
Memory lane
Ba bỏ Cà Mau đi, vài năm sau, má tôi sa sút một cách nhanh chóng. Những căn
nhà lần lượt bán. Tiền bạc cũng không đủ để nuôi một bầy con và bầy cháu ăn
không ngồi rồi. Chị Mau chỉ biết nấu nướng và chăm sóc cho từng đứa, là đã hết
thời gian trong ngày. Cuối cùng, chị đành kiếm chồng. Một ông lính trong sư
đoàn 21 thương chị, chịu đưa gia đình chị về Chương Thiện sinh sống. Chị Mau
đi, má thêm vất vả. Cái quán ế nhệ. Vì những cái quán mới mọc lên, bao vây
chung quanh. Vì rạp Huỳnh Long đóng cửa, người chủ rạp xoay qua kinh doanh cho
hàng không Air Việt Nam. Thất bại, má bán luôn cái quán, rồi dọn nhà tới sát
trại lính, pha cà phê kiếm sống. Khu trại lính này, ngày xưa là khu dinh điền
rộng lớn dưới trào Ngô Đình Diệm. Nay, trong chế độ của tướng lãnh, nó biến
thành trại địa phương quân, súng ống rợp trời.
Gia đình càng lúc càng kiệt quệ, túng quá, anh Hiệp tôi đành tới ban tuyển mộ,
đăng lính Biệt Động Quân. Trên Sài Gòn, anh Nghĩa tôi dở dang việc học, cũng
chui vào Thủ Đức. Em Báu tôi học chữ hết vô, xin má về tá túc với cô tôi, học
nghề điện ở Bạc Liêu. Pha cà phê cho lính, không dễ kiếm ăn. Đa số lính đều
uống ghi sổ, tới kỳ lương mới trả. Ban đêm ngủ cũng chẳng yên. Nửa khuya, họ
đổi gác, gõ cửa xin mua một ly cà phê đen. Những ly cà phê đen nhỏ nhoi, tính
lại, không đủ để nuôi tôi và thằng út ăn học, nên má làm thêm xíu mại bán cho
lính ăn sáng. Tôi lại phải dậy sớm, đi bộ đến lò bánh mì, quảy một bao bánh
trên vai, ba chân bốn cẳng chạy về cho kịp giờ đi học. Xíu mại má tôi làm rất
ngon. Ăn một chưa đã, muốn kêu thêm hai. Ăn hai, muốn trở lại ngày hôm sau để
gọi thêm phần nữa. Chiều nào, má cũng mua thịt về bằm lụp cụp. Xong, trộn thịt
với tiêu, tỏi, hành, bột ngọt…rồi vò từng viên tròn cho vào nước nêm, chưng
cách thủy. Trong lúc má bằm lụp cụp thì tôi ngồi học bài ở sau nhà. Cái bàn
tròn của ba để lại, nay là bàn học của tôi. Cái rương sách cồng kềnh của anh
Nghĩa, nay là chỗ ngồi để tôi ôn bài hay làm thơ. Thơ bắt đầu bộc phát từ đó.
Từ nỗi đau của gia đình. Từ những khoảng trống mà người thân bỏ lại. Sau này,
thơ thêm sắc thêm màu, nhờ bóng dáng trinh nguyên học trò, nhờ những tà áo dài
màu trắng phất phơ mỗi ngày. Nhờ Nguyệt, cô gái ở pharmacy Cà Mau, có lần tiễn
tôi ra bến xe đi thi tú tài, rồi khi xe bắt đầu chuyển bánh, nàng đã lẳng lặng
trao tôi một phong thư, trong đó có xấp tiền dày cộm. Nhờ Út, cô gái thề non
hẹn biển với tôi, và vẹn tròn khí tiết cho đến ngày tôi bỏ xứ không về.
Tôi rời xóm Huỳnh Long ra đi, như bỏ lại tuổi thơ dữ dội ở đó. Tôi về xóm
trại lính an cư, như nung đúc tuổi thanh niên vừa chớm, thêm sức sống cho đời.
Tôi biết nỗi bất hạnh đang vây lấy tôi. Tôi biết phiền muộn đang nẩy mầm trong
tôi, và sẽ tượng thành cây, thành trái độc dược. Tận dụng tất cả cố gắng, tôi
lao vào học. Học, học, học. Thế rồi, trời không phụ lòng người, tôi đậu trung
học đệ nhất cấp, đậu tú tài một và ôm luôn mảnh bằng tú tài hai. Ở Cà Mau, lúc
đó, không có hội đồng thi tú tài. Muốn thi, phải lên Cần thơ. Chiến tranh, bấy
giờ, đang hồi ác liệt. Quốc lộ 4, ban ngày quốc gia giữ, ban đêm việt cộng vào.
Họ vào để đắp mô, đặt mìn hoặc dựng cờ giải phóng. Xe đò bị trúng mìn, lật nhào
thường xuyên. Người chết, người bị thương cứ xảy ra không ngớt. Đoàn học sinh
đi thi, dù sợ, mỗi năm vẫn phải lên đường. Đầu óc non nớt của đứa trẻ bắt đầu
bám víu vào Trời Phật, như một cứu cánh của sự sống.
Trong lúc má tôi khổ sở bán nhà liên tu, thì được tin ba tôi yên bề gia thất
với một người đàn bà khác ở xóm Chùa Tân định. Xóm Chùa là xóm nghèo, tập trung
dân lao động tứ xứ, trong đó có những băng đảng, những tay anh chị khét tiếng ở
Sài Gòn. Cảnh sát ít tới đây dòm ngó, ngoại trừ lâu lâu có một cuộc hành quân
tổng hợp qui mô. Dựa thế, ba tôi trà trộn vào đó. Và nhờ sự giới thiệu của vợ
chồng anh hai Đạm, ba tôi được một người đàn bà ở đây đùm bọc. Sau này vì tình
nghĩa sâu đậm, cả hai đã kết thành vợ chồng. Ba tôi có với người này hai con
trai: Phạm văn Đức và Phạm Chính Hiền. Khi về phép thăm má, anh Nghĩa đã kể
lại, dì ấy rất hiền, có hai đứa con đều ra riêng, chồng mất đã lâu, nay gặp ba,
lo cho ba từng chút, nên rất mừng. Chính Dì và ba đứng ra làm lễ cưới cho anh
Nghĩa và chị Liên – người đã từng ở trọ nhà dì. Cưới xong, hai vợ chồng kéo
nhau về tá túc trong nhà má chị Liên ở Phú Nhuận.
Đậu tú tài hai, có thể, tôi sẽ học sư phạm, ra thầy giáo, về lại trường
trung học Cà Mau dạy học. Hoặc nộp đơn vào tòa hành chánh tỉnh làm công chức
sống qua ngày. Nhưng trước tình cảnh gia đình như thế này, tôi mặc cảm, không
thể vô tư làm việc ở tỉnh nhà. Tôi biết, má tôi đang mang một số nợ to lớn. Mặc
dù má giấu, nhưng qua cách nói chuyện với các bà hàng xóm, qua những giọt nước
mắt âm thầm trong đêm, tôi đã hiểu tất cả sự việc. Má tôi đã vay nợ cho tôi đi
thi hai lần tú tài. Tôi nhớ, khi lên Cần Thơ thi, thí sinh phải ở lại khoảng
tuần lễ hay mười ngày. Ai cũng mướn phòng trọ sớm, càng gần trường thi càng
tốt, vì dễ dàng cho việc đi lại. Chỗ càng gần càng đắt. Rồi phải mướn người nấu
cơm ngày hai bữa, cộng với một bữa ăn sáng. Nếu ra quán ăn, thí sinh tốn tiền
hơn và mất thêm thì giờ. Như vậy, số nợ má tôi vay không ít. Chắc chắn trả góp,
chủ nợ sẽ tính thêm tiền lời. Nghĩ tới nghĩ lui, tôi quyết định lên Sài Gòn
tiếp tục đại học. Khi tốt nghiệp, chắc chắn sẽ thay đổi hoàn cảnh, má sẽ không
bao giờ đau khổ nữa.
Tôi lên Bạc Liêu thăm Cô tôi, sẵn dịp thăm em Báu, trước khi rời Cà Mau.
Trong bộ quần áo nhem nhuốc dầu nhớt, Báu dẫn tôi ra quán cà phê tâm sự. Báu
nhắp từng ngụm cà phê, nhưng hút thuốc lia chia. Điếu này vừa tàn, chụp vội
điếu khác. Và cứ thế, mồi lửa, rít một hơi dài. Báu đen đúa thấy rõ, nhưng hai
bắp tay cộm lên, trông có vẻ khỏe mạnh. Tôi mừng, vì em đã có một nghề. Mà nghề
này, cô dượng và cả anh Đài tôi, hiện đang đi xe hơi, ở nhà lầu. Nhưng Báu lắc
đầu, em muốn đi lính, đó đây, để phóng tầm nhìn ra cuộc đời. Bó chân một chỗ,
hàng ngày nghe tiếng máy chạy nhức óc inh tai, em chịu không nổi. Tôi biết, đó
chưa phải là lý do chính để Báu rời khỏi đây. Cô dượng tôi không thích con
trai, nên rất khó với đám cháu trai. Khó, nhưng không ghét bỏ. Khó, vì muốn đứa
trai giống như đứa gái: hiền lành, dễ dạy và xinh đẹp. Có lần, má kể về cô tôi
với giọng điệu thương xót. Hai ông bà ao ước có đứa con gái, nhưng không bao
giờ có được. Biết rõ điều này, có một cô gái nhà quê vừa sinh xong, vội bồng
con đến, gạ bán cho cô tôi. Nhìn đứa bé gái dễ thương, ọ ọe trong vòng tay mẹ,
cô tôi chấp nhận ngay. Cô đặt tên đứa bé là Vân, rồi mướn vú nuôi, nâng niu như
trứng mỏng. Vân lớn lên như một tiểu thư, có kẻ hầu người hạ. Mỗi kỳ nghỉ hè,
dượng tôi chở đi du lịch Vũng Tàu hoặc Đà Lạt. Sống quen trong nhung lụa, Vân
êm ái trầm mình trong thế giới thượng lưu, không hề quan tâm đến những hoàn
cảnh cơ cực bên ngoài, kể cả cái quá khứ đau thương của Vân, lúc thiên hạ bàn
tán xôn xao.
Cô tôi có một căn nhà, nằm trong con hẻm trên đường Phạm ngũ Lão, ngang chợ
Thái Bình. Căn nhà hai tầng, phía trước có cây sứ, tới mùa rộ hoa, thơm ngát
một vùng. Căn nhà này dành cho dượng tôi nghỉ chân, khi ông lên Sài Gòn lấy
hàng về bán. Và cũng là nơi dành riêng cho Vân, khi nàng lên đại học. Không hẹn
nhau, tôi cũng lên đại học, cùng chung năm với Vân. Sẵn dịp, thấy hoàn cảnh bi
đát của má tôi, cô quyết định dành cho tôi một chỗ trong căn lầu đó, trong thời
gian đi học. Mừng quá, tôi vội thu xếp hành trang để đi Sài Gòn. Lần này, tôi
được ngồi máy bay Air Việt Nam, bởi số tiền cô cho và bởi quốc lộ 4 đầy mìn
bẩy, có thể nguy đến tính mạng. Hôm đó, má bận bán, Quí bận học. Chỉ có Út,
lặng lẽ tiễn tôi. Út ngồi xe lam, ra phi trường trước. Tôi qua chợ Cà Mau, leo
lên xe khách của Air Việt Nam, đi sau. Xe vừa đến cổng, tôi đã thấy tà áo bà ba
trắng của nàng, phất phơ trong phòng đợi. Xúc động quá, nhưng biết nói gì đây ở
tâm cảnh này? Chỉ có thơ. Thơ đang tượng hình trong tim, trong hồn. Những con
chữ đang nhào lộn cảm xúc, biến đột thành ngôn ngữ thi ca. Hãy để nó tự do, bay
nhảy và dẫn dắt.
Lên Sài Gòn, được ở nhờ nhà cô tôi, là vinh dự rất lớn cho tôi. Từ một tên
nghèo, nhà dột cột xiêu – tự dưng thành nhân số của ngôi biệt thự sang trọng.
Vui quá, tôi bắt đầu lêu lổng rong chơi trong thành phố mới mà nhịp sống mỗi nơi
mỗi vẻ, thôi thúc tuổi trẻ tôi khám phá và hòa nhập. Chua xót thay, niềm vui
chưa được bao lâu, nỗi buồn chợt kéo đến. Vân vai em tôi, vì cô tôi là em ruột
ba tôi. Nhưng Vân lúc nào cũng tỏ ra đàn chị, hoặc người chủ trong gia đình.
Sau khi thi rớt các chuyên khoa, Vân ghi danh vào khoa học, và bắt tôi phải
cùng học chung ngành với nàng. Tôi từ chối, vì tôi không thích khoa học, tôi
chỉ thích văn. Thế là, tôi và nàng bắt đầu có những dị biệt với nhau từ đó. Với
lại, trong nhà, chỉ có tôi là đàn ông, còn bao nhiêu là đám nữ sinh ở Bạc Liêu
lên trọ học, cộng với một người vú nuôi, cũng là đàn bà. Bơ vơ giữa vườn hoa
đầy quyến rũ, tôi cảm thấy sợ sệt, sợ mất đi những hơi hướm tình yêu mà tôi đã
thật thà trao hết cho Út. Nghĩ thế, tôi vội vàng xách hành lý, âm thầm qua Gia
Định sống với đám bạn bè Cà Mau, lên đây trọ học ở xóm Cầu Mới. Căn nhà lá chật
hẹp, chứa sẵn ba thằng: Thượng, Dân và Quyên. Nay có thêm tôi, nhường nhau,
cũng vừa vặn. Nhà chỉ có một cái giường, Thượng và Dân đã chiếm trước. Quyên
đành trải chiếu dưới đất làm giang sơn của nó, bây giờ lại đành chia tôi một
nửa. Cửa nhà quay ra một lối đi nhỏ, bên cạnh con mương đen ngòm, lúc nào cũng
bốc lên mùi sình hinh hỉnh. Mùi này làm tôi nhớ đến mùi kinh mười sáu, một mùi
hinh hỉnh thân quen đã cùng hòa quyện với tôi trong suốt thời trung học. Cái
mùi bắt đầu vọng vào mũi, vào tim, vào ký ức tôi – từ lúc má tôi dời nhà về bên
bờ kinh, kề bên trại lính để bán cà phê. Vì thế, ở đây, ăn chay nằm đất với
bạn, tôi thấy ấm áp và dễ chịu, hơn là sống lạnh lùng trong ngôi biệt thự mênh
mông, nhưng quá xa lạ và lẻ loi.
Nghe tin tôi rời nhà cô, anh Nghĩa tức tốc đi tìm em. Anh hỏi thăm các bạn
Cà Mau, lùng sục khắp nơi, cuối cùng gặp tôi, ngay trước cổng văn khoa. Hai anh
em lặng lẽ nhìn nhau, nước mắt lăn dài. Sau vài lời thăm hỏi, anh dắt tôi vào
tiệm phở, gọi cho một tô xe lửa. Lần đầu, ăn phở, ngon quá! Nước xúp béo ngậy,
cộng với mùi thơm của húng quế, ngò gai…làm bụng tôi vẫn còn cồn cào. Cà Mau,
không có tiệm phở. Chỉ có tiệm mì, hủ tiếu. Hoặc những gánh hàng rong ngoài
trời, có thêm: cháo gà, cháo lòng, bún nước lèo…Anh Nghĩa đã đãi tôi một bữa ăn
để đời. Đó cũng là một trong các lý do tôi tạc dạ ghi ơn anh. Trở lại Gia Định
trên chiếc PC50 của anh tôi, khi nhìn căn nhà ẩm thấp, lè tè bên góc mương –
anh Nghĩa bỗng lắc đầu quầy quậy. Không được, không được. Em phải về Phú Nhuận
với anh ngay. Ở đây, tù túng thế này, không học hành được đâu. Đi mau. Đừng
cãi.
Căn nhà anh chị Nghĩa Phú Nhuận cũng chẳng khác căn nhà ở Gia Định chút nào.
Cũng nhỏ nhoi, chật hẹp, đi ra đi vào phải lom khom như người bị lưng gù. Chỉ
có điều, nhà anh chị tôi sạch sẽ hơn, không có mùi hương bùn cỏ ngoại. Thật ra,
nhà này là nhà của má chị Liên. Bà ở đây từ lâu, ngày xưa chồng mất, bà đi làm
cho Pháp để nuôi hai con ăn học. Lớn lên, anh cả chị Liên tình nguyện vào
trường võ bị Đà Lạt. Xấu số thay, ra trường chỉ được vài năm, anh tử trận. Buồn
quá, chị Liên qua nhà dì tôi học thêu, và gặp anh tôi tại đó. Chỗ chật, cái
giường của anh chị tôi đã chiếm hơn một phần ba căn nhà. Phía dưới là nơi nấu
ăn. Người nấu, lúc nào cũng phải lom khom để khỏi bị đụng đầu. Chính giữa nhà,
có một tủ thờ cao. Trên đó, bà đặt di ảnh của chồng và con. Đêm nào, bà cũng
vái van, khói hương nghi ngút. Chỉ còn khoảng trống nhỏ, đủ cho bà mở chiếc
giường xếp nhà binh ra ngủ, khi đêm về. Còn tôi, mỗi tối, anh tôi dẫn qua ngủ
nhờ bên sân hiên cô hàng xóm. Sân hiên nhà giàu có khác. Trên cao là mái tole
che mưa nắng hai mùa. Xung quanh, hiên được bao bọc bởi một hàng rào bằng cây
vững chắc. Còn có một bộ ván đặt giữa hiên, dành riêng cho tôi nghỉ lưng. Còn
có đôi mắt trong veo của cô chủ nhỏ tên Lan soi mói, khi bốn vách mùng của tôi
chưa được gấp cẩn thận vào trong mép chiếu. Vài tuần sau, anh Nghĩa cảm thấy
không ổn, nên dẫn tôi đi mướn một cái gác trong khu nghĩa trang Phú Nhuận. Nhìn
sơ qua căn nhà, tôi đã sợ rùng mình. Bao quanh nhà, là hằng hà sa số những ngôi
mộ chập chùng. Trong nhà, cũng có vài nấm mộ đá, lâu đời. Nhưng, ở đây, vợ
chồng chủ nhân đã sống biết bao năm qua. Họ nói, họ chẳng bao giờ thấy bóng dáng
của con ma nào hiện ra quấy rầy? Họ nhường tôi một căn gác, trên đó chưa có
người ở, chỉ có một bàn thờ Phật, lâu lâu má của cô chủ đến thắp nhang. Anh
Nghĩa và tôi leo thang lên gác. Gác trống cheo leo. Bụi loang loáng ván. Phía
cuối, nổi bật một bàn thờ. Không thấy hình ông Phật nào trên đó. Chỉ có những
tấm giấy màu vàng, vẻ chữ hán đỏ ngầu như máu – giống như bùa – dán lung tung
lên vách.
Tôi hiểu, lương lính của anh Nghĩa đâu có bao nhiêu, nay gánh thêm tôi ăn
học, tội nghiệp cho anh chị biết chừng nào? Nghĩ vậy, tôi đành gật đầu chấp
nhận, mặc dù trong lòng không muốn ở nơi đây. Ngày tháng trôi qua, tôi vẫn nuốt
chữ một cách gượng gạo. Căn gác tồi tệ, đầy bóng đen, không thể giúp tôi thoải
mái trong kiếp thư sinh. Đêm đêm, mưa gió phũ phàng, giữa nỗi cô đơn vắng lặng,
tôi tưởng mình đang bị chôn sống nơi đây – nơi cái nghĩa trang âm u và ghê rợn
này. Chẳng bao lâu, ba tôi nhận được tin, vội tức tốc qua gặp tôi, bắt tôi thu
dọn hành lý, theo ba về xóm Chùa. Xóm Chùa thuộc Tân Định, nằm cuối đường Nguyễn
Hữu Cảnh. Ở đó có hai con hẻm tách riêng. Nhà dì tôi nằm bên hẻm trái. Một căn
nhà nhỏ nhắn, chật chội, giống như những căn nhà của dân lao động khác, mọc lên
một cách e dè trong các con hẻm u tối ở ngoại vi Sài Gòn. Nhưng nhà dì tôi có
thêm căn gác phía trước, dành riêng cho ba tôi. Dì nhường tôi một phòng nhỏ bên
hông nhà. Phòng vừa đủ đặt một bộ ván và một bàn học nhỏ. Cửa sổ sát bên con
hẻm. Buổi chiều, tôi có thể ung dung ngồi ngắm thiên hạ đi qua đi lại. Chỉ vài
tuần ngắn ngủi, tôi quen dần với chỗ ở mới, quen dần với cách sinh hoạt của dì
tôi và những sở thích của hai đứa em. Ba tôi đi làm mỗi ngày. Ba đi làm cho một
hãng bảo hiểm của người Pháp trên đường Nguyễn Huệ. Sáng nào, dì tôi cũng pha
cho ba một ly cà phê nhỏ. Trong lúc ba uống, tôi nhanh nhẹn dẫn chiếc mobylette
ra sân, kịp lúc cho ba lên đường. Sau đó, tôi mới khăn gói phóng lên xe đạp,
vội vã nhắm hướng văn khoa chạy tới. Bữa trưa, ba và tôi cùng về một lượt. Cả
nhà ngồi bẹp xuống nền xi măng dùng cơm. Thức ăn rất giản dị. Thường thì dì tôi
mua cá hấp ngoài chợ, rồi đem về chiên. Có thêm một món canh khoai môn hoặc rau
muống với tép, và một dĩa đậu xào. Dì nấu ăn rất ngon, chẳng thua má tôi. Có
điều, dì nấu theo kiểu miền bắc, má tôi nấu theo kiểu người nam. Ăn xong, ba
tôi nghỉ trưa một lát, rồi dậy đi làm. Còn tôi kêu thằng em ra xe, chở nó đi
học. Buổi chiều, tôi đạp xe đến văn khoa một lần nữa. Nếu có giờ học, theo các
bạn lên giảng đường. Nếu không, kéo nhau vào thư viện, mở sách để ôn bài.
Có chỗ ở chắc chắn, tôi liền viết thư báo tin cho Út. Chẳng bao lâu, tôi
nhận được hồi âm. Cứ thế, chúng tôi liên lạc với nhau, thư qua thư lại. Những
khi rảnh rổi, tôi thường dành tâm trí để nghĩ về má và Út. Má thì đương nhiên
rồi. Một người mẹ có ngôi vị đặc biệt trong trái tim tôi. Còn một cõi riêng
nữa. Một cõi riêng dành cho người tình, dành cho Út. Út ít nói, gặp tôi, nàng
chỉ lẳng lặng nhìn nhau, bằng đôi mắt nhuốm buồn. Tôi không hiểu nàng thật sự
thương tôi, hay thương những bài thơ tôi làm? Thương tôi? Thương một đứa con
trai tầm thường, nghèo đói, cơm chưa đủ ăn, áo không đủ mặc sao? Tôi chỉ giàu
thơ. Sẵn sàng dâng cho bất cứ em nào một bài thơ để bày tỏ tình cảm của mình.
Út quen tôi qua thơ. Những bài thơ đăng báo. Và gặp nhau, trong các buổi tan
trường. Ngoài đời, Út trầm lặng. Hình như nàng chưa bao giờ thố lộ yêu tôi,
giữa những lần hai đứa đối diện. Nhưng trong thư gởi tôi, lúc tôi xa Cà Mau,
nàng nói rất nhiều. Nàng viết đến đỗi tôi nghĩ nàng là một người viết văn, hơn
là một người viết thư tình. Nàng say sưa dệt gấm thêu hoa, vun đắp cho mơ ước
của nàng. Nàng đưa tôi vào cõi thiên đường – thiên đường của tình yêu trăm năm.
Tôi ra đi, nhưng hồn vẫn gởi cho nàng ấp ủ. Út ở lại, nhưng hồn cứ mãi theo tôi
ủi an.
Thời gian lặng lẽ trôi, bỗng dưng, có một ngày, tôi không nhận được thư của
Út nữa. Chờ hoài, đợi mãi, vẫn bặt tin. Tôi thất vọng. Tôi đau khổ. Và bắt đầu
bỏ học, lang thang khắp đường phố Sài Gòn. Để lấp khoảng trống, tôi chúi mặt
vào thơ. Tôi làm thơ như điên. Làm thơ bất cứ ở đâu: trong công viên, trong thư
viện, trong quán cà phê, trong cả cầu tiêu…Buồn quá, nhân mấy tháng nghỉ hè,
tôi trốn quân sự học đường, xin phép ba tôi ra Vũng Tàu tìm việc làm thêm, viện
cớ kiếm tiền cho mùa học sắp tới. Loanh quanh vài ngày nơi xứ biển, tôi được
nhà hàng Thiên Đàng bố thí cho một chân bồi bàn, phục vụ cho cái bar trên tầng
thượng. Đây là nơi giải khuây của lính Mỹ. Họ đến đây để uống rượu, kiếm gái
hoặc khiêu vũ…sau khi kết thúc các cuộc hành quân đẫm máu trên chiến trường.
Nên không gian nơi này luôn chìm trong bóng tối, chỉ có ánh đèn mờ ảo tỏa ra
thứ ánh sáng hỗn loạn, điên cuồng chấp chới trên sàn nhảy. Nhiệm vụ của tôi là
bưng rượu và thức ăn cho khách. Nhưng đôi khi cũng dắt gái cho Mỹ và đổi tiền
đô, ăn ké hoa hồng với cave. Đám bồi bàn và cave ở Thiên Đàng đông như gánh cải
lương. Buổi trưa, giờ cơm, chúng tôi phải tụ lại một chỗ, chờ nhận phần ăn từ
người đầu bếp. Ăn uống đã có nhà hàng lo, chỉ còn vấn đề quan trọng: ban đêm,
mình ngủ ở đâu? Tôi ngỏ lời với đám bồi đồng nghiệp, nhưng ai cũng lơ là. Chỉ
có một em cave tên Lý, ngó tôi, gật đầu. Lý hứa, chiều nay, nàng sẽ dẫn tôi về
nhà.
Chỗ ngủ của tôi là tấm ván vừa đủ một người nằm, được kê cao và đặt trước
hiên nhà Lý. Ban đêm, nàng khóa chặt cửa, còn lại mình tôi bơ vơ giữa không
gian lạnh lẽo của đêm tàn. Trong nỗi cô đơn mênh mông, tôi chợt nhớ cô hàng xóm
Lan. Cô hàng xóm mà anh Nghĩa dẫn đi ngủ nhờ, lúc còn ở Phú Nhuận. Cũng cùng
một cái hiên, nhưng hiên của Lan ấm cúng hơn, vì có hàng rào bao bọc, vì có đôi
mắt lá răm trong veo của Lan soi mói nửa đêm. Ôi! đôi mắt tuyệt đẹp đã bừng
những tia lửa nhân hậu, sưởi ấm trái tim trần trụi của tôi. Ban đêm, trời khô
ráo, tôi như lung linh theo những vì sao trên cao. Trong đó, có vài vì sao cực
nam đang phát sáng, dường như hiện thể của má tôi, của Út, của em tôi, của bạn
bè tôi…đang réo gọi tôi trở lại quê hương. Khốn khổ nhất là trời mưa, nước tạt
vào mùng, ướt nhem một bên chiếu, tôi phải ngồi dậy, co ro trong giá lạnh, lắng
nghe tiếng côn trùng hòa với tiếng lòng mình…nức nở trong đêm dài.
Công việc đều đặn mỗi ngày. Bỗng một hôm, có hai gã người Việt vào bar. Họ
chệnh choạng kéo ghế ngồi, rồi ngoắc tôi lại gần. Mùi rượu phà vào mũi tôi,
cùng với giọng ồ ề.
– Mày gọi con nhỏ đó cho tau. Tụi tau muốn “đi” nó.
Gã chỉ thẳng về phía Lý và gằn mạnh.
– Nghe chưa? Sao mày lờ rờ quá vậy? Bộ mới vô làm hả?
Tôi chạy đến bên Lý, nói cho nàng nghe điều này. Bất ngờ, Lý xụ mặt, đưa tay
vuốt bụng nàng. Em đang có bầu, không tiếp khách được. Nói với họ, em bệnh.
Kiếm con khác. Tôi chăm chăm ngó Lý. Trời ơi! Lý có bầu? Thiệt sao?
Chưa kịp cho gã hay thì gã đã lù lù tiến tới bên Lý. Gã choàng tay qua vai
nàng, rịt sát vào lòng. Lý vùng vẫy kịch liệt. Nàng cố sức đẩy gã ra để bỏ
chạy. Nhưng gã vẫn điên cuồng lao vào nàng như con hổ đói. Tới nước này, tôi
không nhịn được, chẳng thể khoanh tay đứng nhìn kẻ ngang tàng ức hiếp một phụ
nữ cô thế. Tôi nhào tới từ phía sau, nắm chặt cổ áo gã, kéo giật ngược. Tôi cố
kéo lê gã bật ngửa xuống nền quán, cho Lý đủ thời gian trốn thoát. Bỗng dưng,
có cú đánh mạnh, phạt vào gáy tôi. Cú đánh như trời giáng, khiến tôi gục xuống,
như một thân cây bị đốn.
Chiều đó, tôi ra bến xe trở lại Sài Gòn. Tôi bị chủ nhân Thiên Đàng đuổi
việc ngay sau đó, vì cố tình gây sự và đánh khách. Lý đưa tôi lên xe với nét
mặt ủ dột, như một cánh hoa đang úa tàn. Xe chạy, tôi vẫn ngoái đầu nhìn lại
phía sau. Lý đó. Lý đứng đó với một bào thai vô thừa nhận. Một bào thai của
khách làng chơi đã thề non hẹn biển với nàng, để rồi bay đi như cánh chim
hoang, và không biết bao giờ mới trở lại tổ ấm?
Bữa cơm nhà dì vẫn đông đủ, âm thầm và đậm đà. Nhưng tôi biết, dì đang vất
vả dè sẻn từng phần ăn. Ba tôi phải nhịn ăn sáng. Các em tôi phải vơi đi tiền
quà. Nhiều lúc thèm cà phê, chờ ba nghỉ trưa tôi lục bóp kiếm ít tiền. Lần nào
cũng thấy vỏn vẹn chỉ có tờ giấy mười đồng. Chắc ba để dành đổ xăng. Nghĩ thế,
tôi đành trả lại y nguyên chỗ cũ. Đồng lương của ba tôi quá ít, không đủ để
trang trải trong gia đình. Trước hoàn cảnh bi đát như vậy, tôi không thể an tâm
đến trường, mặc dù tôi đã lấy xong chứng chỉ II ở phân khoa báo chí Vạn Hạnh.
Đêm đó, tôi đạp xe qua cầu chữ Y, kiếm thằng bạn ở bến Phạm Thế Hiển. Hai đứa
rủ nhau ra quán cóc dưới dốc cầu, uống rượu tới khuya.
Và sáng hôm sau, tôi đến ban tuyển mộ hải quân, tình nguyện gia nhập quân
đội.
Phạm Hồng Ân
(Hiên Thư Các, 26/03/2017)