CHƯƠNG 2
Nhà văn, nhà thơ bị bắt trong chiến
dịch từ 2-4 đến 28-4-1976:
1. Dương Nghiễm Mậu
2. Doãn Quốc Sĩ
3. Trần Dạ Từ
4. Nhã Ca
5. Lê Xuyên
6. Nguyễn Mạnh Côn
7. Thế Viên
8. Thái Thủy
9. Mặc Thu
10. Vũ Hoàng Chương
11. Duyên Anh ….
Nguyễn Sĩ Tế bị bắt trước chiến
dịch, bị “tình nghi trong tổ chức phản động”. Hồ Hữu Tường bị bắt năm 1977.
Hoàng Hải Thủy bị bắt năm 1977, can tội gửi bài vở ra nước ngoài. Nguyễn Đình
Toàn bị bắt năm 1977, can tội âm mưu vượt biên. Nguyễn Thụy Long bị bắt năm
1977, can tội phản động. Một nhà thơ duy nhất được đưa ra tòa kết án 18 năm khổ
sai lao động là Tú Kếu “trong tổ chức chống phá cách mạng”.
Nhà báo bị bắt trong chiến dịch từ
2-4 đến 28-4-1976:
1. Đằng Giao
2. Chu Vị Thủy và đứa con mới sinh
được vài ngày
3. Hồng Dương
4. Thanh Thương Hoàng
5. Văn Kha
6. Hồ Nam
7. Đào Xuân Hiệp
8. Như Phong
9. Nguyễn Văn Minh
10. Trịnh Viết Thành
11. Anh Quân
12. Xuyên Sơn
13. Cao Sơn
14. Đặng Hải Sơn
15. Đặng Hoàng Hà
16. Lê Văn Vũ Bắc Tiến
17. Sao Biển
18. Nguyễn Văn Mau
19. Hồ Văn Đồng
20. Lê Hiền
21. Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh
22. Tô Ngọc
23. Uyên Thao
24. Lý Đại Nguyên
25. Vương Hữu Đức
26. Mai Thế Yên
27. Tô Kiều Phương
28. Mai Đức Khôi
29. Lê Trọng Khôi
Còn vài người nữa tôi không nhớ tên.
Nguyễn Tú bị bắt từ đêm 30-4-1975 và đã chết ở khám Chí Hòa vì tê liệt. Trần
Việt Sơn cũng bị bắt trước chiến dich 2-4-1976, được thả sau 3 năm tù đầy và đã
chết trong khoảng tháng 9-1983.
Đạo diễn điện ảnh bị bắt trong chiến
dịch từ 2-4 đến 28-4-1976:
1. Hoàng Vĩnh Lộc
2. Hoàng Anh Tuấn
3. Thân Trọng Kỳ
4. Minh Đăng Khánh
Soạn giả cải lương bị bắt trong
chiến dịch từ 2-4 đến 28-4-1976:
1. Mộc Linh
Giám đốc các nhà phát hành bị bắt
trong chiến dịch 2-4 đến 28-4-1976:
1. Nam Cường
2. Đồng Nai
3. Độc Lập
4. Khai Trí (nhà sách Khai Trí)
Họa sĩ bị bắt trong chiến dịch từ
2-4 đến 2804-1976:
1. Nguyễn Hải Chí (Chóe)
Dich giả bị bắt trong chiến dịch từ
2-4 đến 28-4-1976:
1. Nguyễn Hữu Hiệu
2. Nguyễn Hữu Trọng
Nhà văn, nhà thơ, nhà báo, nhạc sĩ
quân đội, nếu là sĩ quan hay công chức cấp trưởng ty trở lên, đi trình diện học
tập từ tháng 6-1975. Những người tôi biết:
1. Thanh Tâm Tuyền
2. Mai Trung Tĩnh
3. Dương Hùng Cường
4. Hà Thượng Nhân
5. Phan Lạc Phúc
6. Tô Thùy Yên
7. Văn Quang
8. Thảo Trường
9. Duy Lam
10. Phan Nhật Nam
11. Huy Vân
12. Đặng Trần Huân
13. Hoàng Ngọc Liên
14. Diên Nghị
15. Phan Lạc Giang Đông
16. Vũ Đức Nghiêm
17. Vũ Văn Sâm (Thục Vũ)
18. Đỗ Tiến Đức
19. Minh Kỳ
20. Thế Uyên
21. Vũ Thành An
22. Dương Kiền
23. Đinh Tiến Luyện
24. Nhất Bảng
Những người đã chết trong ngực tù:
1. Minh Kỳ
2. Thục Vũ
3. Nguyễn Mạnh Côn
4. Nguyễn Tú
5. Huy Vân
Những người đã chết sau khi được
tha:
1. Vũ Hoàng Chương
2. Hồ Hữu Tường
3. Hoàng Vĩnh Lộc
4. Minh Đăng Khánh
5. Trần Việt Sơn
Những người được tha rồi bị bắt lại:
1. Hoàng Hải Thủy
2. Dương Hùng Cường
3. Doãn Quốc Sĩ
4. Nguyễn Đình Toàn
Những người mới bị bắt từ tháng
4-1984:
1. Nguyễn Hoạt
2. Phạm Thiên Thư
Những người trình diện từ tháng
6-1975 và bị bắt từ 2-4-1976 chưa hề được thả lần nào và vẫn còn nằm tù:
1. Trịnh Viết Thành
2. Trần Dạ Từ
3. Tô Ngọc
4. Nguyễn Viết Khánh
5. Thảo Trường
6. Duy Lam
7. Phan Nhật Nam
8. Hoàng Ngọc Liên
9. Vũ Đức Nghiêm
10. Văn Quang
Những người không hề bị bắt:
1. Thanh Lãng
2. Phạm Việt Tuyền
3. Nguyễn Quang Lãm
4. Vũ Bằng
5. Tam Lang
6. Trần Lê Nguyễn
7. Thượng Sĩ
8. Toan Ánh
9. Nguyễn Hiến Lê
10. Bình Nguyên Lộc
11. Nguyễn Xuân Hoàng
12. Nguyễn Mộng Giác, v.v… và v.v…
Những “cây chống cộng” và những
“tiền bối” văn chương, đặc biệt tiền bối Toan Ánh Nguyễn Anh Toán còn được phép
ký bút hiệu Lã Vi phóng tin ra ngoại quốc bêu nhục những người nằm tù. Riêng
con số những nhà thơ, nhà văn công tác với cộng sản, xin miễn kể ra. Bởi vì, ít
nhất, đã có 5 “nhà” vượt biên và xuất ngoại chính thức đang ồn ào chống cộng
sản bên Mỹ. Kể rõ tên và các báo quý vị ấy đang cộng tác, sợ rằng quý vị ấy mất
khí thế chống cộng.
Anh hề dễ thương Khả Năng cũng bị …
đi học tập. Cộng sản đánh giá thấp nhạc sĩ nên Phạm Đình Chương, Nhật Trường, Y
Vân … cứ nhởn nhơ mà vượt biên hay ở lại mà lêu bêu ngoài đời. Năm 1980, sau 5
năm tiêu diệt ảnh hưởng văn học Sàigòn bằng đủ phương tiện truyền thông của
Đảng và Nhà Nước, cảm thấy vẫn chưa ổn, vẫn còn sợ hãi, nhà xuất bản Sự Thật
(Hà Nội, 1980) bèn tung ra cuốn sách ghê gớm, nhan đề nghe đã rụng tóc gáy:
Những tên biệt kích trong mặt trận tư tưởng văn hóa miền Nam. Biệt kích văn
nghệ gồm 10 tên:
1. Võ Phiến (di tản trước 30-4-1975)
2. Vũ Khắc Khoan (di tản trước
30-4-1975)
3. Nhất Hạnh (bị lưu đầy từ lâu)
4. Nguyễn Mạnh Côn (chết tại Xuyên
Mộc, 1979)
5. Hồ Hữu Tường (sắp chết được thả ra
ở trại Z30D, về nhà chết 1980)
6. Dương Nghiễm Mậu (được thả đầu
năm 1977)
7. Nhã Ca (được thả đầu năm 1977)
8. Mai Thảo (trốn chiến dịch
2-4-1976, vượt biên 1978)
9. Doãn Quốc Sĩ (được thả cuối năm
1979)
10. Duyên Anh (được thả 1981)
Bộ Chính Trị Trung Ương Đảng định
“xử tử” thêm Phạm Duy, Chu Tử, Thanh Tâm Tuyền nhưng phải vội vàng cất kỹ máy
chém vào “nhà truyền thống”. Bởi vì, quần chúng đọc Những tên biệt kích trong
mặt trận tư tưởng văn hóa miền Nam say sưa quá. Đọc xong rồi, kiếm tác phẩm của
biệt kích văn nghệ đọc … bổ sung. Đảng bèn khẩn trương thu hồi cuốn “Những tên
biệt kích trong mặt trận tư tưởng văn hóa miền Nam” về đốt. Đồng thời, Đảng
thộp cổ mấy chiến sĩ in lậu sách của biệt kích văn nghệ bằng roneo đưa ra tòa,
kết án khổ sai chung thân! Kể ra thì Đảng hơi ngu. Có ngu mới trích câu này của
Doãn Quốc Sĩ: “Tôi ví tôi như kim cương, răng cộng sản không thể cắn vỡ nó”. Có
ngu mới trích câu này của Duyên Anh: “Cầm tay con Thúy êm ái hơn cầm tay bác
Hồ”. Vân vân… Những sự ngu dốt của Đảng làm rất nhiều lão thành văn nhân, thi
sĩ nổi giận. Quần chúng đặt câu hỏi hiểm hóc: Tại sao tiên chỉ văn học không bị
bắt? Ờ nhỉ, có sự tréo cẳng ngỗng. Sĩ quan đi từ mút chỉ, lính học tập có 3
ngày. Dân quèn văn nghệ vào ấp, tiên chỉ và chánh tổng văn nghệ ở nhà. Trong
chiến dich 2-4-1976, quý vị thấy sợ hãi toát mồ hôi. Thoát nạn, quý vị ấy thở
phào sung sướng. Rồi ròng rã 8 năm, cộng sản không thèm bắt, đã đành, cũng
chẳng thèm nhắc nhở quý vị ấy (dù để chửi bới), quý vị ấy thấm nỗi nhục … không
bị bắt, quý vị ấy không dám cay cú cộng sản, liền trút những sự cay cú ấy vào
những thằng nhà văn bị bỏ tù, bị bêu nhục, bị đói khát, bị lao động khổ sai hộc
máu mồm. Quý vị ấy ung dung tự tại, cà phê sáng, rượu chiều và bốc máu chứng
nhân lịch sử để ru rú xó nhà, phẩm bình người này người nọ quằn quại trong ngục
tù và rất can đảm, rất “uy vũ bất năng khuất” gửi bài ra ngoại quốc không dám
ký tên mình để mạ lỵ người này, nói xấu người kia vì đố kỵ, vì mặc cảm thua sút
bị cộng sản coi như rác. Tôi không thể điểm mặt quý vì chứng nhân lịch sử này.
Rất tiếc, tôi đang ở Pháp. Một cơn bốc nóng, có thể, làm khổ quý vị ấy và e
rằng lịch sử mất hết chứng nhân rờ voi, chứng nhân xem chuông.
Tôi vừa trình bày một danh sách tạm
đầy đủ về nhà văn, nhà báo bị đàn áp thẳng thừng trong chiến dịch 2-4-1976. Qua
danh sách này, trừ những nhà văn, nhà báo di tản trước 30-4-1975, và trừ những
nhà văn ngàn đời không chính kiến, người đọc sẽ có 2 câu hỏi: 1. Tại sao một số
khuôn mặt văn nghệ sừng sỏ cỡ tác giả Bão thời đại không hề bị bắt mà còn được
leo lên máy bay … vượt biên? 2. Tại sao một số khuôn mặt văn nghệ có giải
thưởng đã không bị bắt mà còn được cộng tác với văn nghệ của chế độ mới? Khi
ấy, người ta nhân danh cái gì, nhân danh ai để vinh tôn hãy để bêu nhục những
người ngụp lặn dưới vực sâu thống khổ, ê chề. “Đoạn trường ai có quá cầu mới
hay.” Chưa qua cầu, chưa hay sự đời. Thì đừng nói phét, đừng phán xét những gì
nghe người ta kể. Nếu đã qua cầu, sẽ hiểu, sự đời thường đen mà lại trắng,
trắng mà lại đen. Đen và trắng đâu phải tại sự đời. Mà tại thói đời. Tôi qua
chuyện khác.
Trình diện học tập và bị bắt bỏ tù
khác nhau. Do đó, quy chế giam giữ và đối xử cũng khác nhau. Người trình diện
học tập, không bao giờ bị thẩm vấn, không bị nhốt trong phòng 24/24 năm nầy
sang năm khác. Họ chỉ làm bạn tự khai tập thể, một lần duy nhất, rồi chờ đợi.
Chung quy thì cũng chỉ là tù nhân cả, nhưng tù trình diện dể thở hơn tù bị bắt.
Tù trình diện tự ý vào tù nên không bị còng tay tại nhà, bị khám xét và tịch
thu món gì. Được quản lý bởi quân đội, những người tù trình diện đã có những
tháng năm thoải mái. Thí dụ ở Phước Long. Họ có thể cắm lều ngủ với vợ mỗi lần
vợ họ thăm nuôi họ. Vô số những cậu bé, cô bé mang tên Phước Long nhờ sự “nhân
đạo” của Đảng! Cái ý chí chiến đấu đã buông xuôi ở những cuộc mây mưa ân huệ
đó. Và nó chỉ dừng đúng từ cuối năm 1978, sự quản lý nằm trong tay công an.
Người ta vẫn có thể làm tình dầu người ta đau đớn, tủi nhục và bị quản chế. Sự
ưu đãi của kẻ thù luôn luôn ru ngủ lòng bất khuất. Người ta không thích bị
ngược đãi, dù bị ngược đãi người ta mới thấm thía thân phận tù đay.
Chúng tôi nằm trong tay công an từ
phút đầu. Chúng tôi không có thời giờ chuẩn bị vào tù. Công an ập vào nhà chúng
tôi, còng tay chúng tôi lại, khám xét nhà cửa, tịch thu đủ thứ rồi chở chúng
tôi, từng người, tống vào nhà giam. Chúng tôi ở chung với trộm cướp, sát nhân …
Chú thích
Không chính xác lắm.
Số các tù nhân tư tưởng bị bắt từ
tháng 4-1984 và còn bị giam giữ không được chính xác lắm. Có thể bị bắt đông
hơn và còn bị giam giữ đông hơn. Cũng có nhà văn nhà báo bị bắt khoảng 1978 can
tội hình sự.
CHƯƠNG
3
Mỗi người có một cảm giác khi, lần
đầu tiên trong đời, bước vào phòng giam của nhà tù. Cảm giác của tôi là sợ hãi.
Anh phải nhớ rằng nhà tù và trại cải tạo khác nhau. Nếu tôi đã phục vụ quân đội
như Thanh Tâm Tuyền, Phan Nhật Nam, Tô Thùy Yên … tôi sẽ đóng một khoảng tiền
ăn 10 ngày cho đơn vị tôi trình diện học tập ở trường Gia Long, ở trường Lasan
Taberd hay ở cô nhi viện Don Bosco, chẳng hạn. Rồi tôi chờ đợi xe molotova, xe
GMC, xe đò nữa, chở tôi đến trại nào đó ở Long Giao, ở Suối Máu, ở Long Thành.
Tôi đi tù với hàng ngàn, hàng vạn bạn bè, tôi không việc gì mà sợ hãi. Ít ra,
hai bà năm đầu, bộ đội quản lý tôi cũng dễ dãi hơn công an. Tôi đi lại thong
thả khắp trại và đêm đêm cửa phòng tôi không bị khóa chặt. Nhưng tôi đã thiếu
vinh hạnh được làm sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Hoà, tôi là nhà văn phản động
và công an đã đến còng tay tôi, đưa tôi đi một mình. Nỗi cô đơn của tôi không
những chất ngất trên đường đời mà còn chất ngất trên đường tù. Và tôi sợ hãi
nếu tôi không gặp người quen trong cái phòng giam ở địa chỉ chung của chủ
nghĩa, của những thứ chủ nghĩa đã đưa dân tộc tôi phiêu lưu quá xa khỏi tình tự
đích thực của mình, từ 100 năm nay.
May quá, tôi đã gặp văn hữu. Người
đầu tiên, Hoàng Anh Tuấn. “Nhà văn nghệ cao nhất nước” của tôi mặc trần xì cái
quần đùi xắn cao tít lên thành một kiểu xì-líp … xã hội chủ nghĩa. Phòng giam
chật ních gần 80 tù nhân, không khí nồng nặc mùi mồ hôi, mùi hôi nách, mùi nước
đái và mùi khói thuốc. Tuy đã khuya và tuy cái quạt hút gió lắp ngược chạy xình
xịch sát trần phòng, mồ hôi vẫn cứ chảy râm ran trên ngực phanh áo của Tuấn.
Anh ta vỗ vai tôi, mỉm cười:
- Sao mày đến muộn thế? Anh em đợi
mày mỏi cả mắt!
- Vì hôm nay họ mới hỏi thăm.
- Lạ nhỉ, mãi hôm nay nó mới vồ mày.
Bấy giờ, tôi hơi hơi lạ. Sau này,
tôi hết lạ. Buổi tối, mùng 2-4-1976, tôi định xuống Cây Quéo kiếm Trần Dạ Từ
hỏi xem Từ có đem về nhà cuốn Em Yêu nào không. Em Yêu là cuốn sách mới nhất
của tôi, nhờ Trần Dạ Từ in mướn. Sách chưa kip vô bìa, thì Sàigòn mất, và cơ sở
ấn loát Nguyễn Bá Tòng bị tiếp quản liền. Rẽ vào đường Ngô Tùng Châu, nhìn con
ngõ nhà anh chị Hoàng Văn Đức thấy tối tăm, bùi ngùi quá, tự nhiên, tôi đạp xe
về. Đêm ấy, vợ chồng Trần Dạ Từ – Nhã Ca bị bắt cùng với Đặng Hoàng Hà, Đặng
Hải Sơn. Nếu tôi có mặt ở nhà Từ, tôi cũng bị bắt luôn. Đêm ấy, Trịnh Viết
Thành, Nguyễn Mạnh Côn… lên đường trực chỉ Sở Công An. Đêm ấy, đêm kinh hoàng,
đêm mở đầu chiến dịch khủng bố văn nghệ. Hôm sau, cả Sàigòn xôn xao vụ bắt bớ
nhà văn, nhà thơ, nhà báo. Tối mồng 3-4, tôi đến nhà Mai Thảo ở 101 Phan Đình
Phùng xem Mai Thảo bị bắt chưa. Tôi ngồi ngoài xe hơi của Đặng Xuân Côn, bảo
Côn xuống hỏi thăm Nguyễn Đăng Viên, anh ruột Mai Thảo. Viên rất thông minh,
anh trả lời Mai Thảo đi vắng và nhờ Côn, nếu gặp Mai Thảo, nhắn về gấp. Viên ra
dấu cho Côn chuồn lẹ. Côn hiểu ý vì đã đoán ra 2 khách là nón cối, dép râu,
nhìn Côn không chớp mắt. Tôi rú ga, vọt mau. Côn ngoái lại, 2 khách công an đã
phóng ra vỉa hè. “Nó đến bắt Mai Thảo.” Côn nói. Tôi đi tìm dấu vết Mai Thảo.
Công an không bắt được Mai Thảo, không lùng nổi tung tích Mai Thảo, đã giả vờ
quên tôi. Để tôi kiếm giùm Mai Thảo. Như thế, có thể, tôi vuột luôn với Mai
Thảo, họ bèn chấm dứt trò chơi và đưa tôi vào ngục.
- Ừ, lạ thật. Tôi nói.
Sau Hoàng Anh Tuấn, tôi nhận ra
Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Hữu Hiệu, Thanh Thương Hoàng, Nguyễn Hải Chí (Chóe),
Văn Kha, Đằng Giao, Hồ Nam… Hoàng Anh Tuấn thuyết trình:
- Quần hào đã tụ tập hết ở Quang
Minh Đỉnh! Bên cạnh chúng ta có Trịnh Viết Thành, Anh Quân, Lê Xuyên. Trước mặt
chúng ta có Doãn Quốc Sỉ, Nguyễn Mạnh Côn, Trần Dạ Từ, Thế Viên, Hoàng Vĩnh
Lộc, Minh Đăng Khánh…
Hoàng Anh Tuấn lúc nào cũng có thể
vui được. Những ngày ở sở Công An, nguồn vui của Tuấn là tranh luận với Thân
Trọng Kỳ về điện ảnh. Tuấn chê Thân Trọng Kỳ chẳng hiểu điện ảnh tí gì, dù đã
du học bên Mỹ. Tôi sẽ quên Hoàng Anh Tuấn nhiều thứ, kể cả những bài thơ thật
bồng bế, những đóa hoa trên 10 ngón tay họ Hoàng, nhưng có 2 thứ tôi khong bao
giờ quên Tuấn, 2 thứ quá đơn giản mà rất người. Thứ nhất, Tuấn nhường chỗ trên
bục xi măng cho tôi nằm cạnh Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh, tình nguyện vác chiếu
xuống ngủ sát lối vào cầu tiêu. Luật lệ bất thành văn của bất cứ nhà tù ở bất
cứ một chế độ Việt Nam nào là, hễ anh mới bước chân vào một phòng mới, anh đành
chịu “tạm trú” ở nơi hẩm hiu nhất. Nơi hẩm hiu nhất của đêm tù đầu tiên của đời
tôi là nền căn phòng ẩm ướt gần khít cửa vô nhà xí. Tù nhân, ngót 80 tù nhân,
đêm như ngày, sẽ bước qua tôi, bước qua “nhà văn của tuổi trẻ,” bước qua cha đẻ
của Trần Đại, James Dean Hùng, Hoàng Guitar, Dzũng Dakao để đi đái, đi ỉa!
Hoàng Anh Tuấn không nỡ nhìn tôi nằm co ro khốn khổ. Tôi từ chối. Tuấn nói Tuấn
thức suốt đêm, Tuấn chẳng cần ngủ. Thứ hai, Tuấn ngồi xếp bằng tròn “diện
bích”, trân trọng lần chuỗi và đọc kinh. Lucifer cầu nguyện Chúa! Tuấn trả lời
anh em: “Chúa không đến với tôi ngoài đời. Nhưng tôi biết ông theo tôi vào tủ.
Và tôi đọc kinh cầu nguyện. Tôi cảm giác ấm áp vì có ổng trên tôi.”
- Mấy hôm đầu, bị cơn ghiền hành hạ,
ông Nguyên Mạnh Côn rên rỉ khiếp lắm.
Đằng Giao nói. Vợ của Giao, Chu Thị
Thủy – con gái Chu Tử – và đứa con sơ sinh cũng bị bắt. Chủ nghĩa cộng săn thù
hằn cả sản phụ lẫn hài nhi! Thế mà người ta vẫn khoe khoang chế độ người ta ưu
việt. Và thế giới vẫn bị huyễn hoặc bởi sự ưu việt lợm giọng ấy. Nếu có những
vĩ đại lãnh tụ cộng sản tự hào về thành tích tù đầy của mình từ thiếu niên
tranh đấu thì con trai út của Đằng Giao, sau này, xứng đáng tự hào hơn. Vì mới
sinh ra đời 3 ngày, sinh ra giữa đời hòa bình thống nhất tổ quốc, đã can tội phản
động, phải theo bố mẹ vào tù. Và nếu thế giới có bỉ thử chúng ta rằng, tại sao
nước anh có nhiều tướng lãnh đào ngũ chạy trốn trước lệnh đầu hàng thế, thì
chúng ta còn chỗ dựa vớt vát: Nước tôi còn có vị anh hùng vĩ đại nhất loài
người, mới 3 ngày đã nằm tù cộng sản! Một vết son của chế độ hay một dấu ấn dơ
bẩn hằn lên chủ nghĩa? Câu trả lời dành cho lương tri của nhân loại.
- Nguyễn Sĩ Tế nằm cachot. Nhã Cả
nằm cachot. Lần lượt tới bọn mình. Linh mục Hoàng Quýnh về nước Chúa tháng
trước, ở cachot. Linh mục Trần Hữu Thanh bị tê liệt, mới rời phòng nầy hôm kia.
Cứ bình tĩnh.
Như Phòng nói:
- Tớ sẽ khước từ mọi khai báo. Tớ
không vợ con nên có quyền cù nhầy. Các cậu đừng noi gương tớ. Chỉ đàn anh Trung
Quốc mới cứu nổi chúng mình.
Quân sư Phải Gió, nhà tiên đoán thời
cuộc chơi bạo hơn Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh. Lúc ấy, tôi cho rằng Như Phong
nói phét. Sau này, Trung Quốc gây hấn với Việt Nam, tôi mới phục tài Như Phong.
- Tớ lạ nhất trường hợp thằng Chóe.
Chóe, hỗn danh của Nguyễn Hải Chí,
giai cấp nông dân và có thể xếp vào hàng ngũ bần cố nông. Sinh quán ở Long
Xuyên. Cha bỏ đi phiêu lưu từ nhỏ. Sống với mẹ. Ngày ngày đóng vai “cowboy” bên
kinh rạch và hát bài tủ “Ai bảo chăn trâu là khổ”! Chiến tranh dẫn Chí lên
Sàigòn, đăng lính, đeo lon hạ sĩ, phục vụ tại Tống Tham Mưu. Hạ sĩ Nguyễn Hải
Chí bé tí trước đại tướng Cao Văn Viên. Nhưng họa sĩ Chóe thì vĩ đại gấp nghìn
lần Cao Văn Viên. Khi đại tướng tổng tham mưu quân lực Việt Nam Cộng Hòa đào
ngũ trốn khỏi Việt Nam quên đọc Huấn thị, Nhật lịnh nhờ đại tá thi sĩ Cao Tiêu
viết hộ thì hạ sĩ Hải Chí còn nằm ở phòng giam của Cục An Ninh quân đội. Trước
ngày tổng thống anh minh Nguyễn Văn Thiệu tự vặn ốc đinh bù loong khỏi cặp đùi
rời ghế rồng chừng 3 tháng, đám cầy cáo Hoàng Đức Nhã, Đặng Văn Quang đã bắt
một số ký giả chống “độc diễn” năm xưa và thường xuyên diễu cợt Thiệu. Một cái
chảo to tướng chụp lên đầu Sức Mấy, Chóe: Cộng sản. Chóe bị bắt cùng lúc với
vài tên ký giả nằm vùng. Vì Chóe gốc quân đội nên Chóe về nằm ấp Nguyễn Bỉnh
Khiêm. Dịp này, Tổng Nha Cảnh Sát cũng bắt Mặc Thử, Vũ Bằng không phải lý do
chính trị mà do nhà tỷ phú Phạm Quang Khai gài bẫy!
Chiều 30-4-1975, các thư cục lớn nhỏ
trong cái Cục An Ninh chuồn đâu mất tích. Một mình Chóe mở cửa nhà giam đi về
nhà thơ thới hân hoan. Rồi Chóe về chỗ nhật báo Tin Sáng của bọn thời cơ chủ
nghĩa Ngô Công Đức, Nguyễn Văn Bình, Hồ Ngọc Nhuận, ký biệt hiệu Ta. Rồi Chóe
được mời làm thư ký toà soạn cho tuần báo Lao Động Mới của công đoàn thành phố,
dưới trướng đồng chí Nguyễn Hộ, ăn lương biên chế cán bộ. Và rồi, công an bảo
vệ chính trị đem còng tới tận nhà Chóe đưa Chóe vào nhà lao. Người ta đã phẩm
bình Chóe rằng tại sao Chóe cộng tác với chế độ mới và đả kích chế độ cũ. Người
ta không chịu tìm hiểu cuộc đời Chóe. Chế độ cũ cho tài năng số 1 về hí họa của
đất nước cái gì? Một cái lon hạ sĩ và những tháng tù đầy! Cộng sản rất gian ác
nhưng đã không ngu. Nó nhìn rõ tài năng hiếm có của Chóe. Nó biết Barry Hilton
đã in tập hi hóa của Chóe. Hilton bị áp lực của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ nên không
đem phát hành tập hí họa. (Vì trong tập hí họa nầy, Chóe lố bịch Nixon va
Kissinger rất điêu luyện và rất độc địa. Barry Hilton là công chức của Bộ Ngoại
Giao. Người ta đặt 2 điều kiện. Một: Rời khỏi ngành ngoại giao thì phát hành
tập hí họa của Chóe. Hai: Ở lại ngành ngoại giao thi hủy tập hí họa đi. Hilton
chọn điều kiện thứ 2.) Do đó, thế giới chưa biết tài năng của Chóe. Nếu tập hí
họa của Chóe được phát hành, thế giới đã ồn ào can thiệp cho Chóe, khỏi cần đợi
mãi đến cuối năm 1983, người ta mới đi hỏi vung vít khắp nơi về lý lịch một họa
sĩ trứ danh tên là Nguyễn Hải Chí. Nó biết hoàn cảnh sống hiện tại của Chóe. Nó
biết giai cấp xã hội của Chóe. Nó biết mức độ và ảnh hưởng chống đối trước đây
của Chóe. Và nó xử dụng Chóe. Nó xử dụng Chóe để thu hút những tài năng khác
còn cay cú, ngờ vực nó. Nó cần Chóe một giai đoạn nào đó thôi. Chóe chưa có
kinh nghiệm cộng sản, Chóe còn trẻ, Chóe vừa mang thương tích chế độ cũ. Chóe
bèn trả thù 3 tháng năm tù oan ức ở Cục An Ninh quân đội bằng cách giao du với
cộng sản. Rồi Chóe lại bị cộng sản bắt giam. Lần này lâu quá, đã 9 năm rồi đấy.
9 năm tức là 108 tháng! Người ta cứ thích phẩm bình và phẩm bình. Chưa thấy ai
đem tiền bạc nuôi Chóe và bảo Chóe đừng công tác với cộng sản. Và, hình như,
vẫn chưa thấy ai gởi quà về trại Gia Trung tặng Chóe, ngoài vợ con của Chóe 1.
Nhưng người ta đã thấy, trên các tạp chí màu sắc lòe loẹt, vài anh đại tá hạng
bét, học đòi mang tâm sự Mã Chiếm Sơn, dâng hoa tặng gái hoa hậu, cười toe
toét. Và nhận những tràng pháo tay. Khi ấy, Phan Nhật Nam quạnh hiu ở Thanh
Hóa, Văn Quang rã rượi ở Sơn La, Tô Thùy Yên mệt mỏi ở Hàm Tân, Thảo Trường phờ
phạc ở Vĩnh Phú.. Đó là sự lạ lùng của Như Phong.
- Hôm qua có chuyện vui lắm, Đằng
Giao nói, nếu ông vô cùng lượt tôi, cuộc chơi sẽ vui hơn.
Anh em bị bắt từ 2-4, trừ Nguyễn Hữu
Hiệu và Dương Nghiễm Mậu trầm lặng, thường tụ tập gần cửa sắt chấn song đan
khit nhìn thẳng sang khu cachot, cũng là lối dẫn tù mới vào 2 phòng A, B, xem
đến lượt thằng nhà văn, nhà thơ nào … nhập Cõi. Hồ Nam đến trước tôi một hôm.
Khi Hồ Nam thấp thoáng, Đằng Giao kể, trong phòng đã chuẩn bị đón chàng. Đạo
diễn hò hét: Thằng Trưởng phòng Thu ngồi xếp bằng tròn trên bục, lẹ đi. Mặt mày
phải thật cô hồn. Mày không cần hỏi han gì cả. Cứ ngậm miệng. Hai đứa khác
quạt, 2 đứa khác đấm bóp cho nó. Cấm cười. Tất cả nghiêm trang, sợ hãi. Thủ
Trưởng phòng to xác, can tội dắt tàn quân vô bưng biền tìm đơn vị cũ. Hồ Nam
lọt cõi B. Anh em mừng quá. Chàng ký giả biết cả những điều mình không biết lơ
lơ láo láo. Chàng thấy 4 nhà văn, nhà báo gồ ghề đang phục vụ Trưởng phòng thì
chàng bèn hình tượng vua tù và tù con so của chế độ cũ. Chàng rét. Chàng đứng
trơ trơ. Đạo diễn ra hiệu. Một tên nhà văn phục dịch Trưởng phòng hất đầu:
“Chào Trưởng phòng đi, Hồ Nam.” Hồ Nam quýu lưỡi: “Xin chào ông Trưởng phòng”.
Trưởng phòng nín khe. “ Mày có thuốc là không?” Hồ Nam móc bị hành lý ra 2 gói
Bastos de Luxe, trịnh trọng để lên bục. Anh em nhào tới, xé ra, mời nhau hút.
Và cười rộ. Hồ Nam cười theo. Hú vía!
Sau Đằng Giao là Dương Nghiễm Mậu kể
những giây phút công an ập vào nhà mình. Mậu thở dài: “Tôi chỉ tiếc mấy tập bản
thảo viết từ tháng 5, 1975. Họ tịch thu hết”. Tôi hỏi: “Cậu viết về cái gi?”
Mậu đáp: “Về sự hấp hối của Sàigòn trọn ngày 30-4 mà tôi nhìn rõ, nghe rõ”. Mai
Thảo, có lần nói với tôi, trước chiến dịch 2-4-1976: “Cần 20 thằng nhà văn cự
phách mới có nổi đại tác phẩm Sàigòn, ngày dài nhất”. Mai Thảo nói đúng. Tôi
nghĩ Mậu đã viết và Mai Thảo đã nghĩ tới, chắc chắn, nhiều anh em khác đã viết,
đã nghĩ tới. Nhưng bao giờ thế giới mới được đọc Sàigòn, ngày dài nhất, ngày
dài nhất cho kẻ chiến thắng lẫn người chiến bại, cho cả đồng mình phản phúc lẫn
thế giới toa rập, cho cả thủ đoạn hân hoan mất Sàigòn của Mỹ lẫn âm mưu dơ bẩn
không muốn mất Sàigòn của Liên Xô, Trung Quốc… Sàigòn, ngày dài nhất của nhà
văn Việt Nam, của những tâm hồn đích thực Việt Nam, không phải của bọn nhà báo
Mỹ đê tiện vừa ngửa tay lãnh tiền CIA vừa ngửa tay lãnh tiền KGB. Thế giới,
nhất là thế giới thứ 3, và đặc biệt các nước đang diễn trò quân ta giết quân
mình bằng ý thức hệ cộng sản, tư bản, bằng bom đạn Mỹ, hỏa tiễn Nga cần học tập
kinh nghiệm Sàigòn, ngày dài nhất, ngày dài nhất của hậu quả 20 năm khốn khổ
nhất của lịch sử chiến tranh nhân loại. Và sau ngày dài nhất ấy là năm tháng
dài nhất của đói rách, ngu dốt, hận thù, trại tập trung, nhà tù. Và vẫn chiến
tranh!
Hình như thế giới vẫn bị mê hoặc
trong sương mù chiến tranh ý thức hệ. Thực ra trò chơi của ý thức hệ đã chấm
dứt. Ngày nay không còn ý thức hệ vô sản chơi nhau với ý thức hệ tư bản và các
ý thức hệ khác nữa. Chủ nghĩa của Marx, Angel đã bị phôi pha từ sự “sáng tạo”
của Lenine, từ sự thoát lý của Tito, từ sự tách rời của Mao Trạch Đông. Bây
giờ, chỉ còn là sự tranh chấp quyền lực, tranh chấp ảnh hưởng giữa 2 thế lực
mạnh nhất, dã man nhất, đê tiện nhất, xảo quyệt nhất. Hai thế lúc ấy, tạm dùng
chữ nghĩa của Hồ Hữu Tường, là văn minh chính ủy và văn minh cơ khí. (Nếu Hồ
Hữu Tưởng còn sống và đang có mặt ở Mỹ, ở Âu, ông sẽ sửa văn minh cơ khi thành
văn minh bấm nút.) Ngày nay, không một thế lực nào dám mở miệng nói về chính
nghĩa, về lý tưởng nữa. Hay mở mắt hướng về việt Nam! Hãy nhìn rõ cái lý tưởng
giải phóng dân tộc bị trị của công sản! Hay hỏi xem 10 năm ròng rã kháng chiến
chống thực dân Pháp được cái gì và mất những gì? Được cái lớn nhất và vĩ đại
nhất là sự nghiệp “cứu nước” của ông Hồ Chí Minh, là tên tuổi danh vọng của ông
Võ Nguyên Giáp, là nền độc lập cưa đôi xử sở, là tiếng thơm “dân tộc anh hùng”
viễn vông, là … Hồ Chí Minh muôn năm! Cái mất lớn nhất, vĩ đại nhất là 1 triệu
500 ngàn dân Việt Nam chết ghê rợn bằng 1 triệu 500 ngàn cách giết, kiểu giết,
lối giết của cháu yêu của ông Hồ trong mùa liên hoan máu Cải Cách Ruộng Đất năm
1956 và kế tiếp là mùa liên hoan máu sửa sai, thêm 500 ngàn cháu yêu của ông Hồ
“tình nguyện” chết bằng 500 ngàn mẫu chết khiếp đảm nhằm xoa dịu sự phẫn nộ của
nhân dân. Chưa kể một thế hệ tuổi trẻ Việt Nam và hàng chục ngàn trí thức tinh
hóa của đất nước vùi xác ở chiến trường và rừng già thủ tiêu ròng rã 10 năm
kháng chiến đánh bóng cho Hồ Chí Minh và chủ nghĩa cộng sản. Hãy mở mắt hướng
về Mã Lai, một nước vô danh tiểu tốt, một nước đói kém văn hóa, văn hiến, một
nước hiếm hoi anh hùng! Mã Lại gần Việt Nam lắm, cũng nô lệ 100 năm đấy, cũng
Nhật đến đuổi Anh, cùng cộng sản nhi nhô. Thế mà, chẳng cần 10 năm kháng chiến,
chẳng cần tiêu thổ kháng chiến, chẳng cần quy định giai cấp, chẳng cần đấu tố,
chẳng tốn một giọt máu nào, Mã Lai vẫn độc lập. Độc lập trong hòa bình và đoàn
tụ. Độc lập theo kiểu độc lập nước nhỏ. Đừng đòi hỏi độc lập toàn vẹn cho bất
cứ một nước nhỏ nào trên thế giới, ở thời đại của chúng ta. Mày độc lập chính
trị thì tao áp đặt nô lệ kinh tế lên đầu xứ sở máy. Dân tộc mày cứ chống tao
đi, không sao, tao nắm cổ bọn thống trị thôi. Mày ái quốc cách mấy cũng khó
thoát khỏi lưới thép thực dân mới, thoát khỏi móng vuốt đô la! Đó, nhìn rõ chưa?
Chính nghĩa và lý tưởng cộng sản đã rực rỡ trên một nửa bản đồ hình chữ S. Chưa
hết đâu, lý tưởng giải phóng còn tiến xa, tiến mạnh, tiến vững chắc, tiến sâu
vào tội ác thêm hai mươi năm nữa.
Hai mươi năm sáng danh “chủ nghĩa
Mác Lê bách chiến bách thắng” ở Việt Nam, ở toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam, được
cái gì và mất những gì? Nói về cái mất trước. Hàng mấy thế hệ thanh niên, cả 2
miền Nam Bắc, chết thê thảm, chết văng chân lên trời, chết cắm đầu xuống đất
bởi bom Mỹ, hỏa tiễn Nga. Dọc Trường Sơn, trên đường mòn Hồ Chí Minh, xương khô
và xương khô, lóng tay và đầu lâu ngỗn ngang như đất cục, như củi mục! Không
đếm xuể mồ mả của dân lành vô tội được hóa kiếp bởi bom napal, bom bi, bom B52
tư bản, đạn đại bác, hỏa tiễn vô sản. “Vì lý tưởng xã hội chủ nghĩa, vì Đảng
cộng sản, quân đội ta tiến lên!” Quân đội ta chết nhiều quá. Những sư đoàn lừng
lẫy Điện Biên Phủ năm xưa chỉ còn cái tên, người đã bị nướng hết. Thôn quê miền
Bắc hết sạch thanh niên trên 17 tuổi. Đảng vay tuổi – ôi chủ nghĩa cộng sản! –
thiếu niên. Vì lý tưởng, nhãi ranh 15 tuổi nhập ngũ. Vì lý tưởng, không, vì hết
lính hứng bom Mỹ cho lý tưởng, nhi đồng 15 tuổi bị võ trang bằng thù hận, bằng
mồi thơm dũng sĩ, bằng AK và một tuần tập bắn rồi bị tung vào chiến trường. Và
thành liệt sĩ. Và thành thương phê binh. Số ít sống sót thành chiến sĩ anh hùng
quanh năm ăn cơm gạo hẩm trộn khoai sắn với rau muống già luộc chấm nước muối.
Cả chục ngàn dân bị chôn sống ở Huế mùa Tổng Công Kích Mậu Thân. Rồi buồn vì
lính vô sản chết nhiều mà chôn sống dân lập thành tích quá ít, lại thua đau,
mất luôn chủ tịch vĩ đại Hồ Chí Minh. Trước khi nhắm mắt để vào hòm kính, Hồ
Chí Minh muôn năm đã phát điên. Lăng của chủ tich là một sự cười đùa trên nỗi
khổ của nhân dân. Chỗ nằm của xác chết giá trị bằng lương thực nuôi cả dân miền
Bắc một năm! Có thể hai, ba năm. Tiến nhanh, tiến mạnh, lý tưởng giải phóng tự
thiêu quân mình và nướng dân mình ở Bình Long, ở Quảng Trị, ở Quy Nhơn, ở
Kontum. Cái lý tưởng giết người của chủ nghĩa cộng sản đã mê hoặc bọn lãnh tụ
Việt Nam. Họ chấp nhận mọi lạc hậu về khoa học, kỹ thuật, họ thản nhiên bắt dân
đói khổ, ngu dốt, họ khích lệ tuổi trẻ nhảy xuống vực thẳm chiến tranh mù mịt,
lao vào họng súng tư bản, đứng giữa trời hứng bom đế quốc để thỏa mãn sự ưu
việt của chủ nghĩa và óc sáng tạo của lãnh tụ. Họ đã chiến thắng đế quốc Mỹ ở
Việt Nam, sau 20 năm gặm khoai đánh giặc. Nhưng được gì? Một quê hương hòa bình
thống nhất, tan nát, rã rượi, chia lìa. Một mảnh đất đầy dẫy nhà tù, trại tập
trung. Một vùng trời ngút ngàn thù hận anh em. Người Việt Nam trả thù người
Việt Nam. Chẳng còn vấn đề thực dân, đế quốc nữa. Bây giờ là nanh vuốt Việt Nam
khống chế Việt Nam. Và chủ nghĩa, và lý tưởng giải phóng đứng chót vót đỉnh cao
thành công. Và người ta bảo đó là độc lập, tự do tìm thấy sau hai mươi năm chiến
đấu gian khổ!
Hãy mở mắt hướng về Mã Lai! Dân tộc
ấy hòa bình trong chiến tranh triền miên của Việt Nam. Dân tộc ấy không được
vinh dự thường xuyên đặt tít hàng đầu trên báo Mỹ, báo Pháp, báo Nhật, báo Đức…
Về tỷ tỷ tấn bom rơi. Về triệu triệu người chết. Về Huế Mậu Thân. Về Mỹ Lai
thảm sát. Không, dân tộc ấy bình thường. Do đó, đất nước Mã Lại thiếu một hố
bom B52 nhưng thừa nhiều thành phố mới xây dựng, thừa lúa gạo, thừa cao su,
thừa thiếc, thừa dầu hỏa. Và, hiện nay, Mã Lai, cái nước vớ vẩn ấy lại đóng vai
trò quyết định số phận cả vùng Đông Nam Á, quyết định luôn cả số phận dân tộc
anh hùng 20 năm chống Mỹ cứu nước! Nhìn rõ để thức tỉnh. Để nhận chân giá trị
của lý tưởng của chủ nghĩa cộng sản.
Cái lý tưởng giải phóng dân tộc bị
trị đã vậy còn cái lý tưởng khai phóng tự do, dân chủ cho các nước chậm tiến
của người quân tử Hoa Kỳ ra sao? Người quân tử Hoa Kỳ, bằng kinh nghiệm Việt
Nam, ngày nay chúng ta có thể gọi là ngụy quân tử mà không sợ mình thiên kiến.
Người Mỹ đến với các nước chậm tiến như một tên trọc phú đến với dân nghèo. Họ
ồn ào thi ân, bố đức vì họ đã ngắm trước được những thứ họ sẽ thu về. Bọn lái
buôn nào cũng tính toán kỹ lưỡng. Trong tác phẩm Một người Nga ở Saigon, tôi đã
nói về người Mỹ ở Việt Nam. Và tôi khẳng định rõ rệt: Chính sách của nước Mỹ cư
xử với dân tộc tôi không phải là dân tộc Mỹ. Tôi chống chính sách của chính phủ
Mỹ, không chống dân tộc Mỹ. Bởi vì, suy nghĩ cho cùng, cái sự đầu tắt mặt tối,
nợ đầm nợ đìa, đến chết vẫn chưa trả hết nợ cho nhà cửa, cho xe cộ, cho đủ mọi tiện
nghi; đến chết vẫn chưa hiểu hạnh phúc đơn sơ, hạnh phúc thung dung của người
phương Động của dân chúng Mỹ cũng là do thứ chính sách nó lệ hóa con người
phóng ra từ một thứ chủ nghĩa đê tiện, thứ văn minh bấm nút. Tôi nói tiếp về lý
tưởng khai phóng tự do, dân chủ và sự có mặt của người Mỹ, chính sách Mỹ ở nước
tôi. Trước hết, lý tưởng ấy được khai phóng một cách trịch thượng, xấc láo và
đốn mạt. Nó khỏi sự bằng 2 bàn tay thân hữu. Rồi không thân hữu nữa. Vì nó
không muốn kết bạn với nước nhỏ. Nó có đầy tớ. Nó rút bàn tay biểu tượng trên
nên cờ sao sọc khỏi bàn tay nước nhỏ. Để nắm cổ nước nhỏ! Muốn nắm cổ nước nhỏ
mà thao túng, nó phải tiêu diệt thần tượng của nước nhỏ, nó phải gạt loài người
công chính mà đem mồi phú quý nhữ lũ cầy cao tay sai. Và nó đã chơi trò bẩn y
hệt Nhạc Bất Quần cộng sản. Nếu cộng sản phát động quần chúng để chôn sống các
giai cập đối nghịch thì người Mỹ cũng xúi bẩy các phong trào quần chúng vùng
dậy bắn bỏ lãnh tụ của họ, kẻ đối nghịch với quyền lợi Mỹ. Cộng sản trơ trẽn
tuyên bố: Đó là sự phẫn nộ của nhân dân. Người Mỹ trơ trẽn tuyên bố: Đó là sự
phẫn nộ của các phong trào đối lập muốn có tự do, dân chủ thật sự! Về thủ thuật
giết người ái quốc nước nhỏ, chỉ khoái xử dụng đầy tớ ngoan ngoãn, cộng sản và
tư bản giống nhau. Tư bản tệ hơn cộng sản ở điểm, đã tình nguyện làm đầy tớ cho
nó mà nó vẫn không bênh vực tận tình. Hà Nội và Sàigòn là sự so sánh chính xác
nhất.
Không hề thấy báo chí Liên Xô phê
bình cuộc chiến đấu chống Mỹ của Hà Nội. Nghệ thuật tuyên truyền của Liên Xô đã
kích thích cả ông già sắp chết, con nít còn hôi mùi sữa ủng hộ nước bạn Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Đến Simonov, nhà thơ kích thước của Liên Xô, còn chi một
bài thơ ca ngợi sự hứng bom Mỹ của Hà Nội và lên án Mỹ kịch liệt. Ngoài Liên
Xô, trước 30-4-1975, không hề thấy bảo chí Đông Âu nói xấu người anh em cộng
sản Việt Nam. Không hề thấy một lời ngắn nào của các nhà lãnh đạo xã hội chủ
nghĩa công kích Hà Nội. Fidel Castro, người hùng của Mỹ Châu La Tinh, đã ca
ngợi Hồ Chí Minh và cuộc chiến đấu ăn cướp của Hà Nội hết lời. Fidel Castro đã
đánh bóng Hà Nội, đã huyễn hoặc các nước Nam Mỹ và Phi Châu. Chỉ Fidel Castro
mới dám tạc tượng Nguyễn Văn Trỗi và xuất bản sách viết về anh hùng Nguyễn Văn
Trỗi! Vân vân … Ngoài mặt, cộng sản nó cưu mang nhau lắm, nó “hữu nghị” thắm
thiết lắm. Trong lòng nó, dĩ nhiên, bẩn thỉu, bẩn thỉu như lòng đàn anh nước
lớn tư bản. Thế giới cộng sản nó chơi với nhau, thế đấy. Còn thế giới tự do
chơi với nhau ra sao? Thế giới tự do luôn luôn ngoác cái miệng vinh tôn “Sàigòn
là tiền đồn chống cộng ở Đông Nam Á”, “Nam Việt Nam là thành trì bảo về tự do
thể giới” nhưng cũng luôn luôn uốn lưỡi bôi nhọ Sàigòn đủ cách, đủ kiểu, mặc
dù, đại diện của cái thế giới nhỏ mọn, bất công ấy đã làm giàu trong chiến
tranh tủi nhục 20 năm của Sàigòn. Nhật Bản là con kên kên dơ dáy và vô liêm sỉ
nhất. Nó tiêu biểu cho tinh thần giả đạo đức của thế giới tự do. Nó phơi bày
nguyên vẹn tâm hồn lái buôn tư bản gian dối. Xoá bỏ cái thế giới tự do mù lòa
đi, chỉ nói về ông chủ Mỹ thôi. Và hãy nói cái bề ngoài của ngụy quân tử Mỹ.
Này, anh thế giới thứ 3, anh nước nhỏ chậm tiến, anh nên sưu tầm những câu
thuộc loại “xú ngôn” phọt ra từ những cái miệng gang thép của quý vị nghị sĩ,
dân biểu bọ cú về Saigon để suy gẫm. Nhiều lắm. Tôi xin đan cử một vị tiêu biểu
cho tinh hoa của dân tộc Hoa Kỳ thôi. Vị này, ngài Fullright (Nếu tôi viết đúng
càng tốt, viết sai cũng tốt luôn vì tôi có thể dịch rất bồi: Fullright là nghị
sĩ của lẽ phải đầy nồi chân, là nghị sĩ công chính tràn trề, là nghị sĩ lụt lội
lẽ phải, là nghị sĩ đầy quyền, vân vân …) đã nằm ngủ ở Hoa Thịnh Đốn, trong
chiêm bao, ngài ú ớ: “Sàigòn là một ổ điểm!”. Anh thấy vị nghị sĩ tinh hoa của
văn mình 200 năm Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ này có mặt dầy, vô giáo dục không? Kẻ
thù của Mỹ là Liên Xô. Kẻ thù hung hãn nhất thời đó là Việt Cộng mà không dám
sủa: “Washington là một ổ lưu manh!” Những đồng minh Mỹ đã xất xược ví thủ đô
“nước bạn”, thủ đô của văn hóa, của văn học nghệ thuật, của mọi cơ cấu quốc
gia, của anh hùng dân tộc Việt Nam là “ổ điếm” thì, quả thật, miệng ông ta và
công ty có gang có thép. Nghị sĩ Mỹ chơi nước nhỏ kỹ lắm. Báo chí Mỹ chơi nước
nhỏ kỹ hơn. Tôi không nói tất cả báo chí Mỹ. Điều này hồ đồ. Tôi chỉ nói cái số
báo Mỹ đã chơi nước nhỏ mà Sàigòn là nạn nhân thê thảm của họ. Anh hãy đến thư
viện nước Mỹ, bất cứ một thư viện lớn của tiểu bằng nào, lục lại các báo đã
xuất bản năm 1954, trước ngày chí sĩ Ngô Đình Diệm về nước chấp chánh mà đọc.
Anh đừng quên đọc chuyện Mỹ du của chí sĩ Ngô Đình Diệm mà báo chí Mỹ đã thắp
hào quang rực rỡ chung quanh thân thế và sự nghiệp vị lãnh tụ anh minh của Nam
Việt Nam. Đọc kỹ, anh nhé, chuỗi ngày dẹp sứ quân, chuỗi ngày xây dựng ấp chiến
lược. Đủ rồi, anh lại tìm đọc, vẫn những tờ báo đã ca ngợi chí sĩ Diệm, bởi nhờ
ông quyết liệt, xả láng, xuất bản năm 1963, trước ngày ông bị tay sai của Mỹ
bắn chết trong xe bọc sắt của Mỹ. Họ đã khạc đờm xuống vỉa hè rồi họ hạ mình
cúi liếm những bãi đờm họ đã khạc! Chữ nghĩa có 2 tiếng phản tỉnh vừa dễ yêu
vừa ghê tởm. Những kẻ trót “bốc thơm” người khác, trót đánh bóng, mạ kền người
khác vì những quyền lợi nào đó, khi cảm thấy mình hố hay khi cảm thấy quyền lợi
mới beo bở hơn thì “thối” hóa “thơm” vá “thơm” hóa “thối”. Ngụ ngôn Tây phương
đã có chuyện Cái lưỡi. Khổng Tử cũng đã luận về hạng người này. Và ở nước Mỹ,
một vị tổng thống (tôi quên tên) đã nói thẳng vào mặt họ, đại ý: Bảo chỉ có thể
bẩn thỉu, vô liêm sỉ, nhưng vẫn cần thiết có báo chí và tự do báo chí. Dĩ
nhiên, tổng thống Mỹ luận về báo chí Mỹ. Vậy thì họ có quyền tự do khạc đờm rồi
liếm lại đờm đã khạc trong 2 nghĩa bốc thơm, bốc thối. Chẳng sao, phản tỉnh là
động từ tuyệt diệu để vỗ về lương tâm. Cũng còn để bán rẻ lương tâm nữa.
Cái số báo chí đã nhục mạ quân đội
của Sàigòn: “Chết bị xe cán nhiều hơn là chết bị Việt Cộng giết”, chắc chắn,
chưa hề đọc “Nghĩa vụ luận” nghề nghiệp. Họ không ưa ông tướng Phan Trọng
Chinh, họ bênh cố vấn của họ bị ông Chinh khinh thường thì họ cứ “bốc thối” ông
Chinh, việc gì họ phải hèn hạ xuyên tạc lính của Sư đoàn 25? Nước tôi có một số
nhỏ thông tín viên chuyên bán tin mật cho các báo Mỹ, các hãng thông tấn ngoại
quốc. Những thằng này chỉ cần tiền nhảy đầm, đánh bạc mà moi móc tin bẩn của
các nhà lãnh đạo Sàigòn và vợ con họ để cung cấp cho báo Mỹ. Và báo Mỹ đã không
phê bình cá nhân các nhà lãnh đạo, mà nó cứ ra rả miệt thị chế độ Sàigòn. Báo chí
Mỹ là lũ cán bộ tuyên truyền cấp xã của cộng sản Hà Nội. Đại khái vài nét đan
thanh của cái gọi là khai phóng tự do, dân chủ của ngụy quân tử Hoa Kỳ. Dân tộc
ta được những gì, mất những gì từ chính sách tân biên cương của trọc phú Mỹ.
Trước hết, về cái được. Ngôn ngữ của chúng ta giàu có thêm nhờ những danh từ
“ôkê sa lem, năm bờ oăn, chích cun đai, pho ren, yét nô, ốp lai mít, xăn ốp
bít” vân vân… Sĩ giới thì phong phú bằng các thầy thông ngôn, các cô bán bar
xuất thân từ những English courses. Chúng ta có cả một chuồng tiến sĩ các kiểu
tốt nghiệp ở Mỹ. Nông dân của chúng ta được nghĩ làm ruộng vì phi công Mỹ cần
chỗ dội bom. Chúng ta được ăn gạo Mỹ hột tròn, gạo Thái Lan. Rừng đồi của chúng
ta được thay mầu vì thuốc khai hoang của Mỹ. Phụ nữ của chúng ta được công khai
làm điếm. Bọn lưu manh được làm giàu bằng chiến tranh. Tuổi trẻ của chúng ta
được chết hết ở chiến trường. Chúng ta được ăn nhiều đạn đại bác và các bà
tướng được ăn cắp vỏ đạn đồng bán cho lái buôn nước ngoài kiếm đô la gửi ngân
hàng Thụy Sĩ. Các thành phố lớn của chúng ta được mở sì-nách-ba, sòng bạc, nhà
thổ. Chúng ta được bán hàng Mỹ lậu ở chợ trời. Kinh tế của chúng ta được ngưng
sản xuất. Xã hội của chúng ta được xuống dốc. Văn hóa của chúng ta được để tóc
dài. Chính trị của chúng ta được thao túng bởi lũ vai u thịt bắp. Quốc hội của
chúng ta được buôn bán lich cởi truồng. Và, vĩ đại nhất từ lập quốc, chúng ta
được suy tôn thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ! Tóm lại, chúng ta được quá nhiều đến nỗi
không thể kể hết.
Nhưng chúng ta cũng mất vô tả. Một
nỗi mất dài dài, dài bằng lịch sử 200 năm Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ là nỗi mất
nước. Về nỗi mất này, chúng ta đành chịu vì chúng ta khờ khạo, chúng ta không
nhìn rõ cái gian manh của chính nghĩa 20 năm chính nghĩa khai phóng tự do, dân
chủ. Và chúng ta không nhìn rõ lịch sử của chúng ta. Chúng ta cũng chẳng tiên
đoán nổi những khúc rẽ oan nghiệt của lịch sử thế giới trong tương lai. Đừng
bao giờ tự đặt chúng ta ở vào hoàn cảnh của Nam Triều Tiên hay Tây Đức. Nếu vị
thế địa dư của chúng ta như ở Tây Đức thì dù lãnh đạo của chúng ta có ngu dốt,
tham nhũng hơn nữa, Sàigòn vẫn cứ tồn tại. Và nếu Tây Đức hoán chuyển vị thế
cho chúng ta, Tây Đức cũng sẽ bị dẹp đúng chu kỳ 20 năm. Sự có mặt của người Mỹ
ở Việt Nam cùng với cuộc chiến mà người ta tưởng là “sa lầy” nhằm 3 mục đích rõ
rệt: Một: Tạo dựng mâu thuẫn để chia rẽ Liên Xô và Trung Quốc. Hai: Thử vũ khí,
đo vũ khí và thao dượt quân đội. Ba: Ngăn Trung Quốc tràn xuống Đông Nam Á. Mục
đích thứ nhất thành công. Liên Xô và Trung Quốc đã biến thành cựu thù, thế lực
của cộng sản giảm đi, ảnh hưởng của Cẩm Linh yếu dần, người Mỹ mở cửa vào Bắc
Kính bằng xương máu lính Mỹ và lính Việt Nam cả 2 miền. Mục đích thứ 2 thành
công. Ngay từ khi đắc cử tổng thống, ông Kennedy đã hứa với ông Hồ Chí Minh là
“không xóa bỏ chế độ Hà Nội”. Vụ tàu Maddox dưới triều đại ông Johnson chỉ là
cái cớ để không quân Mỹ học tập tránh né Sam-3, Sam-6 của Liên Xô. Hà Nội rêu
rao Mỹ muốn xâm lược miền Bắc cũng chỉ nhằm khích động quân dân của mình và làm
sáng “chính nghĩa” đánh Mỹ cứu nước giải phóng miền Nam. Ông tướng Vĩnh Lộc,
khi bị “biếm” về trường Cao Đẳng Quốc Phòng, có lần, dở trang báo Pháp chụp
nguyên vẹn thành phố cảng Hải Phòng và buồn bã nói với tôi: “Ông xem, không tập
dài dài, bao nhiêu phi vụ, bao nhiêu tấn bom mà Hải Phòng co sứt sát gì đâu. Họ
đổ bom xuống núi!” Không lực Mỹ chỉ muốn đùa với lực lượng phòng không của công
sản Hà Nội. Các kiểu máy bay oanh kích của họ đã vùng vẫy trên vùng trời miền
Bắc. Chưa hề thấy một tên đảng viên cấp huyện nào chết vì bom Mỹ. Mà chỉ thấy dân
vô tội chết oan, nhà cửa cháy rụi, mồ mà tổ tiên chúng ta bị khai quật. Vụ B52
“ta pi” bom xuống khu phố Khâm Thiên cũng không nhằm giải quyết chiến tranh. Đó
là đòn của kẻ mạnh bắt kẻ yếu ngoan ngoãn, vì đã đến lúc … triệt buộc trong ván
domino. Hà Nội cứ nói phét “Mỹ cút”. Mỹ cứ yên lặng để Hà Nói nói phét. Thế
giới ghét Mỹ cứ hoan hô sự nói phét của Hà Nội. Tình báo Mỹ đã điều nghiên kỹ
lưỡng. Khả năng chịu đựng B52 của Hà Nói không quá 12 ngày. Mỹ “ta pi” bom đúng
12 ngày thôi. Hà Nội vào bàn hội nghị nghiêm chỉnh. Nếu Mỹ đội bom thêm 1 ngày
nữa, chỉ cần một ngày nữa thôi, Hà Nội đã đầu hàng, dân chúng miền Bắc đã hả hê
và lịch sử Việt Nam đã khác hẳn. Nhưng sức mấy Mỹ thích Hà Nội tan rã. Bắc tiến
là khẩu hiệu hò hét cho sướng miệng. Mỹ nuôi dưỡng chiến tranh Việt Nam, nuôi
dưỡng cộng sản Việt Nam. Để dùng cộng sản Việt Nam làm “tiền đồn” ngăn Trung
Quốc bành trướng thế lực khắp vùng Đông Nam Á.
Mỹ nghiên cứu lịch sử Việt Nam tường
tận. Những trang sử quật khởi làm nên bởi Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Nguyễn
Huệ cho Mỹ một bài học: Chỉ có dân tộc Việt Nam mới đủ khả năng bịt lối nam
tiến của anh khổng lồ Trung Hoa. Thái Lan, Mã Lai, Miến Điện không hề bị Trung
Quốc đô hộ là nhờ cái nút Việt Nam đóng thật chặt. Nhật Bản muốn vùng vẫy ở
Đông Nam Á cũng đã phải dùng Việt Nam làm bàn đạp. Mỹ đã hòa hoãn với Trung
Quốc nhưng vẫn sợ Trung Quốc bành trướng. Đã đánh nhau với Hà Nói rồi, biết
người biết mình rồi, Mỹ bỏ rơi Sàigòn và khoán cho Hà Nói làm phú-lít canh giữ
không cho Trung Quốc xuống phía Nam. Lịch sử sang trang dễ dàng sau 20 năm âm
mưu đê tiện. Mỹ giả vờ thua đau để gây phẫn nộ cho dân chúng, để chuẩn bị một
khí thế dìều hâu y hệt vụ Trân Châu Cảng. Và ngân sách quốc gia dưới triều đại
Jimmy Carter lên vọt. Và B-1 thay thế B52. Và bom sạch. Và vân vân … Và mới
nhất Liban thê thảm. Mà không ai chửi chiến tranh dơ bẩn nữa! Mỹ xúi Việt Nam
giải phóng Kampuchia. Tại sao? Vì sợ Kampuchia lọt vào tay bọn lãnh tụ tay chân
của Bắc Kinh. Để Pol Pot va Iang Sary thủ tiêu hết bè lũ thân Liên Xô, để Pol
Pot va Iang Sary dấn sâu vào tội ác và để hai tên đồ tể quá khích này phát động
chiến tranh khắp biên giới Việt Miên, tràn qua lãnh thổ Việt Nam, khí thế đằng
đằng, yêu sách hỗn xược, Mỹ mới bật đèn xanh cho Việt Nam. Và Việt Nam giải
phóng Kampuchia cái rụp, ngon ơ, dưới cặp mắt sững sờ rồi nổi giận của Đặng
Tiểu Binh. Không chiếm Kampuchia để Trung Quốc ép Việt Nam rồi thao túng Đông
Nam Á à? Đâu được. Đạo diễn Mỹ lại trổ thêm thủ thuật. Liên Hiệp Quốc làm nổi
trò gì cứu dân tộc Kampuchia? Những ông thông dịch Việt-Miên của đài phát thanh
Hà Nội đã biến thành những lãnh tụ vĩ đại của nước cộng hòa nhân dân Khmer. Ván
đã đóng thuyền. Đã đóng thuyền cho cuộc chơi của chính sách toàn cầu của Mỹ.
Nhà đạo diễn xúi Trung Quốc “cho Việt Nam một bài hoc”. Đặng Tiểu Binh đánh qua
rồi rút lẹ, sợ để lâu sẽ có thêm một Thoát Hoan, một Tôn Sĩ Nghị! Cộng sản Việt
Nam đã là một cái xác chết. Đấm đá xác chết chỉ tổ mỏi tay thôi. Cái xác chết
được dựng lên bởi đạo diễn Mỹ. Muốn xác chết gục xuống, chỉ cần biết thọc nách
đạo diễn Mỹ. Buồn thay, người ta, những người muốn tiêu diệt cộng sản Việt Nam,
vẫn ngây thơ ôm chân Mỹ, trông cậy Mỹ sẽ có lần đưa mình về giải thoát xứ sở.
Ông Ford đã dõng dạc tuyên bố: “Lịch sử đã sang trang”. Người Mỹ đã hết sứ mạng
“khai phóng tự do, dân chủ” ở Việt Nam rồi! Lật lại lịch sử để hồi tưởng, để
học tập chứ không để … “encore une fois”! Chắc chắn, người Mỹ chỉ làm lịch sử
Mỹ. Làm lại lịch sử Việt Nam phải là người Việt Nam, phải là tâm hồn Việt Nam
đích thực.
Tóm tắt: Không còn chiến tranh ý
thức hệ nữa. Quá độ của thứ chiến tranh này là sự chia vùng ảnh hưởng của hai
thế lực bất lương, bất nhân. Ngày kia, chúng sẽ diệt lẫn nhau. Và nhân loai mơ
ước cả 2 thế lực sẽ bị dìm sâu dưới đại hồng thủy. Để con người xứng đáng làm
người. Nhưng mỗi con người, trước đó, cần truy nã thân phận mình, cần phải nhớ
rằng, làm đấy tớ cho cộng sản thì khổ, lắm đấy tớ cho tư bản thì nhục. Nỗi khổ
và nỗi nhục nhìn rõ ở Việt Nam, từ Sàigòn, ngày dài nhất.
Đêm đầu tiên trong cuộc đời tù đầy
của tôi là đêm đầu tiên ở Một địa chỉ chung của chủ nghĩa. Tôi đã nằm trên bục
xi măng, cố nhắm mắt mà không sao ngủ nổi. Tự nhiên, tôi nhớ miếng bìa đỏ ghi
họ và tên của một người quen ghim vào tấm các-tông lớn treo trên tường văn
phòng Hai Phận. Họ và tên của những người khác ghi trên bìa xanh. Tại sao họ và
tên người quen tôi, người dính líu với tôi những vấn đề mới nhất lại bìa đỏ?
Tôi nằm không yên. Tôi ngồi dậy, ra cửa hút thuốc lá với Hoàng Anh Tuấn. Và tôi
bắt đầu nghĩ đến sự tra tấn. Tôi sợ …
--------------------------------
1 Đã được trả tự do khoảng 1986 -
Chú thích của nhà xuất bản.