không có trong buồng, điện thoại GPS nằm trên bàn ngủ
đầu giường. Mọi người túa ra, lần mò đi tìm, theo đường cũ lên động thiên thai
của ông nhưng cũng không có kết quả.
Cho đến
ngày hôm nay, vẫn không ai biết ông Tú đã đi đâu...
*
(1) Về chuyện
chức tước, xin đọc trên mạng: vutien.com/dhkh_bb.html - trang web của một đám cựu
sinh viên Đại học Khoa học Sài Gòn trước 1975; Archiv của trang chứa ngót 10
năm đối thoại hàng ngày của nhóm, được chia ra từng tháng, đôi khi tẻ nhạt vô
duyên nhưng thường rất hữu ích và chữ nghĩa. Spot check Archiv có thể thấy được
chuyện chức tước.
(2) Truyện
kể ở đây, lần đầu tiên, tiết lộ một chi tiết “lãng mạn,” bên lề của những câu
chuyện dân gian về Trạng Quỳnh. Dưới đây là tóm tắt của truyện Mầm Đá:
Một hôm Trạng
Quỳnh túc trực trong phủ Chúa Trịnh lúc Chúa đang ăn cơm. Chúa than phiền ăn đủ
mọi thứ của ngon vật lạ mà vẫn không thấy thứ nào ngon miệng. Chúa hỏi Quỳnh có
biết món gì ngon không? Quỳnh trả lời có biết món “mầm đá” và nói hôm sau sẽ
mang đến nấu để Chúa dùng.
Quỳnh về
nhà đi kiếm mấy hòn đá và sửa soạn một lọ tương, niêm phong cẩn thận, ngoài lọ
đề hai chữ Đại Phong. Hôm sau, Quỳnh vào phủ Chúa, sai nhà bếp đi ninh mầm đá.
Nhưng tất nhiên mầm đá ninh thì biết đến bao giờ cho chín. Đêm đã khuya, Chúa
đói quá, Quỳnh bèn sai lính hầu đi lấy cơm, còn mình mang lọ tương ra cho Chúa
ăn cơm với tương cho đỡ đói, đợi mầm đá được sẽ dâng sau. Ăn xong, Chúa nhìn thấy
lọ Đại Phong lấy làm lạ, bèn hỏi Đại Phong là thứ gì mà ngon thế, Quỳnh thưa,
“Bẩm Đại Phong là gió to, gió to thì đổ chùa mà đổ chùa thì tượng lo, tượng lo
là lọ tương ạ!”
Chúa ăn
xong đã no, nghe vỡ lẽ bèn truyền cho nhà bếp thôi không phải nấu mầm đá nữa.
(3) GPS -
Global Positioning System: Hệ thống định vị toàn cầu của Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ;
hệ thống rất phổ biến, cho phép mọi người trên thế giới, bất kể quốc tịch, sử dụng
một số chức năng miễn phí để xác định vị trí của một điểm trên mặt đất.
Gatineau,
Feb 2017
Nguyễn
Đức Tường