Vào dịp Thanh Minh, gia đình tôi đi chùa,
viếng hài cốt của Bố các con tôi - Cố Hải Quân Trung Tá Hồ Quang Minh!
Vừa rời nơi để hài cốt của Minh, thấy một vị
Thầy bước về hướng tôi, tôi cung kính chào. Thầy cười và rất bất ngờ gọi: “Chị
Điệp Mỹ Linh!” Tôi hoàn toàn ngạc nhiên: “Dạ, thưa Thầy, làm thế nào Thầy
biết con là Điệp Mỹ Linh?” Thầy đáp: “Biết chứ! Nhưng tôi khuyên chị
đừng nên viết xúi người ta ‘wuýnh’ nhau!” Tôi ngỡ ngàng, tim thắt lại và
lòng cảm thấy bất nhẫn, vội quay người, bước nhanh vào chánh điện. Vì không hiểu
tiếng Việt nhiều, các con tôi bước theo tôi nhưng vẫn quay lại nhìn Thầy như ngầm
hỏi: “Thầy đã nói gì xúc phạm đến Măng của chúng tôi, phải không?”
Dù bị xúc phạm, sau khi quỳ xuống, chấp
tay, nhìn tượng Phật Quan Thế Âm, tôi cảm thấy bình an trong hồn.
Theo tiếng niệm kinh trầm trầm - và cũng vì
lời khuyên của vị Thầy, lúc nãy - hồn tôi lui về quá khứ xa xăm như muốn tìm lại
những dòng sông xưa, những vùng trời lửa đạn, những bến bờ dấu yêu, những khuôn
mặt thân quen của những người đã hy sinh tuổi trẻ, hy sinh một phần cơ thể và rất
nhiều người hy sinh cả mạng sống để bảo vệ miền Nam Việt Nam!
Trong những khuôn mặt thân quen, tôi nhận
ra nhiều thanh niên mặc quân phục cùng màu với quân phục của Minh, đã cùng sống
rồi chết bên cạnh Minh, trên các chiến đỉnh. Khi nào nghĩ đến những người con
ưu tú này của Mẹ Việt Nam, lòng tôi cũng ngậm ngùi và biết ơn!
Lòng biết ơn của tôi dành cho thanh niên miền
Nam thường làm cho hồn tôi chùng thấp mỗi khi đứng nghiêm, đồng hát Quốc Ca
VNCH. Lúc nào cũng vậy, đến đoạn điệp khúc, giọng tôi nghẹn lại và hai hàng nước
mắt tuôn dài! Theo tiếng hát nghẹn ngào, tôi tưởng như – dưới bóng cờ – thấp
thoáng bóng dáng em tôi, em của Minh và bạn hữu của tôi, đã xông vào lửa đạn,
quyết ngăn chận bước chân đẫm máu của “người anh em (!)” từ bên kia Bến Hải.
Tôi cũng biết ơn những vị cựu Chỉ Huy của
Minh; vì những vị này biết cá tính năng động, can trường và liều lĩnh của Minh
đã bổ nhiệm Minh về các đơn vị tác chiến để Minh có cơ hội cho “quân du kích và
bộ đội cụ Hồ” biết thế nào là bản lĩnh của Hải Quân VNCH trên sông rạch!
Bản lĩnh của Hải Quân VNCH cũng như bản
lĩnh của tất cả quân binh chủng Quân lực VNCH là: Hễ xung trận thì cho giang đỉnh
ủi thẳng vào nơi bị phục kích, hoặc nhảy trên đầu địch bằng chiến thuật trực
thăng vận của Nhảy Dù, Biệt Động Quân, để chiến đấu trực diện chứ không thèm
lùa trẻ em và phụ nữ đi trước rồi lom khom phía sau để tấn công cơ quan quân sự
như Việt Cộng đã thực hiện vào Tết Mậu Thân, 1968. Người Lính VNCH cũng không
bao giờ bắn sẻ hoặc pháo kích bừa bãi vào thành phố, vào trường học hoặc bắn trực
xạ vào người dân chạy nạn – như “du kích quân và bộ đội cụ Hồ” đã “hồ hởi” thi
hành năm 1972 ở Quang Trị, tạo nên Đại Lộ Kinh Hoàng và năm 1975 trên liên tỉnh
lộ 7 từ Pleiku xuống Tuy Hòa rồi quốc lộ I, khoảng đèo Hải Vân và con đường ngắn
từ Đà Nẵng sang Tiên Sa!
Về kỹ thuật tác chiến, có thể Hải Quân VNCH
không khác với các quân binh chủng bạn; nhưng Hải Quân có những điều rất khác
biệt mà các quân binh chủng bạn không có. Đó là: Rời căn cứ, hậu cứ hoặc đơn vị
để đi phố thì Hải Quân gọi là “đi bờ”. Chỉ Huy Trưởng hoặc Chỉ Huy Phó của một
đơn vị, được sĩ quan, hạ sĩ quan và thủy thủ gọi là Chỉ Huy Trưởng, Chỉ Huy Phó
chứ không gọi theo cấp bậc. Hạm Trưởng hoặc Hạm Phó được gọi là Hạm Trưởng, Hạm
Phó chứ không gọi là Thuyền Trưởng, Thuyền Phó hay gọi theo cấp bậc. Giữa sĩ
quan với nhau thì sĩ quan cấp thấp thường gọi sĩ quan cao cấp bằng Commandant.
Khi tiếp xúc với vị Tướng Hải Quân – dù vị Tướng ấy là Phó Đề Đốc – người đối
thoại cũng gọi vị Tướng này là Đô Đốc.
Riêng Minh, dù trước hoặc sau ngày 30 tháng
Tư 1975, tôi vẫn nghe Minh gọi những vị Tướng Hải Quân là Commandants; ngoại trừ
Đề Đốc Trần Văn Chơn và Đô Đốc Chung Tấn Cang. Trước 1975, Minh gọi hai vị này
tư Tư Lệnh. Sau 1975, Minh gọi hai vị này là Đô Đốc.
Trong thời gian làm vợ của Minh - ngoài việc
thường xuyên tiếp xúc, trợ giúp tinh thần gia đình vợ con các anh hạ sĩ quan và
thủy thủ tử trận - tôi cũng hân hạnh được tiếp xúc với nhiều vị Đô Đốc và
Commandants chỉ huy trực tiếp của Minh.
Xin kể theo thứ tự thời gian: Vị Commandant
đầu tiên của Minh là Hải Quân Trung Tá Hồ Văn Kỳ Thoại; về sau Ông được thăng
Phó Đề Đốc. Hải Quân Trung Tá Nguyễn Văn Hoa., Hải Quân Đại Tá Trần Bình Sang.
Hải Quân Đại Tá Diệp Quang Thủy; về sau Ông được thăng Phó Đề Đốc. Hải Quân Đại
Tá Vũ Đình Đào; về sau Ông được thăng Phó Đề Đốc. Phó Đề Đốc Đặng Cao Thăng. Vị
Chỉ Huy trực tiếp cuối cùng của Minh là Hải Quân Đại Tá Khương Hữu Bá.
Khi Minh được thuyên chuyển về Phú Quốc, phục
vụ dưới quyền chỉ huy của Hải Quân Đại Tá Khương Hữu Bá - Tư Lệnh Hải Quân Vùng
IV Duyên Hải - tôi ở lại Sài Gòn, vì các con tôi bắt đầu lớn.
Khi nào đi Phú Quốc thăm Minh, tôi cũng phải
đi bằng Hàng Không Dân Sự xuống Rạch Giá; vì Hàng Không Dân Sự Việt Nam không
có đường bay ra Phú Quốc. Tại Rạch Giá, tôi vào Căn Cứ Hải Quân Rạch Sõi, tìm
các PCF – Patrol Craft Fast, Duyên Tốc Đỉnh – của các đơn vị đồn trú gần hoặc
ngay đảo Phú Quốc vào Rạch Giá công tác hoặc sửa chữa tại Căn Cứ Hải Quân Rạch
Sõi để xin “quá giang” ra Phú Quốc. Khi trở về Sài Gòn tôi phải thực hiện hành
trình ngược lại.
Trên những PCF “phóng” nhanh như tên xẹt,
tung bọt trắng xóa, tôi thầm thương những chiếc Chủ Lực của Duyên Đoàn và những
chiếc LCM – Landing Craft Mechanized, quân vận đỉnh – “dềnh dàng” của Giang
Đoàn với vận tốc chậm, dễ bị Việt Cộng bắn sẻ và pháo kích.
Đến Phú Quốc, Minh đón và đưa tôi về nơi Minh
làm việc.
Mỗi khi rời nơi Minh làm việc để đến Bộ Tư
Lệnh Vùng IV Duyên Hải, hoặc từ Bộ Tư Lệnh Vùng IV Duyên Hải trở về, Minh và
tôi đều đi ngang trại tù nhốt Việt Cộng.
Là một Phật tử thuần túy, tuyệt đối vâng lời
Phật dạy và cũng là một người rất nhạy cảm trước nỗi khổ đau của muôn loài,
nhưng không hiểu tại sao, mỗi khi xe chạy ngang trại tù nhốt Việt Cộng, lòng
tôi dửng dưng, nếu không muốn nói rằng tôi còn cho là đáng đời! Sau khi phân
tích trạng thái tình cảm, tôi mới nhận ra rằng: Vì Việt Cộng là những người chỉ
chuyên thực hiện cái ác, dùng mọi thủ đoạn – dù phải hy sinh không biết bao
nhiêu thanh niên miền Bắc để thực hiện chiến thuật biển người – để cưỡng chiếm
cho bằng được phần đất mà chính phe Cộng Sản của họ đã ký kết tại Genève, năm
1954, để chia nước Việt thành hai miền: Cộng Sản miền Bắc; Quốc Gia miền Nam!
Năm 1954 tôi còn bé, nhưng, những lời giảng
dạy của Ba tôi – người từng ra “vùng giải phóng” để chống Tây – cho tôi hiểu rằng:
Cộng Sản Việt Nam (CSVN) luôn luôn cổ xúy và nuôi dưỡng tinh thần giai cấp đấu
tranh để mọi người đều nghèo như nhau. Tinh thần giai cấp đấu tranh đưa đến chiến
dịch Cải Cách Ruộng Đất. Cải Cách Ruộng Đất không những chỉ giết người dân vô tội
mà phương cách Đảng và “nhà nước” thực hiện để giết người còn hết sức dã man và
tàn bạo bằng cách khích động dân chúng ném đá vào nạn nhân – bị trói – cho đến
khi nạn nhân gục chết; hoặc CSVN chôn sống nạn nhân, chỉ để phần cổ và đầu ló
khỏi mặt đất rồi cho trâu bò kéo cày hoặc bừa đi ngang, cào theo đầu của nạn
nhân!
Cải Cách Ruộng Đất dã man và tàn ác như vậy
thì chính sách “bần cùng hóa nhân dân” làm cho mọi người đều dốt nát như nhau;
bởi vì người dốt bao giờ cũng dễ bị tuyên truyền, dễ bị tẩy não hơn người có học
thức; vì lý do này,Mao Trạch Đông của Trung Cộng quan niệm “trí thức không bằng…cục
phân”! Ngoài ra, CSVN còn tạo ra sự nghi kỵ lẫn nhau, không ai tin ai. Ngay như
thầy cô giáo từ các lớp tiểu học đã dạy trẻ em: Về nhà nghe Cha Mẹ nói gì, ăn
gì, gặp ai, v. v… thì mách lại thầy cô để thầy cô trao bằng khen Cháu Ngoan Bác
Hồ!
Ba tôi giải thích: Chỉ có những kẻ nghèo mà
không có đạo đức, không lương thiện, không học vấn và thua kém mọi bề thì mới dốc
hết toàn lực và sinh mạng để cướp đoạt cho bằng được tài sản của những người
lương thiện, giàu có, khá giả và học hành hơn họ. CSVN chính là những kẻ này!
Nếu ai chưa hiểu Cộng Sản thì mời nghe bài
Quốc Tế Ca được phổ biến rộng rãi trong thế giới Cộng Sản suốt gần ¾ thế kỷ: “Vùng
lên hỡi các nô lệ ở thế gian… Sục sôi nhiệt huyết trong tâm đầy chứa rồi. Quyết
phen này sống chết mà thôi. Chế độ xưa ta mau phá sạch tan tành... bao nhiêu lợi
quyền tất qua tay mình…” Ngoài bản Quốc Tế Ca, người CSVN còn được hun đúc
từ tấm bé bằng lời ca của bài Quốc Ca: “…Thề phanh thây uống máu quân thù…”
để chém giết, để tóm thu lợi nhuận của người miền Nam cho bản thân họ và cũng để
tôn vinh ông Hồ Chí Minh.
“Bộ đội cụ Hồ” không những chỉ liều chết để
tôn vinh cụ Hồ mà “bộ đội cụ Hồ” lại còn được chính Tố Hữu - ủy viên bộ chính
trị, bí thư ban chấp hành trung ương đảng CSVN, phó chủ tịch thứ nhất hội đồng
bộ trưởng nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam – cổ xúy lăn vào chỗ chết để
tôn vinh hai tên lãnh tụ Cộng Sản Nga và Trung Cộng bằng những vần thơ:
“...Giết, giết nữa, bàn tay không phút
nghỉ,
Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong,
Cho đảng bền lâu, cùng rập bước chung
lòng,
Thờ Mao Chủ tịch, thờ Sít-ta-lin bất diệt”
Trong khi đó, chúng tôi - người miền Nam -
thời mới lớn lại được hun đúc bằng lời ca mang tính cách giáo dục và đạo đức
trong bài Học Sinh Hành Khúc của Lê Thương: “...Học Sinh là mầm sống của
ngày mai. Nung đúc tâm hồn để nuôi chí lớn. Theo các thanh niên sống vì giống
nòi. Liều thân vì nước, vì dân mà thôi…” Khi trưởng thành, thanh niên miền
Nam trở thành Người Lính V.N.C.H; và người Lính VNCH cũng rất hiền lành, chỉ biết
“...Thù Nước lấy máu đào đem báo…” để chiến đấu cho Tổ Quốc và bảo vệ
Quê Hương - bằng chứng hùng hồn nhất là trận hải chiến Hoàng Sa giữa Hải Quân
VNCH với Trung Cộng - chứ không hề gây chiến và không hề tôn vinh một cá nhân
hoặc một đảng phái nào cả.
Vậy thì giữa người Lính VNCH và “bộ đội cụ
Hồ” ai có chính nghĩa và ai có lý tưởng, mọi người Việt Nam trong và ngoài nước
đều nhận thức được rồi!
Khi đề cập đến lý tưởng và chính nghĩa của
người Lính VNCH, tôi chợt liên tưởng đến ý nghĩ thầm kín của tôi khi tôi được Đại
Tá Khương Hữu Bá – nhân chuyến về Sài Gòn họp – cho tôi “quá giang” chiếc
Cessna đưa Đại Tá từ Phú Quốc về Sài Gòn.
Qua cửa sổ Cessna, thấy những dòng sông hiền
hòa len lỏi giữa những ruộng lúa xanh tươi, tôi thầm cảm ơn người lính Nghĩa
Quân đã âm thầm chu toàn bổn phận trong những đồn hẻo lánh dọc các bờ sông và vợ
của những Nghĩa Quân này phải tiếp đạn cho chồng để giữ an ninh, không cho Việt
Cộng vượt sông về phá rối nông thôn. Tôi thầm tạ ơn những người lính Hải Quân
đã từng đêm thức trắng trong phiên gác, để thảy lựu đạn quanh các giang đỉnh,
không cho người nhái Việt Cộng lặn ra đặt mìn, làm chìm giang đỉnh. Tôi biết ơn
các anh Không Quân trong những phi vụ oanh kích “đẹp” như trong xi-nê, những
chuyến bay yểm trợ và những chuyến trực thăng tải thương đầy nguy hiểm. Tôi
cũng xin cảm ơn những quân nhân thuộc các binh chủng thiện chiến như Bộ Binh,
Thủy Quân Lục Chiến, Nhảy Dù và Biệt Động Quân đã lội “bì bõm” trong sình lầy,
tận diệt Việt Cộng để nhà nông được yên lành cày cấy, tạo nên những cánh đồng
lúa xanh ngút ngàn trong tầm mắt tôi.
Trong tầm mắt tôi cũng hiện ra từng dãy nhà
sàn dọc những bờ sông hoang vắng mà tôi từng đi qua, từng xót xa thương cảm.
Nhìn những cụ già hom hem, miệng móm với nụ cười nhân hậu, tôi nhớ Bà Ngoại của
tôi. Thế mà, trong số những cụ già dễ thương này đố ai biết được có bao nhiêu cụ
bà đã nhẹ dạ, tin lời Việt Cộng, cho Việt Cộng đào hầm trong vườn rồi nuôi
chúng để được gọi là “Mẹ chiến sĩ”!
Nếu những chuyến trực thăng cho tôi hiểu thế
nào là chiến tranh, thế nào là cảm giác sợ hãi khi thấy Việt Cộng bắn lên trực
thăng hoặc thế nào là xót thương khi thấy người Lính VNCH bị thương được chuyển
theo trực thăng để đưa về bệnh viện thì chiếc Cessna lại cho tôi cảm giác yên
bình, thanh thản vô cùng.
Nhìn hình ảnh tươi đẹp dưới xa, tôi chợt nhớ
thời Ba tôi ra “ngoài nớ” theo kháng chiến chống Tây. Lúc đó tôi còn nhỏ lắm,
không hiểu biết gì, chỉ biết đàn ca thôi. Những cảnh đói khát, tan thương đến
cùng cực vì đồng ruộng nứt nẻ, khô cằn, con người thì đói khổ, được Ba tôi giải
thích rằng Việt Minh áp dụng triệt để chính sách “Tiêu thổ kháng chiến”. Những
hình ảnh “ngoài nớ” thật tương phản với thảm mạ non xanh mướt “trong ni” khiến
cho lòng thương cảm Quê Ngoại của tôi dâng lên và dòng nhạc xưa chợt trỗi dậy
trong hồn. Tôi không dám “ngân nga” vì lòng phi cơ rất hẹp, ngại Đại Tá Bá có
thể nghe được. Tuy vậy, trong hồn tôi, bài dân ca Quê Nghèo của Phạm Duy vẫn vọng
về: “…Ruộng khô có những ông già rách vai, cuốc đất bên đàn trẻ gầy, có người
bừa thay trâu cày... Quê cũ đã nghèo lắm rồi, thêm đói thêm sầu mà thôi…”
Nhờ chuyến Cessna này và cũng nhờ những lần
theo các Giang Đoàn Xung Phong, Giang Đoàn Tuần Thám, Giang Đoàn Ngăn Chận, v.
v… đến tận U Minh, Chương Thiện hoặc biên giới Việt Miên mà tình yêu Quê Hương
được khơi dậy, nẩy sinh và vun bồi mạnh mẽ trong lòng tôi.
Khi chiếc Cessna bay ở cao độ vừa phải,
trong tầm mắt tôi, những bờ cát mịn màng trông như những giải lụa óng ả, mượt
mà ôm sát vòng eo thon của Quê Mẹ thân yêu.
Không ngờ, chỉ vài tháng sau, những bờ cát
mịn màng đó biến thành những bãi cát ngập máu và xác người! Vũ khí của Nga và
Trung Cộng viện trợ cho CSVN tối tân thật, nhưng nếu không có sự căm thù sôi sục
trong lòng những người từ miền Bắc thề “sinh Bắc tử Nam” thì làm thế nào sinh mạn
của không biết bao nhiêu trẻ em, phụ nữ và người già vô tội – và không khí giới
để tự vệ – ở miền Nam phải gục ngã trong khi những người dân vô tội này chỉ muốn
được thoát lên các chiến hạm của Hải Quân VNCH đang chờ đợi để đưa họ đến nơi
an toàn!
Hỡi Người Trẻ Việt Nam sinh sau 1975! Vì
các bạn chưa được sinh ra để thấy những bờ biển ngập xác người do CSVN tạo nên
bằng hỏa tiễn của Trung Cộng và Nga, năm 1975; các bạn không thấy CSVN pháo
kích ngay vào bệnh viện Long An, năm 1975; và các bạn cũng không thấy – sau khi
cưỡng chiếm được miền Nam – CSVN đã đuổi tất cả thương bệnh binh ra khỏi những
quân y viện của VNCH, năm 1975; các bạn không thấy những ngôi mộ tập thể ở Huế,
do CSVN tàn sát – nhiều khi CSVN không giết mà CSVN lại chôn sống – dân lành ở
Huế, năm 1968; các bạn không thấy CSVN pháo kích vào trường tiểu học Cai Lậy,
giết hại cả trăm học sinh; các bạn không thấy “du kích quân của cụ Hồ” đặc mìn
trên quốc lộ để xe đò bị nổ tung, người dân chết nát thây; các bạn không thấy
CSVN trà trộn vào dân rồi thảy lựu đạn vào rạp xi-nê, nhà hàng v. v… Vì các bạn
không thấy những thảm cảnh đó và cũng vì CSVN không dám ghi lại những hành động
dã man, tàn ác của họ trên những trang Việt sử cận đại cho nên các bạn thường đặt
câu hỏi trên internet: Tại sao người Việt “nước ngoài” cứ tìm cách đánh phá
“nhà nước” Việt Nam?
Thưa các bạn trẻ sinh sau 1975! Không đánh
phá sao được khi người CSVN sát hại đồng chủng một cách man rợ chỉ với mục đích
đánh cho “Mỹ cút Ngụy nhào”. Mỹ đã cút, Ngụy đã nhào, bây giờ các bạn thấy ai
hiện diện nhỡn nhơ trên Quê Hương Việt Nam? Ai đầu độc dân tộc và môi trường sống
của người Việt Nam?
Câu trả lời là: Trung Cộng!
Bốn mươi hai năm trước, nhờ vũ khí của Nga
và Trung Cộng cùng với sự căm thù trong lòng, “bộ đội cụ Hồ” đã tạo nên những bờ
biển ngập máu và xác người miền Nam; đã tạo nên những làn sóng người Việt bỏ xứ
ra đi để rồi rất nhiều người bị vùi thân trong biển cả! Sau đó là hình ảnh nhục
nhã của những thiếu nữ Việt “phơi mình” cho Trung Cộng và Đại Hàn mua về làm vợ;
và biết bao thanh niên xuất khẩu lao động rồi ở luôn nơi xứ người!
Bốn mươi hai năm sau, trên nguồn, Trung Cộng
xây nhiều đập nước khổng lồ để ngăn nguồn phù sa, làm cho sông nước miền Nam Việt
Nam bị nhiễm nước mặn khiến vựa lúa miền Nam chết dần! Đảng CSVN lại cho phép
Trung Cộng khai thác tài nguyên trên vùng cao, đốn cây và phá rừng Việt Nam một
cách bừa bãi; và từ những cơ xưởng đồ sộ của Trung Cộng – từ thác Bản Dốc cho đến
mũi Cà Mau – thải ra sông và biển không biết bao nhiêu hóa chất để tiêu diệt
nguồn sống của người dân và đưa dân tộc Việt Nam vào họa diệt vong!
Hỡi người trẻ Việt Nam! Bây giờ là thời điểm
thuận tiện nhất để các bạn thực hiện lời ca “cũ” bài Quốc Ca của CSVN: “Thề
phanh thây uống máu quân thù”! Vâng, quân thù Trung Cộng đang tràn lan khắp
nước Việt, đang đầu độc môi trường sống của dân Việt. Không ai có thể chối cãi
điều này!
Sau khi cưỡng chiếm miền Nam, CSVN tịch thu
tất cả tài sản của người miền Nam, bắt Cha, Ông, chồng, anh em của người miền
Nam nhốt tù và đuổi Mẹ, vợ con, chị em của người miền Nam đi kinh tế mới rồi
chính CSVN đổi lời bài Quốc Ca của họ thành: “Đài vinh quang xây xác quân
thù”.
Đúng! Người CSVN đã thật sự xây “đài
vinh quang” trên thân xác của “bộ đội cụ Hồ” và thân xác người miền Nam
chúng tôi sau khi “phanh thây uống máu” chúng tôi.
Sau 1975, CSVN gọi chúng tôi – những người
phải trốn chạy khỏi sự tận diệt dã man của CSVN – là thứ “ăn bơ thừa, sữa cặn
của đế quốc Mỹ”. Bây giờ người CSVN gửi con cháu sang Mỹ du học, mua bất động
sản của “đế quốc Mỹ”; và người CSVN gọi chúng tôi là “khúc ruột ngàn dặm”,
vì số ngoại tệ khổng lồ do chúng tôi gửi về Việt Nam.
Chính nhờ số ngoại tệ chúng tôi gửi về mà
Việt Nam qua được “thời bao cấp”! Chúng tôi – “bên thua cuộc” – sẽ im lặng, âm
thầm gửi ngoại tệ về Việt Nam. Nhưng chúng tôi không thể im lặng khi thấy người
CSVN đánh cho “Mỹ cút Ngụy nhào” chỉ để đón quân thù truyền kiếp của dân tộc Việt
– là Trung Cộng – vào ngự trị, tàn phá Quê Hương và đầu độc người Việt Nam!
Viết đến đây tự dưng lời ca của bài Nhân
Dân Cách Mạng Việt Nam bừng lên trong lòng tôi: “...Trên Quê Hương đau
thương mưu cuộc giải phóng giống nòi. Hận thù bọn Việt Cộng đã cướp mất lẽ sống…
Đồng bào Việt Nam! Đứng lên cùng thế giới! Đồng bào Việt Nam! Đấu tranh và kiến
quốc! Tự quyết lấy đi thôi, đường sống tiến lên đi! Tiến lên dân tộc Việt ơi!”
Khi nhạc sĩ Hùng Lân sáng tác bản này tôi chỉ là đứa bé gái nhút nhát, nhưng vẫn
cảm thấy tinh thần dân tộc và tình yêu Quê Hương được khơi dậy mãnh liệt!
Hỡi người trẻ Việt Nam! Khi nào có dịp đi
máy bay nội địa, hãy nhìn dọc theo bờ Đại Dương để thấy vẻ đẹp mỹ miều của những
giải cát vàng. Chính lúc đó, bạn sẽ đồng ý với tôi: “Những bờ cát mịn màng
trông như những giải lụa óng ả, mượt mà ôm sát vòng eo thon của Quê Mẹ thân
yêu”.
Khi nhận thức được Quê Mẹ thân yêu đang bị
Trung Cộng tàn phá, bạn sẽ cảm thấy tự ái dân tộc bị tổn thương; từ đó tinh thần
dân tộc được khơi dậy và bạn chỉ muốn vung nắm tay vào mặt bọn Tàu khựa, quát
to: “Hãy trả lại sông, núi, biển, đảo cho ta!”
Hãy hành động trước khi quá muộn, hỡi Người
Trẻ Việt Nam!
01.05.2017
Điệp
Mỹ Linh
(nguồn: www.diepmylinh.com)