Đò trôi êm trên Thảo Giang. Những cành liễu quanh bờ ma mị thế vòng tay ôm,
thu cất bao trầm mặc của nơi vốn thiếu bóng ngựa xe. Màu rêu thẩm xanh cùng lớp
sương khói dâng lên, tiếng chim quạnh rớt và mặt nước gợn sóng dường đánh thức
bình minh. Mặt trời dần nhú, đủ chiếu tỏ năm mạng người quá giang. Lố nhố đứng
ngồi khi mũi đò vén mở đám lau sậy, xào xạc. Thân hơi xiêu đổ lúc nhìn ra bến
bờ chợt hiện. Gã lái đò chống một đoạn tre, cắm vào đất mềm, tựa người vào cốt
giữ cho đò thôi chòng chành. Gã thuộc hạng khó lân cận, lầm lì trong việc đưa
người sang sông, tuyệt chẳng hé môi dù nửa lời.
Thảo Giang nào lớn rộng, sông nước mênh mông là bởi sự vắng tẻ tác thành ra. Ở
chốn hoang dã không gian thường ẩn giấu đôi điều, một nửa của rợn cảm và nửa
kia là hoang mang nghi ngại khi phát hiện. Ngồi vào lòng đò quá giang khách
sang sông nhận ra phận người thật nhỏ bé. Lên được tới bờ lại choáng trước sạn
đạo quanh co. Chỉ một lối đi, chận bít tầm nhìn là dáng đứng đồ sộ của toà nhà
có lối kiến trúc kỳ lạ. Không hẳn là lâu đài, chẳng ra một cổ thành, hoặc nó
gộp lại mọi thứ để dựng nên hình khối trông thâm u, kín cổng cao tường. Từ đây
trông lui, con sông đã xoá mờ hình tích, biến thành một đường cắt chia, sắt sảo
tựa thanh kiếm bén. Ẩm thấp, mát lạnh từ hướng ấy dồn thổi về, ngắt quãng theo
chân đi ơ hờ của gió.
Có hai nam nhân lực lưỡng đứng vòng tay án giữa lối đi, mặt chẳng lộ thiện
cảm. Một trong hai đứa cất tiếng: Theo nội quy, chúng tôi buộc phải khám xét
hành trang của quý vị, bất luận người ấy là ai, xưa nay chưa hề đổi thay thủ
tục. Những gì dính dáng tới kim loại đều bị thâu giữ, không hoàn trả. Năm lữ
hành tự động sắp hàng một, tự động mở phơi hành lý lỏng lẻo chứa toàn tư trang
đợi bàn tay kẻ lạ sờ nắn lục lạo. Bốn êm thắm cho đi chỉ đôi co lời qua tiếng
lại với đứa sau cùng. Khách nhàn du phân trần:
– Túi xách này chỉ chứa toàn giấy bút, tôi vi phạm điều chi?
– Bút làm bằng sắt tựa mũi nhọn, buồn tay có thể đâm chết người, là hung
khí. Bỏ bút lại, mang giấy đi có phải là thong dong nhẹ nhàng hơn không?
– Nực cười! Giấy bút phải luôn sánh đôi, như sông phải có đò, thiếu một
trong hai thứ e thảy đều vô dụng.
– Nói vậy là chưa thông đạt đạo lý. Có người chỉ lo vun bồi cho khẳm đầy
giấy quý mà chẳng màng tới thứ khác, mang loại giấy đó vào thân, người ta có
thể đi suốt mọi chân trời góc bể.
– Cứ xem như tôi là hạng nho sinh chỉ chí thú với sách vở thánh hiền, thành
phần ấy trước sau vẫn xem nhẹ thứ giấy mà các vị vừa nói. Đã là nho sinh thì
chẳng thể đoạn lìa với bút mực, phương chi cây bút này do một cao nhân gửi
tặng. Các vị tu luyện võ công, ắt sẽ không để ai tước đoạt đao kiếm, đúng vậy
chăng? Vật bất ly thân.
– Rườm lời, khuyết điểm của bọn có ăn học là ưa lý sự cự cãi làm căng thẳng
hiện trường. Muốn giữ vẹn toàn giấy bút thì hãy tìm đường khác mà đi.
Phàm kẻ có ăn học đều chẳng thể đối thoại với bọn chỉ quen bầu bạn với vũ
lực, xưa nay đều vậy và bi kịch nọ vẫn chưa tìm ra lời giải. Lỡ trói gà không
chặc thì kíp lui bước, hai đứa xăm trổ đầy mình kia tuy chẳng là quan nhưng
miệng chúng có gang có thép, đứa có súng trong tay thì có thể thế thiên hành
đạo, chẳng ngoa ngôn. Lời thật mất lòng, xem thành tâm thiện ý của đối tượng
luôn chứa âm mưu bất chính. Gạn đục khơi trong, tâm huyết nọ vẫn bị xem là sự
xúc phạm khó dung thứ. Đứa biết giữ thể diện là những đứa bị gạt ra khỏi dòng
chảy của mưu sinh đời này. Giấy bút vô tình là con dao hai lưỡi vậy!
Đứa tự nhận là nho sinh quay đầu, đeo cái túi xách vào người bước lui lại
bến sông. Nếu đó là túi thơ bầu rượu thì ta sẵn lòng rót ra chén đắng mà thù
tạc cùng gã lái đò. Gã chỉ thầm lặng trong việc đưa người sang sông, lầm lì cắn
răng tuồng chất chứa trong tâm nhiều vấn nạn. Tìm cho ra người để tâm sự, việc
ấy dường bất khả. Ngày xưa, cảnh sông trôi nước chảy, cảnh trăng mờ bên núi
luôn đánh động vào lòng người quá giang, gây cảm hoài cho cánh bèo dạt hoa trôi
rồi tức cảnh sinh tình gửi xuống bờ vắng bãi quạnh bao nỗi niềm chất ngất. Ngày
nay, tuyệt không nhìn ra bóng dáng “hoài cổ” kia, đã tuyệt chủng, nếu sót lại
đôi ba thằng cuồng sĩ thì ắt chúng cô đơn trong định nghĩa “người âm lịch”. Qua
sông chẳng luỵ đò, chỉ ngậm bồ hòn làm ngọt, chẳng dám nhìn “đểu” chỉ ngước mặt
ngó mây bay vô tội vạ. Mây bay về đâu? Chim vỗ cánh tới phương nào? Người trôi
sông lạc chợ thì không chừng bắt gặp cảnh sơn cùng thuỷ tận. Sao chốn này hoang
lạnh đến sờn lòng!
Đò vẫn chưa di dời, gã lái đò đang khơi than bếp ấm, đút que củi gầy chỉ đủ
gửi lên không chút khói xám nhạt dùng dằng lẩn trốn. Gã đổ người bên mạn đò để
múc đầy nước sông chứa trong lon sắt. Rồi gã thầm lặng đưa mắt dọ hỏi đứa đứng
tần ngần bên lau sậy. Và lau sậy thì muôn đời vẫn run thân. Người kia cất
tiếng, giọng hụt như đã dong duỗi hết đoạn đường dài: Anh có biết một tiểu lộ
nào khác chăng? Gã lái đò nhíu mày: Sao? Vừa gặp phải chướng ngại? Qua sông
phải trả tiền đò, anh trở lại là muốn mua một thông tin đấy à? Có nghĩa là
chẳng có gì miễn phí? Khách tần ngần bước chân lên đò, thấy nước đọng trong
lòng in rõ khoảng trời xanh đang cau có. Mới hay là nước có thể len lỏi để thẩm
thấu dần dà, mai kia mốt nọ ăn mục sườn đò rồi thuận theo quy luật nước chảy đá
mòn, chịu cảnh phơi xác bên bãi lạnh. Đò ơ… ơi. Không một tiếng đáp trả.
Khúc gỗ mọn cháy hết bề dài mà chẳng đủ sức làm sôi lon nước. Khách mở túi
xách, xé hết nửa cuốn vở rồi trao cho gã lái đò xấp giấy trắng. Chừng ấy có mua
nổi một lời chỉ bày? Lửa táp giấy reo vui nhảy múa có ngọn. Nước dùng để chế
trà, trà xanh đổi màu khi rót vào hai chén đất vốn chứa cơm. Uống đi. Chủ nói
cùng khách. Khách bưng chén, hai tay bao bọc như muốn đón giữ hơi ấm. Tháng năm
dài gầm đầu vào công việc bất đắc dĩ nầy, tôi chưa từng thấy qua một người
khách lạ như anh. Qua sông mà sao chỉ mang theo giấy bút? Khách moi bọc áo ra
bao thuốc: Hút đi. Những gì ít thấy thì bảo rằng lạ, những gì nhan nhãn thì nói
rằng quen. Cái vụ lạ quen ấy mang đủ sự nghịch lý bên trong. Cả hai mồm đều bặp
thuốc, khói thổi ra làm nhân diện kẻ này mơ hồ đối với kẻ kia. Sao cơ ạ? Kẻ bần
cùng đói rách đi đầy đường khiến anh quen mắt, điều thuỷ chung nọ chẳng khiến
anh dậy một cảm hoài? Chủ ngắm khách: Cho tôi hỏi ngu tí, mang thứ hành trang
đó vào thành hẳn anh có dự tính? Khách tợp xong chén trà, búng điếu thuốc cụt
xuống sông: Ở đây không ai, âu cũng nên giãi bày tâm sự, bạn tôi vừa mãn hạn
tù, tôi muốn đến thăm hỏi, muốn vẽ lại chân dung, muốn ghi lại những năm lao
lung mà bạn nếm trải, muốn chia sẻ chút đớn đau, chỉ có vậy thôi. Tuy tại ngoại
nhưng vẫn bị quản thúc không cho đi xa, phần tôi mang tiếng là rộng cẳng nhưng
thảng hoặc ngẫm ra mình nào khác gì kẻ bị bó chân. Anh là lái đò nhưng do đâu
lại tìm ra được thứ trà xanh này, vị ngọt thanh cao uống vào nghe khinh khoái.
Phải chăng việc đưa người sang sông chỉ là cách thế che dấu thân phận, hoặc
mượn nó để xa lánh những luỵ phiền mãi giăng bủa hồng trần?
Chủ khách ngưng chuyện trò vì cả hai cùng nhát thấy một vị khách vừa bước
lên đò. Một thiếu phụ với hành lý xem chừng nặng lệch bên vai. Mặt xanh kiểu
thiếu ngủ, không trang điểm với đầu bù tóc rối. Sầu thảm, lạc hồn, lẻ loi.
Chẳng ai đưa tiễn sang ngang, đi mà chừng một hoài nghi đích tới, ngồi vào lòng
đò rồi bỏ mặc những sóng nước mênh mang mơn trớn mạn đò mãi một điệp khúc.
Khách một nhìn khách hai, thầm lén. Đàn ông ngắm đàn bà, vụng trộm. Do có trí
nhớ tốt, hoặc bởi một cánh hoa dẫu tàn úa vẫn vấn vương chút đẹp dễ mềm lòng.
Cái sót lại ấy, cái chưa thể đành đoạn kia đã làm thằng đàn ông ngây người,
hoài nghi về từng trang quá khứ đang lật vội.
Dự cảm rằng mình đang bị kẻ phàm phu tục tử ăn tươi nuốt sống, người đàn bà
đâu mặt lại nhìn. Nhìn đểu, nhìn chăm bẳm mà không háy, chẳng nguýt, không liếc
ngang nhìn dọc. Đồng tử mở lớn, con ngươi đọng lại một dấu hỏi. Con mắt ấy
tuồng đã khóc nhiều. Ướt, long lanh, chực đổ lệ. Hai hàng mi không nháy. Hang
cùng ngõ hẹp hay sơn cùng thuỷ tận rồi cuối cùng cũng sinh hậu vận: Đoàn tụ. Thế
mới bày ra định đề: Quả đất này vốn nhỏ bé. Hoặc có ta bà nghìn cõi khi có
duyên sẽ xúi hai linh hồn lạc lối chạm mặt nhau. Người đàn ông kêu: Nguyệt.
Người đàn bà gọi: Tự.
Xác định ra danh tính, xướng lên trong tự tin, chẳng nhầm lẫn như đinh đóng
cột; vì vậy Tự bỏ gã lái đò để lần tới ngồi gần bên Nguyệt. Soi mặt trong “đôi
mắt em là một giòng sông” mà thời trai trẻ ta đã từng đắm đò nhiều phen, lóp
ngóp trong hạnh phúc bị chết chìm. Tự đi đâu mà lạc loài đến chốn đây? Đi lang
thang, chưa hết đường đã bít lối. Thế còn Nguyệt? Bao năm rồi sao còn mãi giữ
niềm hư hao. Nguyệt qua sông, lên phố huyện, Nguyệt đi tìm tương lai. Tự còn
chí thú với chữ nghĩa như xưa? Trót mang tên ấy vào thân nên nguyện vui vầy, có
điều chí thú là thứ chính mình cũng phải ngờ vực. Tự cũng có nghĩa là chùa,
tham sân si như mình khiến nhác vãng lai, gió thổi trên sông trước sau vẫn vậy,
gợn nhăn một nỗi lòng.
Tự hỏi gã lái đò: Bao lâu thì đẩy đưa mái chèo? Chủ nhân con đò đứng lên:
Nếu sợ ngày sớm nhuộm bóng chiều tà thì tôi sẵn lòng rời bến, phương chi cô này
lửa đang đốt lòng mong được sang bờ, ít nhân mạng thì tự khắc đò sẽ lướt êm. Gã
chưa rút lên cây sào đã nghe tiếng la lớn: Khoan, hãy đợi. Tiếng gióng lên ở
đất liền, âm thanh vang động mặt sông, hốt hoảng chưa tan bất ngờ thì đứa sợ
trễ đò đã đặt được chân lên khiến đò phải run thân. Gã lái đò nhíu mày khi
trông ra diện mạo kẻ kia. Sao sớm quày quả nhổ neo dù người chưa khẳm đầy như
thông lệ? Hắn nói. Ôi may thay, không nhanh chân đã rách việc! Muốn về chốn
phồn hoa bên nọ thật lắm muộn phiền! Hắn ngồi xuống: Mọi thứ đều đổi thay, biến
dạng, chỉ có con sông này vẫn cầm cự chưa đổi thành cánh đồng. “Sông kia rày đã
nên đồng”, e đôi lúc được vậy mà lại hơn, đi trên mặt lộ ngẫm an toàn, đã mang
mạng hoả thì ắt phải sợ phiêu bồng cùng sóng nước.
Hắn đeo chéo người cái túi vải, đặt lên đùi khi ngồi và bắt đầu trông qua
hai vị khách: Tôi có ít hàng thuộc dạng đặc sản, những mong anh chị mua mở hàng
giúp, giá cả dễ chịu bởi muốn vật giá trị rơi đúng vào tay chủ mới. Nói chưa
dứt câu đã trao tay Nguyệt một hộp gỗ, quảng cáo: Thứ son phấn dầu thơm tinh
lọc này đến từ nước lạ, e có lúc chị mượn nó mà điểm phấn tô son lại chăng?
Quay sang Tự: Xuất xứ con dao này là của nước Xiêm La có thể cứa đứt những vật
rắn, dắt vào lưng thế bạn đường thì đêm hôm an tâm làm kẻ dạ hành.
Nguyệt nói: Tôi không phải là hạng người mặn nồng với mỹ phẩm, mà anh Tự này
cũng chẳng thiết tha gì tới hung khí vật nhọn. Hãy đưa con dao ấy cho tôi xem,
được giá thì mua. Hắn lại lục soạn trong túi xách: Không ưa võ thì chắc anh
thích văn, cây viết này lưỡi có bọc vàng và nó tuyệt chẳng bao giờ nghẹn mực,
ròng rã đổ theo chữ cho tới hồi cạn mực mới thôi. Tự đón lấy, ngắm nghía chừng
thích thú: Tôi có thể biết xuất xứ của nó chăng? Không dấu gì anh, tôi mua lại
từ hai tên kiểm soát an ninh trên bờ, chúng tịch thu đồ vật của bá tánh chất
đầy kho.
Cả Nguyệt lẫn Tự đều moi tiền ra cùng lần: Đấy, còn bao nhiêu trao hết cho
anh, chỉ giữ lại chút bổi nhằm trả lệ phí chuyến sang sông. Được, chuyện nhỏ,
cứ tiền trao cháo múc. Việc mua bán xẩy ra nhanh, tuy vậy đò cũng đi tới giữa
giòng. Gã lái đò hỏi: Việc tôi từng nhờ ông tiến triển tới ngang đâu? Đứa chẳng
mang dáng vẻ thương gia kia lần đi về cuối đò, ngồi xuống bên bếp lửa còn giữ
nhiệt: Cập mũi vào bờ hẳn trao thông tin, có được không? Tại sao? Tại tôi ngại
ông nghe đâm vụng về làm lật đò, thằng tôi mạng hoả không biết bơi, sợ giao
mạng cho hà bá. Gã lái đò mặt thoáng đổi sắc, cằm bạnh, hai hàm răng đang cắn
chặt như vừa nhai xong nỗi hoài nghi. Làm chủ hơi thở là nghề của chàng, bởi
động tác liên hoàn khoắng mái chèo nặng rất dễ làm hao tâm tổn trí rã rời tay
chân. Hít hơi sâu, hai nhịp, lại thở dài, lại chèo, lại đưa mái đẩy, dần dà ắt
sẽ eo thon ngực nở. Sức lực ba người khách hợp lại chưa chắc đã sánh bằng. Cứ
nói ra, lòng ta xưa nay đã quen chịu đựng với sầu não.
Trong lon bắt trên ba cục gạch còn thừa chút nước, hắn ngửa cổ uống cạn rồi
nhìn mũi đò đang đi gần về đích tới. Được, điều ông dự cảm quả không sai trật,
tôi bỏ công theo dõi mất ba ngày và xác tín rằng, thằng Chín làm ở ty Thương
nghiệp vẫn thường mang vợ ông đi vào nhà nghỉ. Hắn có ô dù, tiền bạc rủng rỉnh
nên xem thường dư luận, chỉ có vợ ông còn biết nguỵ trang, luôn thay đổi lộ
trình và ưa nhắm vào tiểu lộ mà giỏi chân. Việc ông cậy nhờ tôi đã hoàn tất,
phần còn lại ông nên vắt tay lên trán tìm ra một chước hay mà xử lý. Cây dao
quý hiếm duy nhất tôi đã bán cho chị ấy, trong xách này chỉ còn hai lọ thuốc
diệt chuột trừ rầy. Ôi chao, xin các vị nhớ cho, kẻ hèn này chẳng ưa làm tòng
phạm.
Tự nhìn sâu vào mặt Nguyệt, hỏi nhỏ: Ngày xưa Nguyệt nổi tiếng là đoan trang
thuỳ mị, công dung ngôn hạnh các thứ, sao giờ đây lại chọn đao gươm mà lựa mua.
Đâu có ai mãi lạc hậu như anh tối ngày mơ mộng cùng giấy bút. Nguyệt đang cố vá
lại vết thương trong lòng, mà cứu cánh chỉ nương nhờ vào dao bén. Nó là phương
tiện duy nhất giúp Nguyệt trôi bớt phẫn hận. Nguyệt đang muốn nhìn ra cảnh máu
đổ. Nếu còn giữ cho nhau chút cảm tình, Tự có vui đi theo Nguyệt một đoạn
đường? Tự run tay lấy ra một điếu thuốc, cau mày đốt lửa, khói xanh vương mặt
Nguyệt, lây lất một vẻ đẹp ám muộn sầu bi.
Lên bờ, chúng ta dọ tìm một nhà nghỉ, nằm bên nhau Nguyệt sẽ kể ngọn ngành
về cách tàn héo một bông hoa. Tự sẽ viết được một khúc đoạn trường. Và xin tô
đậm hàng chữ: Đời này ta khó thực thi lời dạy của thánh hiền, oán thù nên cởi
không nên trói. Nguyệt sẽ trói Tự một đêm trong hân hoan, rồi sau đó lẩn vào
dòng đời tạp nhạp để trả hận một đứa lương lẹo gian dối bạc tình mà mình lỡ dại
khờ trao thân.
Tự ngó xuống mặt sông gợn sóng, khi không mà giờ này ta có được những hai
cây viết, ta mà không viết ra toàn bộ những nỗi lòng Nguyệt mang thì từ nay
nguyện sẽ thôi sang sông, bất kỳ một con nước nào. Nếu chữ không xô được, chẳng
làm sụp đổ cái xấu xa đang làm vấy bẩn cuộc đời thì ít ra, ta nên tán dương,
ngợi ca nỗi oan ức của kẻ thế cô đang cận kề bên ta. Đôi tay ta chưa từng nhúng
chàm, nhưng vì tình yêu, có thể ta không ngại cho máu loang.
Đò ủi cái mũi gỗ trầy trụa, xào xạc vào bến bờ đầy sạn sỏi. Tại sao người
đời ví một người đàn bà đi theo chồng bằng hai chữ sang ngang? Tại sao đàn bà
tự ngờ vực, hoang mang không biết mười hai bến đậu sẽ neo thân là đục hay
trong? Tự đưa tay cho Nguyệt bám để vững chãi nhảy thân lên đất liền. Bờ ẩm làm
hằn dấu chân Nguyệt, móp méo. Sau gót chân Nguyệt còn đeo cứng lớp bùn tanh. Gã
lái đò thu tiền mãi lộ, nói như cổ nghẹn một cục cơm: Mai này anh qua sông mà
thấy thiếu bóng con đò này thì chắc đã hiểu ra nguồn cơn. Tôi cũng xin chúc anh
chị an toàn trên hoạn lộ mới. Là kẻ chèo đò tôi thấu hiểu được một chuyện:
Chẳng bao giờ mình cầu mong cho mặt sông được bình lặng, trôi xuôi. Sóng lên
không do mình khuấy động. Vĩnh biệt.
Hồ Đình Nghiêm