Anh Nhân với giọng nói đều đều, có
vẻ mệt mỏi vì mất ngủ, anh tự giới thiệu mình và nói về quá trình anh đi trình
diện vào ngày 30 tháng Tư 1975:
- Tiểu đoàn địa phương quân của tôi,
đóng ở Bến Tre trước bảy lăm. Tôi bị đưa đi tù cải tạo tận ngoài bắc: Hoàng
Liên Sơn rồi Lào Kai. Đầu năm tám mươi, họ chuyển chúng tôi về Nghệ Tĩnh, Lý Bá
Sơ. Cuối năm tám mươi tôi được “lệnh tha” thuộc diện sức khỏe. Đi tù cải
tạo ở ngoài bắc, nghề chính của tôi là xẻ gỗ. Tôi bị tai nạn cây đè, gẫy kín
xương đùi trái…
Đoạn anh đưa tay phải cao lên và
choàng vai người bạn ngồi bên cạnh, anh bảo:
-Cũng là nhờ đi tù cải tạo tận ngoài
bắc mà tôi được biết anh Phùng này đây. Chúng tôi ở cùng chung một trại từ
Hoàng Liên Sơn…
Nói đến đây, anh và anh Phùng, hai
người ôm nhau. Anh Phùng cảm động, cố nuốt nước bọt, giọng anh ngậm ngùi:
-Nguyên tôi là đại úy, Lực Lượng Đặc
Biệt, đóng ở Vùng Ba Biên Giới. Tiếp liệu và liên lạc với bên ngoài hoàn toàn
bằng trực thăng. Việt Cộng dùng đặc công đánh úp đồn. Tôi bị bắt. Gia đình được
khai báo là tôi bị mất tích, xem như đã chết. Vợ tôi lãnh “tiền tử”. Khi bị
bắt, tôi thuộc diện tù binh, nhưng đến bảy lăm, cộng sản chuyển tôi sang chế độ
học tập cải tạo. Năm bảy sáu họ chuyển tôi ra tận ngoài bắc, nên mới được ở
chung với ông thiếu tá Lý Thiên Nhân này đây. Khi cấp cứu anh Nhân bị gẫy kín
xương đùi tại Lào Kai, có tôi. Chính ở Lào Kai tôi và anh Nhân hái được trái “mắc
cọp”, trái cây quí của người Bắc. Xin lỗi anh em tên nó không thơm lắm,
nhưng khi ăn không đến nỗi nào…
Câu chuyện trái “mắc cọp” vì
cái tên vô duyên của nó làm cho anh em toàn nhóm điều trị cười một trận.
Sau đó Thiếu tá Nhân tiếp nối câu
chuyện về anh:
-Sự thật thì cho tới năm bảy lăm tôi
vẫn còn là tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 52 Địa phương quân tỉnh Bến Tre. Bộ chỉ
huy của tiểu đoàn đóng ở rừng Rạch Rợp, dựa lưng vào sông Ba Lai. Địa bàn hoạt
động của tiểu đòan là 16 xã thuộc quận Ba Tri. Sau khi tướng Nguyễn Khoa Nam
tuẫn tiết vào đêm 30 tháng tư năm bảy lăm, cũng như các sĩ quan của các đơn vị
quân đội Vùng 4, chúng tôi buông súng và đi trình diện tại quận Ba Tri.
Đến trình diện, thoạt tiên thấy cộng
sản họ cũng tử tế. Họ đội nón tai bèo có, nón cối có, đến ân cần nói chuyện với
các sĩ quan trình diện. Tất cả đều nói một câu mà hình như có ai dạy cho họ và
họ thuộc lòng sẵn trong bụng. Họ bảo anh em chúng tôi: “Các anh phải thật
thà, thành khẩn mà khai báo, đừng có khai man tên họ, lý lịch và chức năng của
mình! Cách mạng có cái nhìn thấu suốt tam đại, tứ đại của các anh!”.
Một anh chiến binh cộng sản coi còn
trẻ, chừng mười bảy mười tám, đội mũ tai bèo, nói giọng Bắc, đến nhẹ nhàng hỏi
tôi và ghi tên họ cùng chức năng tiểu đoàn trưởng của tôi. Một ông sĩ quan của
họ, đội nón cối và cũng người miệt ngoài đó, đến cúi xuống trên tờ kê khai lý
lịch của tôi, đóng khung bằng mực đỏ chức năng tiểu đoàn trưởng của tôi. Đoạn
ông ta ngước ngược tròng con mắt lên nhìn tôi, cái nhìn sắc lạnh xuyên suốt cột
sống tôi! Cái nhìn ghê rợn ấy có sức ám ảnh tôi, mãi đến bây giờ đôi khi tôi
vẫn nhìn thấy lại trong những cơn ác mộng. Nói thật với các anh em, lúc đó tôi
thấy cái gì đó rất bất ổn cho riêng tôi… Làm xong mọi thủ tục, họ bảo: “Các
anh ai về nhà nấy, và chờ lệnh gọi tập trung sau”.
Trên đường về nhà, tôi suy nghĩ thật
mông lung. Tôi có cảm tưởng mình là con cá nằm trên thớt đang giãy dụa. Tôi gặp
thượng sĩ Long đang chạy xe Honda. Nó là thượng sĩ già, kinh nghiệm, từng trải,
trước sau như một, trung hậu với tôi. Tôi đem chuyện kể cho nó nghe. Nó có vẻ
sợ cho tôi, nó bảo:
-Hay ông thầy về trình diện ở
thị xã Kiến Hòa cũng không muộn. Ở đó “có người có ta”, chớ ở quận Ba Tri này,
chỉ có ông thầy là lớn. Ngại lắm…
Tôi còn mãi cân nhắc, thượng sĩ Long
vụt nói:
-Giờ này không còn ai dám chạy xe
lôi xe lam rước khách cả. Được, tôi chở ông thầy đi Kiến Hòa bằng xe Honda của
tôi.
Chỉ vỏn vẹn có năm phút, nó ghé nhà
cho vợ nó hay. Nó bảo tôi ngồi sau lưng nó, ôm nó thật chặt. Nó chở tôi một
mạch về Kiến Hòa. Trên đường vào thị xã Kiến Hòa tôi gặp trung tá Bành Tấn Bửu
mới hôm qua ông còn là tham mưu trưởng Tiểu khu Kiến Hòa, bây giờ ông mặc đồ
thường phục, dân sự, mang dép Nhật, đang đi lẹt xẹt trên vỉa hè đường phố. Tôi
liền đến trình bày với ông ta về sự thể của tôi tại Ba Tri. Ông ta hơi ngại cho
tôi. Ông ta bảo:
-Ở quận Ba Tri không ai mà không
biết anh. Thì cũng đành vậy thôi.
Lúc ấy trông mặt ông ta có vẻ căng
ra. Mồ hôi rịn trên trán ông thấy rõ. Ông Bửu vụt hỏi tôi:
-Quê anh ở Sa Đéc? Còn sớm chán, về
ngay quê quán mình mà trình diện cho có bà con và cũng có vẻ thật thà
hơn, chớ ở Bến Tre này anh cũng biết ngại lắm, chính tôi cũng không biết thân
phận của tôi ngày mai ra sao!
Tên thượng sĩ già của tôi cũng chụp
nói vào:
-Đúng rồi đó ông thầy. Tôi
đưa ông thầy xuống phà, xong tôi bốc ông thầy lên ngã ba Trung Lương để
ông thầy đón xe đò về bến phà Mỹ Thuận rồi thẳng về Sa Đéc nội trong ngày,
trước hai hay ba giờ chiều nay.
Tôi bắt tay trung Tá Bành Tấn Bửu.
Chúng tôi chưa hề bắt tay nhau ngỡ ngàng như vậy, không phải là lời chào vĩnh
biệt, cũng không phải lời hẹn tái ngộ. Có gì đó bẽ bàng cho thân phận chúng
tôi.
Ngã ba Trung Lương, một ngã ba sầm
uất, nhộn nhịp của các tỉnh phía Nam Sài Gòn. Nó nằm bên này sông Tiền trên
trục giao tht, đường đi Mỹ Tho,Vĩnh Long, bến phà Mỹ Thuận, về Sa Đéc và Đồng
Tháp… Cách nó không xa là Căn Cứ Đồng Tâm, trung tâm hậu cần Quân khu 4;
và cũng cách nó không xa là Bộ Tham Mưu của Sư đoàn 7.
Hôm nay, tại ngã ba Trung Lương,
người qua kẻ lại có vẻ bối rối khác thường. Ai cũng có bộ mặt thảng thốt, ngỡ
ngàng. Những anh em binh sĩ quân đội Việt Nam Cộng Hòa mới hôm qua, hôm nay mặc
đồ dân sự, mang dép Nhật, đứng nhìn sững sờ các chú lính giải phóng đội nón tai
bèo, lái xe jeep chạy tứ tung, vô kỷ luật. Họ không biết lái, họ húc phải
người, tung cả quán hàng. Có xe bị lật bên đường. Có xe hết xăng bỏ ngay giữa
con lộ.
Nhìn lại, đó là những chiếc xe nhà
binh mà các bộ đội giải phóng lấy tại Căn Cứ Đồng Tâm và Bộ Tham Mưu Sư
Đoàn 7. Có người lính giải phóng đội nón tai bèo, đứng trên xe jeep la lớn bằng
giọng Bắc Kỳ: “Đó là qui luật của chiến tranh”, và anh ta chĩa súng AK
lên trời bắn đùng đùng.
Tôi thấy buồn lắm. Buồn lắm các anh
em! Mới hôm qua cả Quân Đoàn 4 đều nắm vững tay súng, chủ động trên khắp chiến
trường, làm chủ trong mọi tình thế. Đêm qua tướng Nguyễn Khoa Nam tuẫn tiết tại
Cần Thơ, cả Quân Đoàn 4 sụp đổ. Cộng sản chiếm cả Vùng 4 không tốn một viên
đạn.
Tôi cảm thấy mất mát quá nhiều. Tôi
vô cùng xấu hổ khi thấy mình cải trang trong bộ đồ dân sự, chân mang dép. Tôi
thấy thương mình vô hạn. Tôi còn trẻ. Tôi mới ba mươi hai tuổi, tiểu đoàn
trưởng. Cuộc đời binh nghiệp của tôi chấm dứt sớm và thê thảm như vậy sao? Tôi
nghĩ đến Tú, vợ tôi. Tôi yêu Tú vô hạn. Tôi nhớ các con tôi. Có lẽ giờ này tất
cả mẹ con đang ngóng mong tôi tại Sa Đéc. Cầm lòng không được, nước mắt dâng
tràn…
Anh Nhân nói đến đây mặt mũi đỏ hoe
và giọng anh nghe như khàn đi, thấy vậy anh Quang tiếp lời anh. Trung tá Lâm
Quang nguyên là một trong những sĩ quan tham mưu của tướng Nguyễn Khoa
Nam. Anh là sĩ quan Chiến Tranh Chính Trị.
Trung tá Lâm Quang nói:
-“Tình hình chiến sự thuộc lãnh thổ
quân khu 4 vào những ngày cuối tháng Tư 75 nói chung và thành phố Cần Thơ nơi
đặt bản doanh Bộ Tư Lệnh Quân đoàn 4, Quân khu 4, Vùng 4, nói riêng, tương đối
yên tĩnh so với tình hình các tỉnh miền đông thuộc Quân khu 3, và Biệt Khu Thủ
Đô, bản doanh của chính phủ trung ương Sài Gòn. Nhất là sau vụ Tướng Nguyễn
Khoa Nam đích thân chỉ huy các đơn vị thống thuộc đánh bại và vô hiệu hóa hòan
toàn hỏa lực của trung đòan chủ lực miền Hậu Giang của cộng sản, khi trung đòan
này xâm nhập và tiến sát vào vòng đai phòng thủ của phi trường Trà Nóc- Cần
Thơ.
Sáng ngày 29 tháng tư 1975, Bộ Tư
Lệnh Quân Đoàn 4 có triệu tập một cuộc họp quan trọng để duyệt xét lại tình
hình và đề ra phương án phản công mới dưới quyền chủ tọa của thiếu tướng Nguyễn
Khoa Nam, tư lệnh Quân Đòan 4, Quân khu 4. Thành phần tham dự cuộc họp gồm có:
tư lệnh, tư lệnh phó, tham mưu trưởng, các tham mưu phó và các sĩ quan trưởng
phòng trong bộ tham mưu của Quân đoàn 4, ngọai trừ hai sĩ quan cao cấp của Quân
đoàn, một cấp chuẩn tướng, tham mưu trưởng, và một cấp đại tá, trưởng phòng 2
Quân đoàn, đã tẩu thoát ra nước ngoài là không tham dự phiên họp này. Cuộc họp
tuy ngắn nhưng trang nghiêm và hết sức quan trọng. Các đơn vị trong Quân đoàn 4
thề: “Kiên quyết và đoàn kết sau lưng vị tư lệnh và chiến đấu đến viên đạn cuối
cùng, tử thủ Vùng 4”.
Sáng ngày 30 tháng tư 1975 vào lúc
10:25, Tổng Thống Dương Văn Minh lên đài phát thanh Sài Gòn kêu gọi toàn thể
quân đội và các tướng lãnh chỉ huy sư đoàn, quân đoàn trên toàn vùng lãnh thổ
miền nam, phải buông vũ khí, ngưng chiến đấu và chờ bàn giao cho chính quyền
cách mạng!… Thế là một quân đòan hùng mạnh như Quân Đoàn 4, tới giờ phút này
vẫn nắm vững tay súng, chủ động trên mọi tư thế chiến đấu và phản công, đang
giữ vững miền châu thổ sông Cưủ Long sắp phải tan rã.
Tướng Nguyễn Khoa Nam, một quân nhân
chuyên nghiệp, ông phải tuân thủ mệnh lệnh thượng cấp, nhất là vị thượng cấp
này là Tổng Thống Dưong Văn Minh, Tổng Tư Lệnh Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa, vị
Chỉ huy trực tiếp của Ông.
Một số sĩ quan phục vụ trong bộ tham
mưu của Quân Đoàn 4, kể cả tôi, quá chán nản rời bỏ đơn vị, về sum họp với gia
đình chờ ngày vào tù. Một số khác thì tìm đường tẩu thoát ra nước ngoài vì họ
sợ cộng sản trả thù. Trong bối cảnh này, chỉ còn lại một mình thiếu tướng Nam-
tư lệnh, thiếu tướng Lê Văn Hưng- tư lệnh phó, và một số sĩ quan thân cận ở lại
doanh trại bộ tư lệnh của Quân đoàn. Tướng Nguyễn Khoa Nam, một tướng lãnh ưu
tú, sống độc thân, ăn trường chay, thanh bạch, suốt đời ông cống hiến cho binh
nghiệp, tận tụy với quân đội.
Chiều ngày 30 tháng tư 1975, cộng
sản đưa người của họ vào là Tám Thạch, mang quân hàm thiếu tá trung đoàn
trưởng, qua trung gian của Nguyễn Khoa Lai- em thúc bá của tướng Nam, thiếu tá
bác sĩ quân đội Việt Nam Cộng Hòa, và đại úy bác sĩ Đoàn Văn Tựu, y sĩ trưởng
Tiểu đoàn 40 Chiến Tranh Chính Trị, trú đóng tại Bình Thủy- Cần Thơ, vào tiếp
xúc với tướng Nam tại bộ tư lệnh Quân Đoàn 4, đồn trú trên đại lộ Hòa Bình
thành phố Cần Thơ. Nội dung cuộc tiếp xúc này, cấp nhỏ như chúng tôi không ai
được biết, ngọai trừ tướng Hưng, tư lệnh phó, được tướng tư lệnh bàn bạc và
thông báo riêng. Thiếu tướng Hưng trở về tư dinh và tự sát sau đó.
Sau khi suy nghĩ và cân nhắc mọi hậu
quả có thể xảy đến cho đồng bào và chiến sĩ trong lãnh thổ, tướng Hưng và tướng
Nguyễn Khoa Nam, tuần tự đi đến quyết định tuẫn tiết.
Sự tuẫn tiết của hai vị tướng lãnh,
tư lệnh và tư lệnh phó của chúng ta, tướng Nguyễn Khoa Nam và tướng Lê Văn
Hưng, là những quyết định kiên cường và dũng cảm, mãi mãi được tuyên dương và
ghi công, đời đời được lịch sử soi sáng”.(1)
Những điều tường thuật của trung tá
Lâm Quang tuy sơ lược nhưng rất súc tích, gây nhiều cảm kích cho anh em. Không
ngờ sau gần hai mươi năm mà ấn tượng của các anh em về tướng Nguyễn Khoa Nam
vẫn còn sâu sắc, không một phai mờ. Nhớ lại tướng Nguyễn Khoa Nam, anh em nhớ
lại một thời vinh dự được cầm súng bảo vệ tổ quốc. Có một vài anh em cúi mái
đầu bạc, hai tay bưng mặt khóc rưng rưng. Có một thời anh em là lính, là sĩ
quan tham mưu của tướng Nguyễn Khoa Nam.
Không muốn để tâm tình xúc động của
các anh em kéo dài, trung tá Lâm Quang yêu cầu anh Nhân tiếp tục câu chuyện của
anh, con đường từ ngã ba Trung Lương về Sa Đéc.
Anh Nhân bậm môi, cố gắng lấy hết
can đảm mới đủ bình tỉnh tiếp nối câu chuyện của mình:
-Như các anh biết, lúc đó xe chạy
rất ít. Tôi có ý sợ không có xe về sớm để kịp giờ trình diện! May quá, lúc đó
một chiếc xe nhà binh GMC cũng đang chạy trờ tới. Trên xe có mấy anh em bộ đội
giải phóng đội nón cối, cũng có những người đàn ông đàn bà mặc đồ dân sự. Tôi
liền đưa tay đón chiếc xe lại. Khi đến gần, họ ngừng xe lại, tôi thấy người tài
xế lại là chú lính Việt Nam Cộng Hòa! Tôi mạnh dạn hỏi lớn:
-Cho quá giang về phà Mỹ Thuận có
được không?
Một anh bộ đội giải phóng, nói giọng
bắc la lớn:
-Nào! Lên đi nào. Khẩn trương lên.
Trưa cả rồi!
Một cánh tay đưa xuống kéo tay tôi
lên. Khi bàn tay tôi chạm phải bàn tay anh, tôi thấy tay áo anh may bằng vải ka
ki xanh Nam Định. Tim tôi se lại. Dưới màu ka ki xanh Nam Định này, tôi đã
nhiều lần nhìn thấy trên chiến trường những xác chết trẻ trung dưới hai mươi
tuổi, trên ngực họ, trên tay họ hay trên lưng họ xăm hàng chữ Sanh Bắc, Tử
Nam.
Xe chạy… và chạy xa ngã ba Trung
Lương. Mọi người ngồi trong xe đều im lặng. Hình như mỗi người đang theo đuổi
những ý nghĩ riêng tư của mình. Ai cũng có vẻ ngỡ ngàng khi chạm phải mắt nhau.
Xe chạy qua những thôn xóm quen
thuộc tôi đã từng qua lại nhiều lần từ thuở thiếu thời, cắp sách đến trường gặp
thầy, gặp bạn. Hôm nay trông quạnh vắng lạ thường. Trường học đóng cửa, không
một bóng dáng học trò, chợ búa tiêu điều không ai nhóm, nền gạch trơ, phất phơ
mấy miếng lá chuối khô bay.
Có lúc trên xe im phăng phắc. Hình
như ai cũng đang chờ đợi cái gì. Sau những năm chiến đấu ồn ào với súng đạn,
bây giờ tôi mới hiểu im lặng là cái đáng sợ. Nhất là cái im lặng sau cuôc
chiến, cái im lặng chứa đầy tử khí, ngạo nghễ và phản kháng.
Các anh bộ đội miền bắc, có lúc cố
gắng pha trò để đỡ buồn, đỡ căng thẳng. Có anh nhái giọng nam bộ, hỏi người
trên xe: “Mần sao?”. “Bà con làm một chuyến du lịch từ Rạch Miễu đến phà Mỹ
Thuận trên chuyến xe đò cách mạng kỳ này chắc dzui’ lắm hả?”.
Câu pha trò của anh rơi vào khoảng
không. Không một nụ cười đáp ứng. Tôi gượng gạo, nhìn bâng quơ ra ngoài. Làng
mạc ruộng vườn bao la một màu xanh rờn vắng bóng người nông phu, chỉ có những
cánh cò bay lặng lẽ.
Chợt anh tài xế la lớn;
-Đến bến phà rồi, bà con ơi.
Tôi vội vàng cám ơn mọi người và
nhảy xuống xe trước nhất. Một cánh tay cầm khẩu AK của anh bộ đội giăng ra chặn
tôi lại. Tôi hốt hoảng không biết xử trí như thế nào; nhưng với phản xạ tự
nhiên của người lính, bàn tay phải của tôi đã sẳn trong túi quần, lúc ấy ngón
tay cái của tôi đã nằm sẵn trên khóa an toàn, và ngón tay trỏ của tôi lúc đó
cũng đã sẵn sàng nằm trên cò của khẩu Colt 12 mà tôi lận rất kỹ trong người, và
nó sẵn sàng nổ!
Anh chàng bộ đội nhắm nghiền đôi mắt
lại, ngước cổ cao lên và la lớn:
-Ối giời! Chúng tôi đèo anh từ ngã
ba Trung Lương đến tận đây thì anh phải trả tiền chứ, sao lại cám ơn không
được!
Nói thật, lúc đó tôi mới lấy lại bình
tĩnh. Tôi từ từ rút bàn tay phải ra khỏi túi quần có dính theo tờ giấy bạc 500
đồng đưa cho anh bộ đội và nói cám ơn anh ấy.
Trên đường tôi ngồi tiếp xe lôi về
nhà, tôi nhớ lại câu nói của anh bộ đội:“Tôi đèo anh”, và tôi cười một
mình.
Mãi sau này đi tù cải tạo tại miền
bắc tôi mới hiểu được nghĩa của chữ “đèo”. Chiến thắng miền nam, đối với các
anh nhanh quá! Các anh ngỡ ngàng như còn trong mơ. Các anh chở chúng tôi trên
chiếc xe hơi nhà binh GMC mà cứ tưởng là đang “đèo” chúng tôi trên chiếc xe đạp
thồ trên con đường quê nào đó tại miền-bắc-xã-hội-chủ-nghĩa.
Về đến Sa Đéc, trước khi đến nhà, đi
ngang qua một công đất bỏ hoang, cây cối um tùm, có con lạch nhỏ, nước sâu đến
gối và nhiều bùn, tôi dừng lại, suy nghĩ một hồi…
Tôi bước xuống đứng dưới con lạch.
Bỏ tay vào túi quần, tôi từ từ tháo gỡ cây súng. Tôi kiểm soát khóa an toàn,
cho nó rơi xuống trong ống quần, rơi thật sâu xuống con lạch nước.
Tôi nghe cây súng rơi xuống đến mắt
cá chân. Tôi dí bàn chân sâu vào trong bùn và rút lên từ từ. Cây súng ngang mắt
cá chân tôi rơi đúng vào lỗ bùn sâu.
Bước lên khỏi con lạch, mang lại đôi
dép, tôi đi hướng về nhà không ngoảnh mặt lại…
Có một chút gì ân hận chua xót trong
tôi.
Hình như tôi vừa từ giã ai? Một
người bạn? Một chiến hữu? Một khẩu súng?
Một thoáng bâng khuâng mơ hồ, tôi
vừa bước qua ngưỡng cửa cuối cùng của cuộc đời binh nghiệp…
Đào Như
————————-
Ghi Chú:
(1)- Đây là bức thư của Trung tá Lâm
Quang Bạch (bà con với hai tướng Lâm Quang Thi và Lâm Quang Thơ, quân đội
Việt Nam Cộng Hòa gốc người Hoa ở Trà Vinh nhiều đời), đưa cho tôi sau buổi
họp điều trị tâm thần tập thể.
Đây là 1 đoạn của ông ghi chú những
biến cố tại Vùng 4 trong những ngày cuối tháng 4 1975, với tất cả danh dự,
xương máu và nước mắt của một người lính Việt Nam Cộng Hòa.