Trong giai đoạn 1975-2015 tại Bắc Mỹ, giới phụ nữ gốc Việt
viết sách không nhiều, nhưng cũng chẳng ít.
Về nghiên cứu, có tác phẩm của giới
giáo sư đại học như Hue-Tam Ho Tai (1983, 1992, 2001) Kim N. B. Ninh (2002),
Nguyễn-võ Thu-hương (2008), Lan P. Duong (2012), giới sinh hoạt cộng đồng như
Ngô Thị Hiền (2001), giới văn học như Thụy Khuê (1996, 1998, 2002, 2005, 2012)
và Lê Quỳnh Mai (2004)...
Giới phụ nữ viết hồi ký cũng thuộc
nhiều thành phần khác nhau, hoạt động chính trị như Nguyễn Thị Ngọc Hạnh
(2001), Trần Thị Hoa tự Phấn (2002), cựu quân nhân VNCH như Cao Mỵ Nhân (1994),
Nguyễn Thanh Nga (2001), văn thi sĩ nhà báo như Nhã Ca (1991), Nguyễn Huỳnh Mai
(1995), giới giáo dục như Jackie Bong-Wright (2001), Lucy Nguyen-Hong-Nhiem
(2004), công chức trong chính phủ Hoa Kỳ như Yung Krall (1995), Duong Van Mai
Elliot (1999), hôn nhân dị chủng như Nguyễn Thị Thu Lâm (1989), Le Ly Hayslip
(1989, 1993), Thanh Sung (1996, 1998), và nội trợ như Thu Tâm (1996), Huỳnh Thu
Thảo (1999)...
Tất cả những tác giả nêu trên sẽ có
mặt đầy đủ trong Sử Việt Tại Bắc Mỹ (1975-2015), một dự án dài hơi của tôi. Bài
sau đây là một trích đoạn ngắn trong dự án.
Năm 2004 xuất hiện A Dragon
Child: Reflections of a Daughter of Annam in America (Lincoln, iUnivers,
Inc. xb, 2004, 151 tr.)
Nhìn bià sách là tôi thấy ngay tác
giả của nó, Lucy Nguyen-Hong-Nhiem, khác người Việt chúng ta. Thứ nhất, đến thế
kỷ XXI rồi mà vẫn còn mơ màng những ngày "huy hoàng" khi thực dân
Pháp cai trị Việt Nam. Tác giả sinh năm 1939 thì miền Trung khi ấy nhà cầm
quyền Pháp định danh là Annam thì đúng rồi. Nhưng thời thế đã đổi thay. Sau 65
năm (2004-1939) từ khi tác giả sinh ra đời và nước Việt đã được độc lập hơn 59
năm (2004-1945) thì làm gì còn cái gọi là "Annam" nữa?
Thứ hai, tác giả tự xưng tên là
Nguyen-Hong-Nhiem! Trong Việt ngữ, làm gì có cái tên lạ lùng với hai gạch nối
và không có dấu như thế? Đây rõ ràng là chi tiết cố tình của tác giả, vì
ngay trong những trang kế tiếp, tên người Việt vẫn được Lucy Nguyen-Hong-Nhiem
ghi đầy đủ dấu trong cả một danh sách dài những thân nhân của bà ta dù còn sống
hay đã quá vãng. Như cha mẹ tác giả là Nguyễn Đức Thành và Quách Thị
Dậu, như các anh chị em là Nguyễn Thị Hồng Ái và Huỳnh Kim Miên
ở San Jose, Nguyễn Đức Mầu ở Long Beach, Nguyễn Đức Bửu và Trần
Lệ Nữ ở Randolph, Nguyễn Đức Ấn và Nguyễn Ngọc Tú ở Việt
Nam...
Nội dung sách này rất lạ, phổ lộ
tính cách của một người phụ nữ Việt Nam có thể "thông minh và có trí
nhớ tốt" như tác giả tự khoe, nhưng hoàn toàn là sản phẩm của nền giáo
dục Pháp đến độ vong thân ngay trên quê hương mình.
Sách cũng là nơi Lucy
Nguyen-Hong-Nhiem viết...bậy! Trong lịch sử hiện đại của Việt Nam đúng là có
nhân vật tên Võ Văn Kiệt. Đó là một cán bộ cấp lãnh đạo của Cộng Sản Việt Nam,
từng nắm vai trò Thủ Tướng nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Sau ngày
30.4.1975, Võ Văn Kiệt từng làm bí thư thành ủy thành phố Sài Gòn đã đổi tên.
Chính ông ta đã can đảm nói lên sự thật, là hàng năm mỗi dịp 30.4 đến thì có
hàng triệu người vui và hàng triệu người buồn. Chính Võ Văn Kiệt có lòng tốt
cứu giúp nhiều người trong giới trí thức Sài Gòn cũ. Thời ông ta làm bí thư Sài
Gòn, mỗi khi có thành viên nào của Hội Trí Thức Yêu Nước... Ngoài (trụ sở ở
đường Nguyễn Thông, Quận Ba) vượt biển bị Công An bắt thì ông ta cho người tìm
cách cứu ra. Cũng chính ông ta đã áp dụng chính sách cởi mở khiến dân Sài Gòn
đỡ khổ dưới chế độ Cộng Sản.
Nhưng Võ Văn Kiệt chưa học hết bậc
tiểu học! Vậy mà nơi trang 55, Lucy Nguyen-Hong-Nhiem đã nâng họ Võ lên thành
"Dr. Võ Văn Kiệt," và thêm chi tiết như thật, nguyên văn: "was
knowledgeable and competent, but at the same time very caring and attentive to
his students' needs." Đó là khi, theo Lucy Nguyen-Hong-Nhiem, Võ Văn
Kiệt dạy bà ta. Còn ngoài xã hội, thì Võ Văn Kiệt, nguyên văn cũng nơi trang
55, "Twenty years after, I learned he became Prime Minister of North
Vietnam." Tôi ghi lại vài đoạn nguyên văn trong sách mà không dịch
sang Việt ngữ vì lời lẽ của tác giả do sự hoang tưởng nên không có giá trị gì
hết.
Tôi biết chắc chắn khi Lucy Nguyen-Hong-Nhiem
học Ban Pháp Văn trường Đại Học Sư Phạm Sài Gòn hồi đầu thập niên 1960 thì bà
ta chỉ có ông thầy tên là Võ Văn Luá mà thôi. Đúng không?!
Võ Văn Luá người miền Nam, thân hình
còm hom, thường mặc complet trắng khi dạy học. Ông này tỏ ra khó khăn với học
trò, nên sinh viên bảo nhau vào vấn đáp mà gặ̣p ông Luá là luá rồi. Đúng
không?!
Ông thầy này cũng chính là một
cán bộ Cộng Sản nằm vùng. Nhưng chỉ sau biến cố Mậu Thân 1968 ông ta mới bỏ Sài
Gòn vào bưng theo Việt Cộng cùng vài người nữa, như sinh viên Ban Việt Hán Trần
Triệu Việt (tôi không nhớ rõ tên họ anh này là Việt hay Luật). Sinh viên Việt
thì bị bom của pháo đài bay B-52 mà chết. Còn ông thầy Võ Văn Lúa tôi có để ý
nhưng không hề thấy tăm hơi. Có lẽ cũng đã theo anh sinh viên tên Việt lâu rồi.
Vì thế, khi Lucy Nguyen-Hong-Nhiem
viết là "We all loved him. But one day, he did not come to class. Since
we cared about him, we were worried..." là viết sai viết bậy vì nơi
trang 56, tác giả cho biết bà ta đã tốt nghiệp trước đó năm (5) năm rồi, vì dạy
môn Pháp Văn tại nữ trung học Lê Văn Duyệt từ tháng 9.1963 mà!
Trong thời gian dạy học tại trường
Lê Văn Duyệt, tác giả kể lại chuyện dẫn học sinh đi thăm bệnh nhân tại một bệnh
viện nhà binh. Tác giả không cho biết tên bệnh viện ấy, nhưng tác giả tả lại
khi đến nơi thì thấy trên hành lang quanh bệnh viện là những quân nhân người Mỹ
"mắt xanh tóc vàng" chừng 19, 20 tuổi ngồi trên xe lăn, người
cụt chân kẻ cụt tay. Còn ngoài đồng trống gần đó, là hàng hàng lớp lớp những
quan tài (lines and lines of coffins) phủ cờ VNCH bên cạnh là những nhóm
phụ huynh và những cô dâu tuổi vị thành niên (teenage brides) đau buồn
khóc lóc. Đây là đoạn văn chiếm nửa trang 59 với tiêu đề "Wounded
Americans and Vietnamese Coffins."
Tôi dám chắc hình ảnh tác giả kể lại
trên đây là hoàn toàn bịa đặt. Nó không bao giờ xảy ra tại Việt Nam Cộng Hoà
trước tháng Tư năm 1975. Trong thời chiến tranh, quân nhân Mỹ và Đồng Minh bị
thương có bệnh viện riêng, quân nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà có bệnh viện
riêng. Làm gì có nhà thương hỗn hợp Việt Mỹ nào mà nơi này đông đảo những lính
Mỹ bị thương ngồi xe lăn và nơi kia là hàng hàng lớp lớp những quan tài lính
Việt?!
Tất cả những ai đã sống ở Sài Gòn và
có mắt nhìn đều biết đều thấy như thế. Tại sao một kẻ đã lớn tuổi có chồng có
con, lại có học chứ không phải vô học, mà tô vẽ ra chuyện như thế?
Xuất thân là giáo sư tốt nghiệp đại
học sư phạm và hành nghề lâu đến 12 năm (1963-1975) như tự khoe trong sách,
nhưng Lucy Nguyen-Hong-Nhiem tỏ ra ngây ngô về những chuyện trong ngành Giáo
Dục. Như chuyện nữ hiệu trưởng trường trung học Lê Văn Duyệt ở Gia Định chán
nản vì áp lực địa phương nên từ chức. Mà từ chức để nhận chân giáo sư tại
trường nam trung học Hồ Ngọc Cẩn cũng ở Gia Định. Trong hệ thống giáo dục VNCH,
khi nào hiệu trưởng có lỗi mới mất chức và trở lại làm giáo sư dạy lớp, chớ
không ai tự ý từ chức hiệu trưởng một trường nữ trung học xuống làm giáo sư,
lại là giáo sư ở một trường nam trung học bên cạnh. (Từ cổng trường Lê Văn
Duyệt rẽ trái đi đến cuối đường nơi có Toà Tỉnh Trưởng Gia Định, rẽ phải qua
chợ là trường Hồ Ngọc Cẩn ở trước mặt, phiá tay trái.) Rồi khi dạy học bị học
sinh hỗn láo -cứ cho lời ghi trong sách là đúng đi- mà Bộ Quốc Gia Giáo Dục
VNCH vẫn không cho đổi trường thì rõ ra người cựu hiệu trưởng này bị mất chức
hơn là từ chức.
Sự ngây ngô của tác giả khi ghi nhận
sinh hoạt học đường thời Việt Nam Cộng Hoà trở thành sự xúc phạm cả một tập
thể, khi tác giả viết rõ trên giấy trắng mực đen chi tiết trong ngày đầu tiên
đến dạy ở trung học Hồ Ngọc Cẩn, người cựu hiệu trưởng nói trên thấy cả lớp mà
bà ta phụ trách không ai chép bài học, học sinh nào cũng để tay trên đùi.
Khi hỏi thì một học sinh trong lớp mới nói, nguyên văn nơi trang 58: "We
are keeping our hands underneath our desks so we can fondle our pricks."
Câu nói bẩn thỉu này -không nên dịch làm bẩn mắt độc giả- phản ánh toàn thể
một lớp ở trung học Hồ Ngọc Cẩn Gia Định sao? Ai có thể tin cả lớp (nguyên
văn: "the class") mất dạy đến thế?
Hay đây là phát biểu của một phần tử
bất xứng trong giới giáo sư thời VNCH, vì xuẩn ngốc mà vô tình hay cố ý bêu
riếu cả một tập thể, tập thể học sinh trường trung học Hồ Ngọc Cẩn Gia Định nói
riêng và tập thể học sinh nói chung, trước các độc giả Mỹ, vốn không hiểu biết
gì về nền giáo dục Việt Nam Cộng Hoà?!
A Dragon Child: Reflections of a
Daughter of Annam in America là
một quyển sách mỏng 151 trang của một tác giả vô danh. Sách không đáng đọc vì
vô giá trị. Sách đề giá bán US$15.95 nhưng tôi mua đại hạ giá chỉ có US$3.75
tại nhà sách trên mạng điện tử Powells.com có trụ sở tại Portland,
Oregon.
Giá trị của sách nếu có, là giá trị
của một bằng chứng về bọn người mất gốc thời VNCH. Họ tuy cũng có da vàng mũi
tẹt nhưng thuộc nền văn hoá chuối, như người Mỹ đã tượng hình một cách khinh
bỉ. Vỏ chuối bên ngoài mầu vàng, nhưng trong ruột mầu trắng! Loại người này tuy
được sinh ra ở Việt Nam nhưng chạy tiền hay cậy chức để xin cho họ và con cái
vào học các trường do chính phủ Pháp mở ra ở Sài Gòn, Đà Lạt, và Nha
Trang.
Thực ra, đại đa số những người xuất
thân trường Pháp vẫn là người Việt, vẫn có tư cách và khả năng như bất cứ một
con dân đất Việt nào được cắp sách đến trường. Lên đại học, họ lại có lợi thế
hơn các học sinh trường Việt là họ giỏi sinh ngữ hơn. Nhưng bên cạnh đó là một
thiểu số mất gốc với não trạng nô lệ mà tác giả của sách này là một điển hình.
Trường hợp Lucy Nguyen-Hong-Nhiem
không những đã mất gốc, mà vong thân mất gốc đến hai lần.
Lần thứ nhất, là khi còn ở nơi chôn
nhau cắt rốn là Kontum đã mơ thành người Pháp. Nơi trang 33, tác giả cho biết
thuộc nhóm học sinh trung học "All spoke Frenh and were proud of
it." Nơi trang 59, tác giả mơ ước có đôi mắt xanh. Và đây là tuyên
ngôn của tác gia, nguyên văn nơi trang 36: "I... was so proud of being
"French," of "belonging" not only to the elite class in
Vietnam but, as we imagined ourselves, part of French "civilization."
Lần thứ hai, khi di tản sang Mỹ, tác
giả viết rõ là đã hoàn toàn đắm mình vào xã hội Mỹ chứ không còn là người Việt.
Nguyên văn lời của tác giả nơi trang 96: "... our forced but total
immersion in American society..." Đến những người con của tác giả,
cũng vậy, nguyên văn nơi trang 97: "... had also learned new ways of
thinking and behaving." Kết quả là gỉ? Là tác giả ly dị với người
chồng Việt Nam -đã có với nhau năm mặt con- chỉ sau một năm đoàn tụ tại Hoa Kỳ!
Lucy Nguyen-Hong-Nhiem viết hồi ức
bằng Anh ngữ nhằm độc giả là người Mỹ. Tối thiểu thì nhóm giáo sư ở đại học
University of Massachusetts, Anherst, gồm Thomas Cassirer, Marie-Rose Carre,
William Gugli, Ursula Chen, Nancy Lamb, Donald E. Gjertson, Nina M. Rose-Racine,
Joseph C. Marshall, Gloria de Guevara, Ann QuinleyKenneth W. Burnham, Joel M.
Halpern... và nhiều độc giả Mỹ khác nữa, đã hiểu đất nước và con người Việt Nam
qua sự hoang tưởng vô trách nhiệm của một cá nhân trong nền văn hoá chuối.
Chắc tác giả nghĩ rằng không có
người Việt nào tìm đọc, nên tự tung tự tác?
Bây giờ, nội dung của tập sách mỏng
mà đầy những sự bất thường này bị hé lộ ra ánh sáng thì tôi không biết phản ứng
của quí vị giáo sư và các cựu học sinh Lê Văn Duyệt thế nào, có ý kiến gì không,
về một phần tử còn nợ tập thể học sinh Hồ Ngọc Cẩn nói riêng, và tập thể học
sinh Việt Nam Cộng Hoà nói chung, một lời xin lỗi công khai?!
TRẦN ANH TUẤN
Tháng
4. 2017