
Nhà thơ Chế Lan Viên (1920-1989)
Có thể nói, từ đầu thế kỷ thứ hai mươi cho đến nay, Chế Lan Viên
được đánh giá là một nhà thơ lớn tài năng. Và khi nghiên cứu, ta có
thể thấy, thơ văn cũng như con người ông có nhiều mâu thuẫn, phức tạp,
đa diện nhất trong dòng văn học sử Việt Nam từ trước đến nay. Có lẽ,
xuất phát từ mâu thuẫn nội tâm ấy, ông luôn làm người đọc phải kinh
ngạc, và không chỉ đưa đến nhiều điều thú vị, mà còn cả những điều
nhạt nhẽo, khó chịu khác.
Ở cái tuổi mười bảy, Chế Lan Viên rất đĩnh đạc, bất ngờ đóng
thẳng vào chân móng của trào lưu thơ mới, bằng thi tập Điêu Tàn rắn
chắc và già dặn. Ngay từ tập thơ đầu này, ta có thể thấy, thi pháp
cũng như tư tưởng Chế Lan Viên bộc lộ một cách rõ ràng, mạch lạc và
tính cách khác lạ. Và cùng một thời điểm xuất phát ấy, nếu Hàn
Mặc Tử, Xuân Diệu, Vũ Hoàng Chương… đang chờn vờn mây trời, sông nước,
với nỗi đau tình ái, thì tiếng thơ Chế Lan Viên bi ai, quằn quại với
thân phận, nỗi đau của con người, của dân tộc. Sau 1945, tuy tài năng,
vốn sống được nâng lên và dày dặn hơn, nhưng thi pháp, tư tưởng, ngòi
bút của ông bẻ ngoặt theo một chiều hướng đã định. Để rồi, khi trở
về với đất, ông phải mang theo một nỗi u hoài, với những lời thán ca
muộn màng, tiếc nuối.
Chế Lan Viên tên thật Phan Ngọc Hoan sinh năm 1920 tại Quảng Trị, theo
học và chỉ đỗ bậc Thành chung (cấp 2) ở Qui Nhơn. Và suốt dọc tuổi
thơ, Chế Lan Viên gắn liền với mảnh đất nơi đây. Ở đó, cũng cho ông
nguồn cảm hứng cùng với Quách Tấn, Hàn Mặc Tử, Yến Lan, Bích Khê
lập ra nhóm Trường Thơ Loạn. Năm 1945, ông tham gia kháng chiến, và sau
hiệp định Geneve 1954 tập kết ra Bắc. Từ đó, Chế Lan Viên làm văn
nghệ, và tuyên huấn tư tưởng. Ông mất năm 1989 tại Sài Gòn.
Sự nghiệp văn thơ của Chế Lan Viên đồ sộ, lừng lững trên văn đàn,
xuyên suốt cả một thế kỷ. Ông viết nhiều thể loại, kể cả phê bình.
Bỏ qua định kiến tư tưởng, chính trị, dường như tập thơ nào của Chế
Lan Viên cũng hay và mới, nếu xét về hình thức nghệ thuật. Tuy nhiên,
cũng như các thi nhân khác, đi sâu vào chi tiết, ta có thể thấy, trong
đó không phải, không có những bài thơ, câu thơ dở. Âu đó cũng là lẽ
thường tình trong nghệ thuật sáng tạo. Nhưng để chọn ra những tập thơ
tiêu biểu cho ba giai đoạn sáng tác của ông, với tôi phải là Điêu Tàn
ấn hành năm 1937, Ánh Sáng Và Phù Sa xuất bản năm 1960, và Di Cảo thơ
viết vào những năm cuối đời.
Một thiên tài sớm nở
Không hiểu sao, tôi sợ phải nghe cái danh từ (hay vương miện) thần
đồng dùng để gán, để chụp lên đầu cho một ai đó đến vậy. Nhưng nếu
buộc phải dùng nó để đánh giá, thì với tôi: Văn học Việt Nam từ
đầu thế kỷ thứ hai mươi đến nay, chỉ xảy ra có một lần, và thần
đồng duy nhất phải là cậu thiếu niên Chế Lan Viên cùng thi tập Điêu
Tàn. Có thể nói, đây là tập thơ chín sớm nhất, vừa ra đời đã trở
thành cổ thi. Đọc nó, ta nghe như có tiếng tiền nhân vọng về từ hàng
ngàn năm trước vậy.
Cũng như Đinh Hùng, Bích Khê… Chế Lan Viên chịu ảnh hưởng sâu sắc chủ
nghĩa tượng trưng, siêu hình cũng như thi pháp của các nhà thơ lãng mạn
Âu-Mỹ như Beaudelaire, Verlaine, Edgar Allan Poe. Tuy tiếp thu và chịu sự
ảnh hưởng như vậy, nhưng Chế Lan Viên với Điêu Tàn vẫn giữ được nét cổ
Đường thi.
Đến với Điêu Tàn, Chế Lan Viên từ bỏ thế giới hiện hữu, tìm về
thế giới hồn ma vô thực. Vì vậy, quan niệm cũng như biểu hiện của
cái đẹp trong mĩ học hoàn toàn thay đổi. Nếu trời, mây trăng gió
(thiên nhiên, con người) là hình ảnh, cái đẹp trong thơ Xuân Diệu, thì
sọ trắng ma thiêng, đau thương, đổ nát hoang tàn mới là đối tượng
thẩm mĩ trong Điêu Tàn của Chế Lan Viên.
Đọc Điêu Tàn tưởng như nghe được tiếng khóc, tiếng kêu bi ai tiếc
nuối, nhìn được sự tang tóc với nỗi đau vong quốc. Nhưng lặng lại giây
lát, dường như ta thấy vẫn còn chưa đủ. Mà sau nó còn là những hồn
ma, bóng quế nhập đồng vào cậu bé Chế Lan Viên, hay Chế Lan Viên hóa
vào những bóng ma, những đầu lâu, và hộp sọ cùng những nắm xương khô
dắt nhau tìm lại chính mình và dân tộc mình: “Muôn ma Hời sờ soạng
dắt nhau đi” (Trên đường về). Ta hãy đọc lại đoạn trích
dưới đây, để không chỉ thấy được một dân tộc với quá khứ anh dũng
và huy hoàng, cùng những đền đài uy nghi, tráng lệ đã bị bức tử,
mà còn cảm được áng thơ tuyệt đẹp, u mang hoài cổ của Chế Lan Viên:
“Đây, điện các huy hoàng trong ánh nắng
Những đền đài tuyệt mỹ dưới trời xanh
Đây, chiến thuyền nằm mơ trên sông lặng
Bầy voi thiêng trầm mặc dạo bên thành…”
(Trên đường về).
Và trên con đường ấy, nhà thơ đã nhìn thấy sự hồi sinh, bất diệt
của một dân tộc: “Nước non Chàm chẳng bao giờ tiêu diệt/ Tháng ngày qua
vẫn sống với trăng mờ” (Bóng tối). Vâng! Cái tư tưởng độc lập dân tộc
Hời (Chăm) hay Việt ấy của Chế Lan Viên tuy mới chỉ phảng phất. Nhưng
có lẽ, đã cảm được điều đó, nên chính quyền thực dân vội đục bỏ
hai câu thơ trong bài chăng? Trên Đường Về là một bài thơ như vậy, và
nó cũng là một trong những bài thơ hay nhất trong thi tập Điêu Tàn:
“Một ngày biếc thị thành ta rời bỏ
Quay về xem non nước giống dân Hời
—
Đây, những Tháp gầy mòn vì mong đợi
Những đền xưa đổ nát dưới Thời Gian
Những sông vắng lê mình trong bóng tối
Những tượng Chàm lở lói rỉ rên than…”
Tuy tự vẽ ra con đường ấy, để đi vào thế giới của cô hồn, lấy đau
thương làm thước đo thẩm mĩ, nhưng càng đi nó càng làm cho người thi
sĩ cô đơn, chán chường hơn: “Đường về thu trước xa xăm lắm/ Mà kẻ đi về
chỉ một tôi”. Điều đó, phải chăng không chỉ là nỗi buồn thương cho
dân tộc, cho giống nòi, mà còn là tấm lòng nhân đạo cao cả của thi
nhân? Thật vậy, Xuân là một bài thơ điển hình trong thi tập này của
Chế Lan Viên đã làm được điều đó. Nếu những bài thơ xuân của Nguyễn
Bính, Anh Thơ… cùng viết vào thời điểm đó, là sự thanh bình, tươi
mới, thì Xuân của Chế Lan Viên là sự bế tắc của cuộc sống cũng như
tâm hồn. Từ những bế tắc, cô đơn ấy luôn làm cho nhà thơ phải chống
chọi, níu kéo vào thời gian, vũ trụ. Và chính cái mùa thu lá rụng
đó mới là nơi ẩn nấp, che chắn cho tâm hồn đang nhỏ máu của thi nhân.
Nhưng cái vòng quay tuần hoàn của thời gian kia, vẫn đang cày xới đến
cái tận cùng của nỗi đau và tuyệt vọng ấy. Và rồi, dường như nhà
thơ đã bất lực? Với tôi, Xuân của Chế Lan Viên là một là bài thơ
viết về mùa xuân lạ nhất, sầu thảm nhất, và hay nhất của nền văn
học Việt Nam:
“Tôi có chờ đâu, có đợi đâu.
Đem chi xuân lại gợi thêm sầu?
— Với tôi, tất cả như vô nghĩa
Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau!
Ai đâu trở lại mùa thu trước
Nhặt lấy cho tôi những lá vàng?
Với của hoa tươi, muôn cánh rã,
Về đây đem chắn nẻo xuân sang!
Ai biết hồn tôi say mộng ảo
Ý thu góp lại cản tình xuân?
Có một người nghèo không biết tết
Mang lì chiếc áo độ thu tàn!…”
Bi thương là thế, và cứ tưởng rằng, bị chìm sâu dưới những nấm
mồ, thời gian hóa thạch, nhưng khát vọng của con người luôn trỗi dậy,
hướng về một thế giới khác lạ, mênh mông và xa thăm thẳm: “Hãy cho tôi
một tinh cầu giá lạnh/ Một vì sao trơ trọi giữa trời xa.” Nhưng, dù có
ở chân trời góc bể nào, nỗi ám ảnh cả thể xác lẫn tâm hồn đó vẫn
không hề buông tha, Chế Lan Viên phải co người trốn chạy, và như con tò
vò làm tổ ẩn núp trong chính trái tim mình: “Ðể nơi ấy tháng ngày
tôi lẩn tránh/ Những ưu phiền, đau khổ với buồn lo!” (Những sợi tơ lòng).
Đọc Điêu Tàn, ta có thể thấy những bài thơ thất ngôn, bát ngôn của
Chế Lan Viên, dường như không hẳn theo một mạch chảy. Mỗi khổ trong bài
thơ như là một bài thơ thất ngôn, bát ngôn tứ tuyệt. Những khổ thơ
này, hoàn toàn có thể hoán đổi vị trí cho nhau, nhưng nội dung
chuyển tải cả bài thường không hề thay đổi. Nếu có, sự thay đổi đó
không nhiều. Với thủ pháp nghệ thuật này, sau này chúng ta bắt gặp
nhiều trong thi tập Đường Vào Tình Sử của Đinh Hùng.
Và có lẽ, không chỉ trong thơ, mà một số cuốn tiểu thuyết, văn
xuôi gần đây, có thể ít, nhiều cũng chịu ảnh hưởng từ Điêu Tàn (?)
đưa thế giới hồn ma, siêu thực vào tác phẩm của mình như: Dạ Tiệc
Qủy của Võ Thị Hảo, Que Diêm Thứ Tám của Văn Biển, hay Cò Hồn Xã
Nghĩa của Phạm Thành. Và nó đã rất thành công về nội dung, ý đồ
chuyển tải của nhà văn đến người đọc.
Có thể nói, ngay từ thuở ban đầu đến với thi ca, cậu bé Chế Lan
viên đã vạch ra một con đường riêng cho mình. Và cho đến nay, Điêu Tàn
vẫn là tập thơ độc nhất vô vị của văn chương Việt về khuynh hướng
sáng tác ấy. Với tôi, cùng với Lửa Thiêng của Huy Cận, Điêu Tàn là
tập thơ tiền chiến hay, lạ và độc đáo nhất.
Một cái loa phường.
Tháng 8-1945 là bước ngoặt, đưa con người cũng như thơ văn Chế Lan
Viên theo một chiều hướng khác. Ông tham gia Việt Minh và làm báo chí,
văn hóa văn nghệ. Từ đây, ông phải giải quyết mâu thuẫn chính trong
nội tâm của mình. Và trong mười lăm năm ấy (1945-1960), Chế Lan Viên đã
bốc được con ma Hời ra khỏi linh hồn bằng thi tập Ánh Sáng Và Phù
Sa.
Đọc Ánh Sáng Và Phù Sa ta có thể thấy, ngay từ ngày đầu đến
được với Đảng CS, Chế Lan Viên hả hê, sung sướng và thốt lên, đảng là
cha là mẹ, một lần nữa đã tái tạo ra ông. Thật vậy, có lẽ khó tìm
ra một nhà văn, nhà thơ nào yêu đảng hơn Chế Lan Viên:
“…Tôi đứng dưới cờ, đưa tay tuyên thệ
Trên đất quê hương mang hình bóng mẹ
Ngỡ chừng như vừa sinh lại lần đầu
Đảng trở thành nơi cắt rốn chôn rau”
(Kết nạp đảng trên quê mẹ)
Và trước đảng, Chế Lan Viên như một con chiên ngoan đạo. Ông dằn
vặt, mặc cảm với quá khứ và luôn tìm cách từ bỏ, rũ sạch nó.
Chúng ta hãy đọc lại hai đoạn thơ so sánh trong cùng bài Ngoảnh Lại
Mười Lăm Năm, tặng và ngợi ca Tố Hữu, cũng như bản tự dày vò kiểm
thảo, để thấy rõ sự sám hối của Chế Lan Viên trước đảng thành
thật, sâu sắc biết nhường nào:
“Anh thấy trước ngày mai
Cờ hồng treo trước ngõ…
Giữa nhà lao bóng phủ
Tìm đường cho lịch sử
Qua hai hàng cùm xai
Tôi nhìn ra tha ma
Hay quay vào trang sách
Ôi! dân Chàm nước mắt…
Khi đã buồn hiện tại
Thì quay về tháp xưa”
Có lẽ, hơn một lần tôi đã viết, dù bất kỳ chế độ xã hội nào,
kể cả những nước tân tiến dân chủ như Âu-Mỹ cũng luôn cần có những
văn nghệ sỹ đối lập với chính phủ đương thời, nhằm dự báo, và chỉ
ra những yếu, khuyết điểm, thúc đẩy xã hội tốt hơn nữa. Nhưng sống
trong một chế độ xã hội quản lý con người bằng chiếc dạ dày, bao tử,
thì không chỉ Chế Lan Viên mà dường như nhà thơ, nhà văn nào cũng
vậy, không ít thì nhiều cũng phải úp mặt xuống, xoay ngòi bút của
mình. Một người được cho là chí khí như Hữu Loan, trước khi về quê
thồ đá, ông có đến ba bài tụng ca đảng và lãnh tụ. Đoạn trích dưới
đây trong bài Chờ Đội Về được Hữu Loan viết và in vào tháng 2-1956
trên báo Văn sẽ chứng minh điều ấy. Từ đó, người đọc hiểu thêm, dù
cách tân hay với hình thức nghệ nào đi chăng nữa, dạng những bài này
của tác giả Màu Tím Hoa Sim chỉ dừng lại ở mức vè không vần mà
thôi:
“— Ai đã về quê tôi?
Nước sông Hồng
Quanh năm
Chảy mật
Ruộng hai mùa
Mông mênh biển vàng
Nhưng bần cố nông
Vẫn là những kẻ
Mất thiên đường
Lang thang
Trong hỏa ngục.
Vải ấm Đảng cho
Bần cố nông
Không được mặc
Gạo no Đảng cho
Bần cố nông
Không được ăn
Địa chủ
và tay chân
Đem bán chia nhau…”
(Nguồn nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân)
Có một điều đặc biệt, và phải nó thẳng, từ ngày có Đảng CS, có
hội nhà văn cho đến thời Hữu Thỉnh, Nguyễn Quang Thiều hiện nay, không
ai viết ca ngợi đảng và lãnh tụ hay, tài tình bằng Chế Lan Viên.
Ngày 7-5-1954 vừa kết thúc chiến dịch Điện Biên, Chế Lan Viên đã viết
ngay bài “Bữa Cơm Thường Trong Bản Nhỏ” rất kịp thời chào đón đảng và
bác Hồ trở về thủ đô. Qủa thật, bắt đúng nhịp, hòa vào dòng thác
cách mạng như Chế Lan Viên không mấy người làm được. Xét về mặt nghệ
thuật, đây là bài thơ song thất lục bát hay so với các tác giả khác
có chung một đề tài. Tầm tuổi tôi, ở miền Bắc, chắc chắn hồi học
cấp 2, ai cũng phải học thuộc lòng bài này:
“…Từ có Bác cuộc đời chợt sáng
Bát cơm no ngày tám tháng ba
Cơm thơm ăn với cá kho
Công đức Bác Hồ bản nhớ nghìn năm
Bác thương dân chăm ăn chăm mặc
Em đi chợ đồng bằng bán hạt sa nhân
Tháng giêng thêu áo may quần
Tháng hai trẩy hội mùa xuân hãy còn…”
Nếu “Bữa Cơm Thường Trong Bản Nhỏ” viết theo thể thơ cổ điển song
thất lục bát, thì đến với “Người Đi Tìm Hình Của Nước” được Chế
Lan Viên viết theo thi pháp, thể loại mới. Một bài khóc hay, đầy hình
tượng ngợi ca lãnh tụ Hồ Chí Minh khi qua đời. Cùng thời điểm đó Tố
Hữu cũng nấc lên với bài Bác Ơi, được giới phê bình đánh giá cao,
và sau đó đã đưa vào giáo trình giảng dạy cho học sinh phổ thông.
Nhưng với tôi, bài thơ này của Tố Hữu thiếu hình ảnh, hình tượng,
nặng về kể lể, như người khóc thuê trong đám ma vậy. Thật vậy, cùng
một tiếng khóc, nhưng nông, sâu cũng khác nhau xa lắm. Chúng ta hãy
đọc lại hai đoạn trích dưới đây, để thấy tiếng khóc của Chế Lan Viên
lặn vào trong, khác với tiếng khóc của Tố Hữu như thế nào nhé:
“Bác chẳng buồn đâu, Bác chỉ đau
Nỗi đau dân nước, nỗi năm châu
Chỉ lo muôn mối như lòng mẹ
Cho hôm nay và cho mai sau…”
(Tố Hữu)
“Luận cương đến Bác Hồ. Và Người đã khóc
Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lênin
Bốn bức tường im nghe Bác lật từng trang sách gấp
Tưởng bên ngoài, đất nước đợi mong tin”
(Chế Lan Viên)
Đến với đảng, Chế Lan Viên không chỉ học và viết được những lời
ngợi ca, tụng ca, mà ông còn biết chửi. Tiếng chửi của ông đanh đá,
và chua ngoa, không khác mấy bà già quê vén váy quay cuồng, khi bị
mất cắp gà. Hai đoạn trích dưới đây trong bài Hoa hồng trong bệnh
viện và Tiếng hát của thằng điên trong Dinh Độc Lập, được in trong
tập Ánh Sáng Và Phù Sa. Nhưng tôi nghĩ, nó hoàn toàn không phải là
thơ:
“Bọn giặc chó miền Nam, bay đã uổng!
Cắt thịt da ta, không cắt nổi nụ cười!
Cả chế độ miền Nam bay sụp xuống
Khi thành đồng đã đến lúc vươn vai
—
Bắt lấy con chó điên trong dinh Độc Lập!
Bắt lấy con thú điên trong dinh độc lập!
Bắt cả tớ thầy treo lên cành cây
Thằng Diệm chết. Thằng Mỹ thì cút ngay”
Có hai câu thơ kết trong bài Cho Uống Thuốc: “Bên ni biên giới là
nhà/ Bên kia biên giới cũng là quê hương” được Chế Lan Viên viết khi
đang chữa bệnh ở viện lao của Trung Quốc vào tháng 6- 1954. Bài thơ
này, ông viết tặng cô y tá, trước khi về nước, tỏ lòng tri ân, vì đã
được chăm sóc ân cần như người ruột thịt. Dù ở Trung Quốc mà cho ông
cảm giác như đang ở Việt Nam với gia đình, quê hương làng xóm vậy. Và
cái cảm giác ấy, xuyên suốt cả bài được tổng kết bằng hai câu thơ
trên. Tuy nhiên, muốn hay không trong giai đoạn đó, cũng buộc Chế Lan
Viên phải lồng chính trị, bằng hình ảnh bác Hồ, bác Mao của ông vào
bài, nhưng đó chỉ là bên lề. Do vậy, có một số người đọc đã hiểu
lầm, hoặc chỉ đọc hai câu kết này, rồi kết luận, chụp mũ Chế Lan
Viên bán nước. Kinh hơn nữa, nhiều người còn cho rằng, hai câu thơ trên
của Tố Hữu, và cứ dựng ba đời nhà ông ấy ra chửi. Viết ra điều
này, không có có nghĩa là tôi binh che, hoặc bới móc. Bởi, cuộc sống
hay trong văn thơ cũng vậy, viết, hoặc đánh giá rất cần có một sự
sòng phẳng.
Có thể nói, Chế Lan Viên là người ham đọc và nghiên cứu. Đến với
Ánh Sáng Và Phù Sa ông mở rộng đối tượng, không gian sáng tạo, cũng
như thay đổi hoàn toàn thi pháp. Tuy được nhuộn đỏ tâm hồn, nhưng tình
yêu quê hương đất nước, tình yêu đôi lứa vẫn chiếm vị trí quan trọng
trong thơ ông.
Thật vậy, tuy mang tính thời sự, nhưng Tiếng Hát Con Tàu là bài
thơ trữ tình hay và điển hình nhất của Chế Lan Viên vào những năm
đầu hòa bình. Và cùng với Lên Miền Tây của Bùi Minh Quốc, bài thơ
này đã góp phần không nhỏ kêu gọi, minh họa cho phong trào khai hoang
kinh tế, tàn phá rừng đầu nguồn Tây Bắc của đảng, dẫn đến những cơn
lũ kinh hoàng, gây bao tang tóc cho đất nước con người.
Ngay đầu thập niên sáu mươi, dường như ít nhiều Chế Lan Viên đã
chịu ảnh hưởng thi ca Nga, đặc biệt phương pháp luận làm mới, lạ
hình tượng trong sáng tạo của Mikhail Mikhailovich Bakhtin. Từ những lẽ
đó, ta bắt gặp hình ảnh so sánh, liên tưởng độc đáo không chỉ xuyên suốt
Tiếng Hát Con Tàu, mà còn trên cả thi tập Ánh Sáng Và Phù Sa:
“Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc
Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương.”
Nếu ở Điêu Tàn, ma quỷ sọ người lơ lửng cùng Chế Lan Viên dắt nhau
vào cõi hư vô, thì đến Ánh Sáng Và Phù Sa, bằng biện pháp tu từ so
sánh ấy, đã kéo ông trở về với cõi thực, cõi của con người. Và sự
kết nối giữa tư tưởng và nghệ thuật đó đã mở ra trong thơ Chế Lan
Viên:
“Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa”
Cảm xúc là điều cần cho một thi sĩ, nhưng mở ra được những suy
tưởng, để rồi cô lại thành những triết lý đưa vào trang thơ, quả
thật không phải ai cũng làm được. Đọc Ánh Sáng Và Phù Sa, ta có thể
thấy tính triết lý đan vào trong mỗi câu thơ Chế Lan Viên: “Khi ta ở
chỉ là nơi đất ở/ Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”. Và từ đó, nhà thơ đã
nhìn ra tính triết lý, qui luật tình yêu, nằm trong mối quan hệ mật
thiết giữa vụ trụ và con người. Khoảng Cách là một bài thơ như vậy,
và nó như được chiết ra từ trí tuệ bậc thày của Chế Lan Viên. Đôi
khi đọc nó, tôi cứ ngỡ là định luật trong vật lý, toán học vậy:
“Khi em xoay lưng lại với anh
Hai đứa cách nhau một vòng quay trái đất
Khi hai đứa mắt đã soi trong mắt
Thì không gian còn khoảng cách nào đâu”
Dường như Chế Lan Viên viết thơ tình không nhiều? Có thể nói, cùng
với Tiếng Thu của Lưu Trọng Lư, Ông Đồ của Vũ Đình Liên, Em Đi Chùa
Hương của Nguyễn Nhược Pháp, và Khi Chưa Có Mùa Thu của Trần Mạnh
Hảo… Tình Ca Ban Mai của Chế Lan Viên là một bài thơ tình hay nhất ở
thể ngũ ngôn của thi ca đất Việt. Ngoài cấu trúc chặt chẽ, với cặp
đôi và khoảng cách cân xứng, ta còn thấy Tình Ca Ban Mai có từ ngữ
sang trọng, sáng và đẹp. Và vẫn phép hình tượng so sánh làm cho bài
thơ e ấp, ẩn chứa mà lung linh đến kỳ lạ. Với tôi, đây là bài thơ
toàn bích nhất của Chế Lan Viên được viết trong thời gian này:
“Em đi, như chiều đi
Gọi chim vườn bay hết
Em về tựa mai về
Rừng non xanh lộc biếc
Em ở, trời trưa ở
Nắng sáng màu xanh tre
Tình em như sao khuya
Rải hạt vàng chi chít
Sợ gì chim bay đi”
Có thể nói, giai đoạn từ sau 1945 đến khoảng những năm gần cuối
của cuộc đời, tâm hồn của thi sĩ Chế Lan viên được ngăn đôi. Bên thì
đanh đá, chua ngoa, bên thì nhẹ nhàng, sâu thẳm. Âu đó cũng là cái mâu
thuẫn chung của các văn sĩ chỉ được phép đi trên một con đường đã
vạch sẵn vậy.
Lời sám hối muộn màng
Tôi tin rằng, sau Nhân văn giai phẩm, và nhất là sau 1975 một con
người nhạy cảm như Chế Lan Viên, chắc chắn đã nhận ra cái cùng đường
tịt lối của đất nước, cũng như thân phận bèo nhèo, bạc nhạc của
người cầm bút. Và nếu đi chệch đường rày, vượt ra khỏi cái vạch
chỉ đường, thì khoảng cách đến với con ma Hời rất gần. Không vượt
qua được cái dạ dày và một chút đặc quyền, danh vọng, nên Chế Lan
Viên vẫn cần mẫn làm cái loa phường cho đến những năm hưu trí cuối
đời. Âu đó cũng là chuyện thường tình của con người.
Theo cách nói của dân chè chén vỉa hè, Di cảo thơ chủ yếu ra đời
khi Chế Lan Viên đã hết đát, trở về với nồi cám heo của mình. Và
ông cũng là người mở đường cho những Nguyễn Đình Thi với Gió Bay, Nguyễn
Khải với Đi Tìm Cái Tôi Đã Mất sau này. Tuy có chút muộn màng, nhưng đó
cũng là điều đáng kính, đáng trọng, không phải văn nghệ sĩ nào cũng
đủ can đảm làm được.
Di cảo gồm bốn phần chủ yếu ghi về những điều vụn vặt, nhưng mang
triết lý sống như răn mình, răn đời vậy. Đọc nó, dường như cho ta cảm
giác Chế Lan Viên đang đi gần đến Phật pháp, cởi mở tâm hồn hơn. Tuy
nhiên, với tôi, có bốn bài giá trị, làm rung động lòng người nhất:
Chiếc bánh vẽ, Ai Tôi, Trừ đi, và Tháp Bay-on bốn mặt. Có thể nói,
đây là bốn bài thơ không chỉ là lời sám hối, mà còn là những lời
cáo trạng của Chế Lan Viên ở giai đoạn cuối đời. Có nhà phê bình cho
rằng, viết xong những tác phẩm này, ông đã trút được gánh nặng mang
trong mình từ mấy chục năm qua. Nhưng tôi không nghĩ như vậy. Làm gì
nhẹ nhàng, và dễ dãi đến thế, chí ít là đối với Chế Lan Viên, khi
đang quay trở về làm người thi sĩ đích thực. Tuy nhiên, tôi nghĩ, trong
giai đoạn cuối đời này, Chế Lan Viên chưa bốc hẳn được con ma Hời, ma
xó thứ hai này ra khỏi linh hồn, nhưng ít nhất ông tự thú nhận ra
bản chất, và cũng có thể sẽ đi đến đoạn tuyệt với nó.
Những câu hỏi và tự trả lời này, không phải đến khi Chế Lan Viên
viết Ai Tôi? mà có lẽ nó luẩn quẩn trong ông từ bấy lâu rồi. Và lời
độc thoại ấy là một trong những thủ thuật, Chế Lan Viên làm cho
người đọc thoạt tưởng như một lời thú tội của riêng mình. Nhưng đằng
sau nó là sự vạch mặt, phơi bày tội ác của những kẻ quyền hành cao
nhất đã gây ra chiến tranh và trận chiến Mậu Thân này. Bởi, ai cũng
có thể hiểu rằng, cá nhân người thi sĩ không quyền lực trong và sau
cuộc chiến, dám đứng lên nhận trách nhiệm, thì nhân cách nào cho
những kẻ có quyền lực cao nhất?
Vâng! Đó là cái tát rất hiếm hoi vào mặt những kẻ có trách
nhiệm vào thời điểm đó của Chế Lan Viên, cũng như bộc lộ lòng nhân
đạo của con người đối với con người:
“Mậu Thân, 2000 người xuống đồng bằng
Chỉ một đêm còn sống sót có 30
Ai chịu trách nhiệm về cái chết 2000 người đó ?
Tôi !
Tôi – người viết những câu thơ cổ võ
Ca tụng người không tiếc mạng mình
trong mọi lúc xung phong
Một trong 30 người khi ở mặt trận
về sau mười năm
Ngồi bán quần trên đường nuôi đàn con nhỏ
Quán treo huân chương đầy mọi chỗ
Chả Huân chương nào nuôi được người lính cũ !
Ai chịu trách nhiệm vậy ?
Lại chính tôi!…”
Giai đoạn này Chế Lan viên chủ yếu viết theo thể tự do, ông để
những câu thơ chảy theo những cảm xúc tự nhiên của mình. Trừ Đi là
một bài thơ hay và tôi thích nhất trong thời gian này của Chế Lan
Viên. Ông thẳng thừng xổ toẹt tất tần tật những thứ thơ văn bồi bút
của mình, bởi: “Cái cần viết vào thơ, tôi đã giết đi rồi!/ Giết một
tiếng đau, giết một tiếng cười”. Nhìn vào chiều dài lịch sử văn hóa
Việt, ta có thể thấy: Với người Việt, làm ra lỗi thì dễ, nhưng nhận
lỗi thì khó lắm thay. Ba mươi năm trước Chế Lan Viên sám hối, nhận
lỗi và xổ toẹt như vậy, quả thật là một sự dũng cảm. Và tuy ông
viết cho hậu nhân mà như thể răn lòng mình vậy:
“Sau này anh đọc thơ tôi nên nhớ
Có phải tôi viết đâu ? Một nửa
Cái cần viết vào thơ, tôi đã giết đi rồi!
Giết một tiếng đau, giết một tiếng cười,
Giết một kỷ niệm, giết một ước mơ.
Tôi giết cái cánh sắp bay…
trước khi tôi viết
Tôi giết bão táp ngoài khơi
cho được yên ổn trên bờ…”
Dù Chế Lan Viên có tự ví mình là Tháp Bay-on bốn mặt, hoặc muôn
mặt đi chăng nữa, ta cũng chỉ nhận ra một thi sĩ đích thực Chế Lan
Viên và một Chế Lan Viên gác cửa văn hóa văn nghệ của đảng, khác nữa
mà thôi. Và chính Di cảo thơ của ông đã cho tôi thêm cảm hứng viết
bài này. Nói dại, nếu Chế Lan Viên không có những Di cảo thơ cuối
đời này, thì ông mãi mãi là kẻ gác cửa, thì chẳng đáng tiếc cho
một thiên tài lắm sao.
Có thể nói, cuộc đời và sự nghiệp văn thơ của Chế Lan Viên được
chia thành ba giai đoạn: Phong trào thơ mới, cùng với thi tập Điêu Tàn,
đến cầm canh gõ nhịp, tụng ca, minh họa từ sau 1945, và những Bản
cảo sám hối đã và chưa được xuất bản. Ba giai đoạn ấy, cũng là ba
tiếng khóc bi – bỉ – hận trong thơ cũng như con người Chế Lan Viên.
Tôi viết bài này, theo đề nghị của ông bạn thời trẻ trâu. Hắn
được học hành đến nơi đến chốn, và đang giảng dạy văn học hiện đại
ở một trường đại học. Trên bốn chục năm không gặp, hôm rồi vô tình
hắn đọc được bài viết về nhà thơ Đinh Hùng, và Vũ Hoàng Chương của
tôi, rồi nhận ra nhau qua Fb. Hắn bảo, vẫn đang nghiên cứu về thơ tiền
chiến, nếu được tôi viết một bài về Chế Lan Viên, xem đánh giá, suy
nghĩ của người Việt ở nước ngoài như thế nào. Giời đất, một kẻ cả
ngày úp mặt vào chảo như tôi, mà phải để ông Phó quan tâm thế này.
Được thôi, nhưng tôi đọc thật, viết thật đấy, có khi xát ớt vào đít
nhau thì bỏ bà. Tôi trả lời vậy. Hắn cười bảo, rất cần như thế…
Và trên đây là những suy nghĩ chủ quan của tôi về nhà thơ Chế Lan
Viên, có thể không đúng. Nhưng dù sai hay đúng, tôi hy vọng, nó đóng
góp được một phần nào đó, để làm sáng tỏ chân dung một nhà thơ tài
năng và cũng đầy mâu thuẫn này.
Leipzig ngày 27-3-2017
Đỗ Trường