Tôi đã mang cái máy ảnh 26 năm. Làm nghề chụp hình để nuôi bản thân và gia
đình. 26 năm, gần nửa đời tôi đã đi qua. Vui có, buồn cũng không ít với những
gì mà nghề chụp hình mang lại.
Người ta thường gọi nghề này là nghề Nhiếp ảnh, riêng tôi, tôi cho rằng hai
chữ “Nhiếp ảnh” lớn lao quá, nó chỉ dành cho những “Nhiếp ảnh gia”, chuyên chụp
những tấm hình nghệ thuật. Còn tôi, từ khi vào nghề, đã xác định là chụp hình
kiếm cơm, kiếm cái ăn để sống nên từ ấy cao đẹp quá tôi không dám gán cho mình.
Quả thật thế, 26 năm cầm máy ảnh, tôi chưa ghi được một tấm hình nào có đủ yếu
tố để gọi là nghệ thuật, nên tôi luôn cho mình chỉ là anh “thợ chụp hình”. Nhờ
nghề này, tôi tiếp xúc với nhiều khách hàng, với những hoàn cảnh buồn vui. Của
mình và của người…
Nay tôi đã vào tuổi 63, xem như gần cuối đời, nên chăng ghi lại những câu
chuyện này như những dòng… tâm sự?!
Khoảng cuối năm 1982, tôi rời nơi cư trú là Quảng Sơn, Ninh Sơn, Ninh Thuận,
vào Sài gòn kiếm sống bởi nơi đây không cho tôi được ngày hai bữa ăn như mong
ước đơn giản nhất của tôi và cũng của nhiều người.
Người dân nơi đây lần hồi bỏ xứ vào Đồng Nai, xin vào công nhân nông trường
cao su, lên Buôn Mê Thuột làm thuê, làm nông, hoặc vào miền Tây làm ruộng… Họ
đi bất cứ nơi nào, dù vất vả nhưng kiếm được cái ăn. Còn nơi đây, làm nông thì
không được bởi nắng mưa thất thường. Đi buôn chuyến thì cũng có người sống được
qua ngày nhưng không kiếm đâu ra vốn! May mắn lắm cho ai có bà con, thân nhân
có hộ khẩu Sài gòn thì bám lấy nơi đây, chạy xe thồ, xích lô, buôn bán chợ
trời, làm nghề linh tinh kiếm sống!
Tôi chẳng có ai bà con thân thích, chỉ có một đứa cháu gọi tôi bằng cậu, con
bà chị đầu của tôi, đang học năm thứ ba trường đại học Y khoa và một vài người
bạn thân cũng rời bỏ vùng đất khô cằn Quảng Sơn trước tôi, vào mưu sinh nơi
thành phố khó khăn nhưng cũng có nhiều cơ hội, dù chỉ là cơ hội để tồn tại!
Bạn bè gặp lại nhau, sau cái bắt tay mừng là lo âu. Trước mắt, ai cũng lo
lắng kiếm cho tôi một công việc để sống. Nhiều công việc, nhiều phương án được
đưa ra nhưng rồi xét đi xét lại không chọn được việc nào. Đi bỏ trà và thuốc lá
lậu, là công việc mà các anh em vào Sài gòn trước tôi thường chấp nhận làm đễ
qua ngày trước khi tìm một công việc khác ổn định hơn, thì tôi không có vốn gối
đầu, lại không rành đường Sài gòn, không có các quán quen làm nơi tiêu thụ đều
đặn (mối). Đạp xích lô cũng gặp phải trở ngại này. Từ nhỏ đến lớn tôi sinh ra,
lớn lên nơi Quảng trị, rồi vào Ninh Thuận, chọn nơi đây làm quê hương thứ hai
sau khi Quảng Trị tan hoang vì bom đạn từ mùa hè dỏ lửa 1972, thỉnh thoảng vào
Sài gòn. Còn ngơ ngác như chú nhà quê trước cái bề thế của thành phố này.
Sài gòn ngày tôi vào lại chỉ nhiều đường sá rộng lớn có sẵn trước đây thôi,
cái sầm uất ngày nào chỉ còn trong kí ức của người Sài gòn. Những đổi thay 7
năm, sau 1975 là một sự vắng vẻ, im lìm. chứ không đông đúc, náo nhiệt, xô bồ…
như hôm nay.
Bạn bè thân tình thương thì thương nhau lắm, nhưng sẻ chia cơm áo trong
những năm này thật không dễ chịu chút nào! Ai cũng có một hoàn cảnh khó khăn
riêng nên không thể cưu mang thêm tôi. Vả lại, tôi cũng không muốn mình trở
thành gánh nặng cho riêng ai.
Cái ăn đã khó, cái ở còn khó hơn, một vài người bạn vì tình cảm mà liều lĩnh
muốn đưa tôi về ngủ trong nhà mình, nhưng vì biết là sẽ rất phiền toái cho bạn
nếu bị xét hộ khẩu đột xuất hằng đêm… nên tôi từ chối, chấp nhận hằng đêm ra ga
Bình Triệu hoặc Hòa Hưng, gần đâu thì về đó. thuê chiếu ngủ rồi sáng mai lại…
lang thang gặp gỡ bạn bè tìm kiếm việc làm.
Vận may tình cờ đến với tôi, cùng lúc giải quyết luôn cả hai khó khăn: ăn và
ở! Một hôm, đang ngồi ăn cơm trong một quán bình dân ở đường Nguyễn Duy Dương,
quận 5, tôi gặp một người đạp xích lô, tên Tấn. Anh ta lớn hơn tôi chừng sáu
tuổi, chuyện trò qua lại, anh cho tôi biết là trước đây, anh từ Quảng Ngãi vào,
cũng lang thang như tôi, sau đó anh xin được vào làm công, đóng bao bì (két gỗ
đựng bia hay nước ngọt chai) cho một xưởng mộc của trường Lê Quý Đôn. Không hợp
đồng giấy tờ hộ khẩu gì, Chỉ cần đưa cho tổ trưởng CMTND. Cứ sáng đến chiều tổ
trưởng đếm được bao nhiêu thì tính tiền bấy nhiêu, một tuần lãnh tiền một lần
vào chiều thứ bảy, chúa nhật nghỉ. Anh sẽ hỏi lại rồi báo cho tôi biết vào ngày
sau.
Ngày sau, cháu tôi chở tôi đến quán cơm, hồi hộp chờ anh Tấn. Anh đến ăn
muộn vì vừa đạp một cuốc xe qua quận Bình Thạnh. Anh vừa lau mồ hôi vừa bào tin
mừng cho tôi, không những đã xin được cho tôi việc làm mà còn có thể ngủ lại
vào ban đêm cùng với nhóm thợ máy rong xẻ gỗ. Tôi chộp lấy hai vai anh Tấn lắc
mạnh với lòng biết ơn, ngưỡng mộ!
Anh Tấn chở tôi đến xưởng mộc chiều hôm đó, vào làm ngay. Tôi được giao cho
một túi đinh 3 phân, chừng 2kg. Một công nhân dẫn tôi đến chỗ để gỗ, cứ ôm về
đóng, hết thì đến lấy tiếp. Công việc dễ đến độ tôi nhìn thoáng qua là
làm được ngay. Buổi chiều hôm ấy, tôi đóng được 17 cái thùng. Một cái 0,5 đồng
(năm hào), ngày sau và những ngày kế tiếp trung bình đóng được 40 cái. Tính ra
một ngày được 20 đồng. Thu nhập khá cao cho cuộc sống của tôi khi ấy! Cơm trưa
được ăn tại xưởng, không mất tiền, tối ăn cơm bình dân 2 đồng, sáng tôi uống cà
phê với gói thuốc Mai hết 2 đồng. Một ngày trước mắt tôi thừa được 16 đồng. Tôi
tính nhẩm, trước tiên, sẽ cố gắng để dành cho đến khi mua được chiếc xe đạp.
Niềm vui ngập lòng, tôi mong đến chúa nhật để khoe cho bạn bè yên tâm, đồng
thời giới thiệu anh Tấn, ân nhân của tôi với họ. Tôi nghĩ đến chuyện sẽ cùng
anh em uống mừng công việc và cũng bù cho những tình cảm mấy hôm nay của bạn
bè. Địa điểm là các quán phở ở đường Kỳ Đồng, gần nhà thờ Chúa Cứu Thế, ga Hòa Hưng.
Nơi đây phở rẻ nhất. một tô một đồng (rẻ là bởi có thể xin thêm đĩa giá trụng
vun mà không thêm tiền). Về đây tìm là gặp bạn bè tôi.
Một tháng sau, tôi để dành được trước sau 50 đồng. Một người bạn đem tôi lên
đường Lê Lai, nơi đây là chợ xe đạp. Mới có, cũ có, vào hầm chứa xe thì có thể
chọn theo ý mình. Tôi cùng bạn chọn một chiếc, cũ nhưng khá tốt: xích, líp,
niền và sườn đều của Nhật.
Tôi hỏi bạn xe đâu mà ở đây nhiều thế?
– Xe chôm từ các nơi gom về đây. Cứ yên tâm vì chiếc này ráp từ ba chiếc lại,
không ai nhận ra đâu!
Tốt nhưng rẻ, chiếc xe chỉ 36 đồng, vẫn còn thừa 14 đồng! Tôi có thể trả
chiếc xe mượn từ hôm vào đến hôm nay lại cho cháu tôi đi học. Nó ở KTX
đường Ngô Gia Tự qua trường cũng gần nên mấy hôm nay nó đi bộ.
oOo
Xưởng mộc của trường Lê Quý Đôn là nơi hợp đồng của một HTX nào đó. Lấy
nguồn gỗ từ Đồng Nai, dạo này vào mùa mưa, thỉnh thoảng bị dán đoạn vài ngày vì
không có gỗ. Họ cũng đang có ý định chuyển hướng sang sản xuất đồ mộc cao cấp,
nếu vậy thì cần ít công nhân hơn và tay nghề cao. Những ngày nghỉ tôi đạp xe
loanh quanh tìm bạn bè ngồi chuyện trò, May mà tôi đã mua được chiếc xe để đi
lại, công việc không còn đều đặn nên thời gian này cũng không dành dụm được gì!
Một hôm tôi đang ngồi đóng thùng, bảo vệ báo có người tìm, tôi ra cổng thì
gặp Lượng. Lượng là em ruột Quảng, một người bạn thân của tôi, từ hôm vào đến
nay tôi chưa gặp. Chuyên trò chút xíu rồi Lượng hẹn chờ tôi đi ăn cơm tối.
Quảng đã vượt biên bốn năm nay, Lượng cho tôi biết là Quảng đang đinh cư ở
Canada. Lượng hỏi han tình hình công việc, nơi ăn ở của tôi hiện nay. Nghe
xong. Lượng đề nghị:
– Lâu nay trong gia đình của em vẫn xem anh như anh Quảng, nay ba mẹ mất
rồi, anh Quảng cũng đã ở xa, trong nhà không còn ai, anh đã vào đây thì về ở
với tụi em cho vui.
Từ ngày vào Sài gòn, những đề nghị của bạn bè như thế này cũng có, nhưng tôi
từ chối vì biết là sẽ khó khăn nhiều cho bạn. bây giờ Lượng đưa ra đề nghị này
làm tôi băn khoăn.
– Hình như em đã lập gia đình rồi phải không?
– Dạ, vợ em hiền và dễ chịu chứ không khó khăn gì đâu!
– Từ Bình Thạnh mà lên Lê Quý Đôn, quận l, đi làm thì xa quá Lượng ha?!
– Em nghĩ anh thôi làm chỗ đó đi.
Tôi nhìn Lượng dò hỏi.
– Hiện nay bên quận Bình Thạnh, có mở Câu Lạc Bộ dạy nhiếp ảnh, anh qua ở
với em rồi đăng ký học chụp hình đi, em thấy anh làm nghề này cũng hay, đỡ vất
vả.
Tôi nói với Lượng:
– Mai anh em mình đi gặp anh Trung, hỏi xem ý anh ấy thế nào.
Anh Trung cũng là người ra đi từ nơi tôi ở, vào Sài gòn trước chúng tôi.
Trước năm 75, anh ấy làm hiệu trưởng đồng thời dạy Pháp Văn cho một trường tư
thục Thiên Chúa Giáo ở Nha Trang. Sau 75 đi cải tạo hai năm, về không được đi
dạy nữa, anh đem vợ và hai đứa con vào Sài Gòn. Hiện anh làm bảo vệ không lương
cho một vỏ đường Teakwondo. Có nhiệm vụ trông coi, quét dọn sàn tập hằng đêm sau
khi võ sinh tập xong. Chúng tôi thường đùa vui:
– Tầm cỡ bảo vệ võ đường Teakwondo thì in ít cũng là tam đẳng trở lên đây
nhe… Liệu hồn mấy thằng lơ mơ!!!
Thực ra, anh nhỏ con và thậm chí gầy còm, đâu khoảng chừng 46 kg. Không có
lương nhưng anh lại có chỗ tá túc cho vợ con trong một căn phòng nhỏ chừng 12m2
của võ đường. Căn phòng ở tít lầu ba, cầu thang thì hẹp, không gởi xe ở dưới
được, nên chúng tôi hoặc là vác xe lên lầu ba, hoặc là đứng ở dưới rồi hét gọi
anh ấy mỗi lần cần gặp nhau.
Hai chúng tôi gọi thật lâu mới thấy con trai anh ấy thò đầu ra nơi cửa sổ,
thấy tôi và Lượng, cháu quay vào gọi anh Trung. Chúng tôi cùng nhau đến quán cà
phê đầu đường, quán cà phê không phải cửa hàng quốc doanh là một nơi xa xỉ,
chúng tôi chỉ đến những quán này khi nào rủng rỉnh tiền bạc hoặc có chuyện quan
trọng cần bàn. Quán ngồi riêng từng bàn, cách nhau bởi các chậu cây cảnh chứ
không ngồi bàn dài, tập thể như các cửa hàng quốc doanh!
Chính anh Trung là người báo cho Lượng biết tôi đã vào Sài Gòn. Anh lớn tuổi
và chính chắn, rất có tình với anh em nên ai cũng quý mến và tôn trọng anh như
anh cả. Nghe Lượng nói chuyện đưa tôi về ở trong nhà rồi đi học chụp hình, anh
Trung nghĩ ngợi thật lâu:
– Trong anh em, Lượng là người có điều kiện nhất. Nhà của mình, kinh tế cũng
tàm tạm chứ không chạy bữa như những anh em khác, chú Sinh về ở với Lượng thì
tốt rồi, nhưng chuyên đi học chụp hình rồi kiếm sống bằng cái máy ảnh không
biết có ổn không?
Lượng nói:
– Nghề này được cài là dễ học, đi sâu vào nghệ thuật thì khó nhưng mình chỉ
cần biết kỹ thuật chụp, tráng rọi ảnh… kiếm cơm thì hai anh em cùng làm với
nhau như lâu nay em làm, tính ra cũng đủ nuôi gia đình. Có mối thì đi chụp, khi
nào rảnh cứ lên công viên, bến nhà Rồng… kiếm chừng hai chục kiểu là có
ăn.
– Chuyện ăn ở, bên phường có khó khăn chi không?
– Có anh Sinh thì thêm chút xíu, nhưng hàng tháng anh Quảng có gởi cho em
vài kg thuốc Tây. Em không khó khăn như anh em mình ở đây. Có anh Sinh như có
người lớn trong nhà. Ông tổ trưởng rất thương em, hôm bà vợ ông ấy bệnh, anh
Quảng gởi về cho mấy hộp thuốc, từ đó ông coi em như con ruột. Em cứ báo anh
Sinh là anh con bác ngoài quê vào là êm, tụi mình cùng nói “trọ trẹ” họ tin
liền!
Lượng tuy đã có gia đình, nhưng còn nhỏ, chỉ mới hai mươi bốn tuổi, nhỏ hơn
tôi sáu tuổi. Lượng có một chị, lấy chồng hiện đang ở quê chồng dưới miền Tây.
Sau Lượng còn hai em nhỏ học cấp hai. Trong nhà hiện nay gồm hai vợ chồng và
đứa con hai tuổi, hai đứa em, thêm tôi vào là sáu miệng ăn nhưng đều còn nhỏ
nên cũng không chật vật. Lượng rất chịu làm. Ngày lên hồ Con Rùa và các nơi
chụp ảnh lưu niệm cho khách, tối về rọi, sáng mai giao. Trung bình ngày cũng
kiếm được bốn năm chục đồng. Những ngày lễ có ngày được cả trăm.
Tôi ôm vai Lượng như ôm một đứa em. Gương mặt Lượng rất giống với Quảng hồi
còn nhỏ. Quảng rất lo cho cu cậu, nghe đâu có đánh lộn là y như rằng có Lượng.
Tự nhiên Lượng thay đổi hẳn sau ngày cha mẹ qua đời… Nhờ vậy, Quảng mới yên tâm
vượt biên.
Hôm đó tôi về nhà ngủ đêm đầu tiên với Lượng. Tôi gặp vợ Lượng ra chào mà
ngạc nhiên không biết có phải đây là vợ của Lượng không?! Một cô bé con chứ
đừng nói đây là một thiếu nữ. Lại là đã có một đứa con! Đóan được điều ngạc
nhiên trong tôi, Lượng cười:
– Vợ em mới hai mươi tuổi thôi anh Sinh!
Tôi cười đùa:
– Ừ, tại chú dụ dỗ nên hoang sớm phải không?
Tối lại, hai anh em chúng tôi ngủ chung trên tấm chiếu trải giữa nền nhà,
nằm đốt thuốc rầm rì chuyện xưa chuyện nay, phần nhiều là nhắc đến Quảng. Lượng
kể tôi nghe cái khốn đốn ngày cha mất, rồi năm sau đến mẹ! Quảng vượt biên cũng
do một người bạn của cha, thương mấy anh em côi cút, cho đi chớ nhà không có
tiền hay vàng gì cả!
– Ban đầu, anh Quảng định cho em đi. Nhưng bác ấy nói:
– Con đi, trước mắt cứ đưa mấy em về ở với nhà em gái con. Chị em nuôi nhau,
con đi được qua bên đó mới làm lụng được, nuôi mấy em chứ Lượng còn nhỏ, biết
làm gì nơi xứ người!
– Thế chú lấy vợ khi nào?
– Anh Quảng đi, tụi em về ở với chị Thương dưới miền Tây. Vợ em là cháu của
anh Thục, chồng chị Thương.
Gần sáng, hai anh em định chợp mắt một lát để ngày mai lên câu lạc bộ nhiếp
ảnh đăng ký cho tôi học chụp hình. Tôi nhắm mắt thì nghe Lượng lâm râm một
mình.
– Em nói gì vậy?
– Không, em cầu nguyện, từ khi anh Quảng vượt biên, đêm nào em cũng đọc
kinh, giờ thành quen, tối nào không đọc, cứ trằn trọc… khó ngủ!
Sáng sớm. Lượng dậy trước tôi, lục tìm một lúc rồi đưa cho tôi hai cuốn Kiến
Thức Phổ Thông, hai số báo chủ đề về nhiếp ảnh. Hai anh em đến cửa hàng giải
khát Thanh Niên. Lượng mua phiếu hai ly cà phê, tiêu chuẩn kèm cho hai ly là
một gói thuốc Hải Đảo. Tất cả là hai đồng. Chừng bảy giờ rưởi, chúng tôi đến
Câu lạc bộ. Học viên đăng ký chỉ cần có Chứng minh thư và đóng mười hai đồng
cho một khóa ba tháng. Lượng không cho tôi đóng tiền:
– Anh giữ lại mà tiêu vặt, để em đóng.
Tôi mua tại quầy sách ở cổng một tập vở dày và một cây bút. Lượng dắt xe ra,
nói với tôi:
– Có mấy ông thầy giỏi lắm. Em hồi đó nhờ thầy Tôn Lập. Vài bữa em giới
thiệu với anh. Ông dạy Chân Dung và Hòa chất, tráng rọi ảnh. Nhà cũng gần nhà
mình…
Tôi vào học nghề chụp hình như thế, một nghề mà từ trước tôi chưa bao giờ
nghĩ đến, sẽ là nghề gắn bó với tôi suốt hai mươi sáu năm. Nuôi sống bản thân
rồi cả gia đình, bốn đứa con… cho đến khi không thể theo nghề được nữa!
oOo
Sau này, khi tuổi đời đã khá lớn, tôi mới thấy rằng cuộc đời nhiều chuyện
đến với mình, suôn sẻ hay trầy trật…cũng đều do cài duyên cái số. Nhưng vào
thời kỳ tôi đang chật vật với cái ăn, cái ở… những ngày tháng đầu khi đặt chân
đến đất Sài Gòn, với tuổi đời chưa tới ba mươi, tôi cho là số mình may mắn,
thậm chí còn có chút tự hào là mình “biết xoay xở” “cố gắng” và “tài giỏi” nữa!
Gặp lại Lượng, em của một người bạn thân trước 75 là Quảng, giờ đã vượt biên
và định cư ở Canada. Về ở với Lượng, đi học chụp hình và cùng làm nghề nuôi
thân với Lượng, cuộc sống tôi ổn định vả thú vị với cái nghề tạm gọi là: Chụp
hình lưu niệm.
Thời kỳ này, đã bắt đầu chụp hình màu trở lại. Ngày trước 75, cũng đã có
hình màu nhưng phần nhiều lả hình chụp lấy liền, với loại máy Polaroid vả giấy
ảnh chụp xong là có hình, chỉ cần bóc lớp giấy mỏng. Sau 75, do khó khăn là thị
trường không nhập được giấy ảnh nên rất đắt, rồi dần hết hẳn. Về sau, thời kỳ
tôi làm chụp hình dạo, một số phim màu được đem về từ Đức, hiệu Agfa, thỉnh
thoảng có Kodak (Mỹ), bắt đầu có hình màu trở lại. Nhưng cũng rất khó khăn vì
khâu tráng rọi thủ công. Cả nhóm thợ chúng tôi, nhiều khi ba, bốn điểm chụp mới
có một máy gắn sẵn phim màu, chỗ nào có khách thì chạy đến lấy về chụp rồi trả
máy ngay. Khi cắt phim để rửa vì chưa hết cuộn, rất buồn vì phải mất chửng ba
kiểu phim, dù đã nối đuôi phim! Phần nhiều là thợ nào cần gấp thì chịu khoản
phim này. Hẹn khách cả tuần mới giao ảnh, và đắt như vàng, chỉ tám kiểu là có
thể ngang với một chỉ vàng!
Lượng đón đầu “phong trào” bằng cách đi học tráng rọi ảnh màu.
Quảng gởi về cho Lượng mấy đợt thuốc Tây, dành dụm mua được cái máy rọi ảnh
Axomat, của Đức, vừa rọi ảnh đen trắng vừa có thể rọi ảnh màu, nhưng phải kèm
nhiều phụ kiên hổ trợ như: Đồng hồ ngắt điện tự dộng (timer). Máy phân tích
màu…(analyser) thay cho cái máy Lucky cũ chỉ rọi được hình đen trắng. Thời điểm
chúng tôi làm nghể, cái gì của Đức cũng tốt! (hơn Liên xô và các nước XHCN
khác).
Học chụp hình ở CLB chỉ ba đêm một tuần, tôi vẫn theo học đều đặn vì rất cần
giấy chứng nhận của CLB. Người ta nói: “học thầy không tày học bạn”, trường hợp
tôi thật đúng, chỉ cần Lượng bày cho tôi hai buổi, là tôi có thể tự canh ánh
sáng qua khẩu đô, tốc độ, chỉnh nét… Thực tập thêm bằng cách hai anh em đạp xe
ra đường Tôn Đức Thắng, gần hãng tàu Ba Son, Lượng làm người mẫu, tôi chụp
hình, lấy nửa người, nguyên người, có phông là những chiếc tàu, hay xóa phông,
phông xa, phông gần, bố cục ảnh, chiều sâu ảnh…chưa đến một cuộn phim Orwo là
tôi chụp được. Tối hôm thực tập, hai anh em cùng pha hóa chất, tráng phim. rọi
ảnh. Lượng chờ sấy hình xong, đem ra hai anh em cùng xem…Lượng phán một câu làm
tôi mát dạ:
– Ăn tiền thiên hạ được rồi!
Cái máy ảnh của Lượng tôi đang dùng hiệu Canon QL 17. Gọi là máy gián tiếp,
phân biệt với máy trực tiếp là hình ảnh đến mắt qua một lăng kính sau ống kính.
Máy gián tiếp thì che tay đầu ống kính vẫn thấy hình vật chụp, Máy trực tiếp
nếu che đầu kính sẽ không thấy gì. Máy gián tiếp lấy nét bằng cách chỉnh cho
hai hình chập lại nhau, trời sáng rõ thì dễ, chỉ nhắm hạt nút áo, hoặc một bên
vai…nhưng trời âm u hay hơi tối thì rất khó khăn. Sai nét tức là bỏ tấm hình vì
khách nào nhận tấm hình mờ! Suốt ngày, lúc nào rảnh là tôi mang máy ra tập
chỉnh nét (focus). Chi tiết kỹ thuật này ám ảnh tôi ngay cả trong lúc ngủ!
Ngày sau, Lượng đem tôi đến gặp tổ trưởng tổ chụp hình lưu niệm, thuộc HTX nhiếp
ảnh quận I. Xin thế chân Lượng, vì Lượng hoàn toàn dành thời gian cho việc học
ảnh màu. Đã là dân chụp hình kiếm cơm, anh em thợ phần nhiều rất thoáng. Chúng
tôi làm quen bằng một chầu nhậu, cũng chỉ rượu cây lý, cà khô đuối…
Tôi bắt đầu vào sáng hôm sau, bấm những hiểu hình ăn tiền của khách!
oOo
Hai anh em chúng tôi dậy cùng lúc. Lượng vào phòng tối, đem cho tôi cái túi
xách màu đen, Tôi ngạc nhiên nhìn Lượng lôi từ trong túi ra một con gấu bông,
một cái lục lạc…đồ chơi trẻ con. Lượng cười với tôi:
– Bảo bối đó, có khách nào ẳm theo em bé, anh dụ cho cháu cười rất dễ, lại
dụ thêm vài kiểu cũng không khó!
Hôm nay không uống cà phê cửa hàng, chúng tôi lên tới nơi chụp hình, uống cà
phê với anh em thợ. Gần cuối năm, thợ cứ ngồi với nhau là kháo chuyện chụp hình
dịp tết. Ai cũng hy vọng vào dịp này có thể trang trải nợ nần, giải quyết nhưng
khó khăn trong năm. Lượng cũng sẽ đi chụp trong dịp tết nên hai chúng tôi đang
lo lắng vì hiên chỉ có một cái máy, mua thêm thì không đủ tiền!
May cho tôi, chú em con chú ruột tôi, là trung úy Quân cụ, bị thương mất một
mắt, ngày 30/4 là thương binh, trốn trình diện, trốn cải tạo, về miền Tây, ở
tận Minh Hải, Cà Mâu làm nghề bán cà rem từ 75 đến nay. Nghe tôi vào Sài gòn,
đang làm nghề ảnh, chú viết cho tôi một lá thư dài, kèm thêm 5 đồng cho tôi đi
xe… nhắn tôi về chơi. Tôi về, anh em mừng mừng tủi tủi vì quá lâu không gặp
nhau, giờ gặp lại trong hoàn cảnh này…Sau khi thắp nhang trên mộ thím tôi, chú
ấy khóc thật nhiều:
– Em về đây là để tính chuyên vượt biển. Hai lần rồi không được, may là
không bị bắt. Em tính khi đi thì chôn số vàng còn lại dưới tấm bia mẹ em, rồi
qua được sẽ nhắn anh vào đem mẹ em về quê. Chuyến vừa rồi, em chôn tới 4 cây
vàng đó, vậy mà …
Là vai em, nhưng chú ấy lớn hơn tôi tới 15 tuổi. Về nơi đây, chú khai không
biết chữ, thỉnh thoảng có việc gì phải ký tá, chú ấy xin lăn tay hoặc viết chữ
thập! Nhưng rồi con gái đầu học lên đến cấp 2. không có ai kèm nên chú kèm cho
nó. Thầy ngạc nhiên vì nó học xuất sắc, nhất là toán. Hỏi nó ai dạy cho nó, nó
hồn nhiên nói là ba dạy! Chuyên vỡ lở, nhưng địa phương rất thoáng, họ cho qua
hết, chỉ lâu lâu có việc gì cần người biết viết lách…thì nhờ chú ấy!!!
Đêm lại, chú ấy đem ra một cái máy mới tinh, bọc nhiều lớp vải, còn nguyên
bao da màu nâu, hiệu Minolta. Máy này là của chú em, em của chú ấy đem về từ Mỹ
sau lần đi du học Kiểm soát không lưu mấy năm trước. Sau 30/4, chú ấy qua lại
Mỹ từ phi trường Biên Hòa.
– Anh cầm lên Sài gòn mà làm nghề, em để lâu cũng hư!
Tôi xem qua máy, bấm nghe màn trập nhảy tốt, mừng vô cùng! Về Sàigon, Lượng
cũng mừng, máy dễ sử dụng vì ánh sáng auto. Trên đầu máy có một màn hình, hai
chiếc kim, một chiếc màu đỏ nhỏ, một chiếc kim màu xanh lá cây lớn hơn. Cứ
hướng máy về vật chụp (chủ đề), kim đỏ sẽ nhảy theo ánh sáng lúc đó, thợ chỉ cần
vặn cho kim xanh chồng lên kim đỏ là đúng sáng!
Chụp và tráng rọi mấy kiểu hình, cả hai chúng tôi an tâm lắm. Ngày sau, tôi
bỏ máy Canon ở nhà, dùng máy mới…Đến nơi chụp, anh em thợ ai cũng trầm trồ vì
máy mới, ống kính trong veo, không một chút halo vì nhìn vào lớp màu tím nơi
ống kính là biết. Lượng nói với tôi:
– Lâu lâu anh cũng nên dùng máy Canon kẻo quên đi kiến thức. Máy này thực ra
không dùng cho thợ. Anh không chủ động kết hợp khẩu đô và tốc độ để tạo được
chiều sâu ảnh, không xóa được phông, không chụp được hình ngược sáng…Qua tết,
có đủ tiền thì mình mua thêm máy.
Lúc này, ban đêm tôi đi học, các thầy đang dạy: “Tăng một nấc khẩu độ, bằng
giảm một nấc tốc độ, hoặc ngược lại…”. Tôi vẫn không nản, cứ ngồi nghe thầy
giảng những đều đã biết! Giáo trình hình như được lấy từ hai cuốn Kiến Thức Phổ
Thông mà tôi đã thuộc nằm lòng!
oOo
Càng gần đến tết, chúng tôi càng xôn xao vì chỗ chúng tôi đang hành nghề
không phải là điểm tập trung khách. Phần nhiều thợ tìm đến những điểm khác
ngoài địa bàn xin vào chụp mấy ngày tết. Tôi và Lượng cũng băn khoăn nhiều về
chuyện này, nhưng vì tôi không có giấy phép và hộ khẩu nên chưa biết làm sao!
Cũng thêm một dịp may đến với tôi, nhưng lần này thì không suôn sẻ!
Một bạn nghề già, chú Vang, lớn tuổi rồi, năm nay cũng đã 58 tuổi, nhưng vẫn
còn làm nghề, chú khoe với tôi là chú có một ông hàng xóm, ngoài Bắc vào, hình
như là con ông cháu cha gì đó bên sở Văn Hóa. Thầu chụp hình ở cảng Nhà Rồng.
Lúc này vừa xây xong nhà lưu niệm rất hoành tráng cần nhiều thợ. Bản thân chú Vang
cũng sẽ chụp ở đó dịp tết này. Tôi và một anh thợ nữa, anh Tùng, làm nghề khá
lâu rồi, quê ở tận Bình Dương, cũng không có hộ khẩu Sài gòn, nhờ chú ấy xin
dùm…
Không khó khăn gì, chiều 28 tết, chúng tôi cùng nhau đến gặp ông Danh, người
thầu ở Bến Nhà Rồng để hợp đồng. Chúng tôi rất phấn khích, háo hức và tin tưởng
lắm… Tôi lo nhiều nhưng cũng trấn an mình vì nhờ cái máy mới, Không có đèn
(flash) nên tôi quyết định không chụp ban đêm như lâu nay. Ba chú cháu chúng
tôi luôn cặp kè bên nhau, những ngày này ít khách, ngồi uống cà phê hoài. Chiều
chiều chúng tôi cũng làm vài xị cây lý, lạc quan mong chờ ngày tết!
Hợp đồng rất dễ: Chúng tôi chỉ cần có máy và tay nghề. Phim, tráng rọi ảnh
đều do tổ tráng rọi của ông Danh lo, hẹn khách ngày sau nhận hình. 22 giờ giao
phim và đếm biên lai giao tiền cho tổ trưởng, nhận phim cho ngày mai… tại nhà
ông Danh.
Nhưng đến ngày cuối, khi nhận xong phim và những tập biên lai thì người của
ông Danh yêu cầu thợ hẹn khách ba ngày! Phim được nhận không phải là phim Orwo
của Đức như lâu nay chúng tôi vẫn dùng mà là phim Liên Xô! Tên đọc từ tiếng
Liên Xô là “Tắc ma”, cũng có loại hệt như thế, đọc là “Xvai ma”. Có hộp nhưng
nhìn qua, chúng tôi rất nghi ngại về chất lượng, vả lại chúng tôi không quen
chụp phim này, chú Vang hỏi, muốn tự mua phim Orwo nhưng không được, người của
ông Danh bảo: Cứ chụp bình thường như phim Orwo.
Thực ra, phim này đã lưu hành lâu rồi nhưng ít ai dùng, chỉ trong các cơ
quan, dịch vụ của nhà nước. Chất lượng có thể gọi là “may rủi”, Thợ chụp hình
tránh xa, đến độ có người không biết nó tồn tại trên thị trường, như tôi!
Sáng mồng một chúng tôi có mặt, gặp nhau nhưng vì chưa có khách nên vào Can
tin, uống cà phê. Ở đây cũng đã có một đám thợ khác, là người đã hợp đồng thẳng
với HTX Nhà Rồng từ trước. Họ ung dung và có vẻ không lo lắng gì, họ có điểm
giao hình và có người trực giao hình cho khách. Gần chín giờ, cũng lác đác vài
anh thợ nữa đến, họ cũng hợp đồng với ông Danh. Nhập bọn cùng nhau, chúng tôi
cũng chuyện trò thân tình vì cùng là thợ kiếm cơm như nhau…
Những thợ này cũng lo lắng vì phải chụp phim Liên Xô và hẹn giao hình ba
ngày như chúng tôi! Tự giao hình là một khó khăn vì khách phải tìm thợ, giao
hình thì trở ngại chuyên chụp hình! Chúng tôi dự tính sẽ nêu khó khăn này với
ông Danh vào cuối ngày…
oOo
Không có đèn flash là một thất lợi lớn. Tôi không dám chụp trong phòng trưng
bày, chỉ lợi dụng hành lang và cửa sổ, nhưng cũng chỉ chụp hạn chế rồi đề nghị
khách ra ngoài. Đêm thì hoàn toàn bó tay. Suốt ngày mồng một tôi chỉ chụp được
năm (05) cuộn. Cổ tôi khàn, chân rã rời vì lên xuống cầu thang, chỗ này qua chỗ
nọ theo khách!
Chiều, tôi về nhà ông Danh giao phim và tiền. Đếm theo biên lai được 184
kiểu, mỗi kiểu 5 đồng. Tôi nộp dủ 920 đồng cho thu ngân. Thu ngân là con gái
của ông Danh. Tôi nhận biên lai rồi chạy về tìm Lượng ở điểm chụp.
Cái flash Lượng đang dùng hiệu Sunpak, có giá tới hai chỉ vảng. Nhưng có
tiền chưa chắc đã mua được, phải ra các Kios chuyên buôn bán vật tư máy ảnh ở
đường Nguyễn Huê đặt hàng may ra có, mà có cũng phải chờ vài tháng!
Tôi ngồi nghỉ một lát rồi thế chân cho Lượng nghỉ, uống ly nước, hút điếu
thuốc! Lượng không chờ tôi hỏi, đưa năm ngón tay ý là đã 5 cuộn phim. Tối nay
nếu khá thì cũng thêm chừng 2 cuộn. Lượng tuy ngồi nghỉ, nhưng luôn quan sát
tôi để nhắc “gối phông”. Chụp đèn những nơi này mà không gối đầu và thân của
khách lên một cái gì đó thì thua. Một bức tượng, một chậu hoa cao, gốc cây… Ánh
sáng đèn bắn vào khoảng không coi như chỉ sáng khuôn mặt, xung quanh tối, tóc
mất hai mảng bên này, bên kia, hình rất xấu!
– Chụp đèn bên ngoài khác xa với trong nhà, nên phải luôn luôn tìm một cái
gì đó làm vật phản quang nhe anh Sinh!
Lượng dặn tôi thật kỹ từ tháng trước, khi anh em tập sử dụng đèn, nhớ lời Lượng
như in, tôi kiếm những chậu hoa kê gần tường, cho khách đứng…
Giao máy lại cho Lượng chụp, tôi phụ thu tiền và ghi biên lai. Đúng như tôi
dự đoán, đêm đó Lương chụp thêm 2 cuộn là 7 cuộn. Mười giờ đêm chúng tôi về đến
nhà, Tôi nói với Lượng về việc tôi dùng phim Liên Xô. Lượng cũng lo lắng không
kém tôi.
Hai ngày, mồng hai và mồng ba, đám thợ hợp đồng của ông Danh và chúng tôi
mong chờ tối mồng ba đễ nhận hình khách từ tổ tráng rọi ở nhà ông Danh. Nỗi ám
ảnh hình xấu, hình hư làm tôi lo lắng không một phút nào quên. Tôi không biết
có phải đây là lương tâm nghề nghiệp hay không, nhưng cứ nghĩ đến khách thất
vọng rồi to tiếng…là tôi lạnh người!
Chiều mồng ba, Minh, một người bạn từ hồi còn ở đường Hồ Đắc Hanh Quảng Trị
ghé vào tìm tôi. Lâu quá không gặp… Minh cũng chụp hình dạo bên Thủ Thiêm, chụp
loanh quanh các gia đình chứ không có điểm cố định nào. Anh em cho biết tôi ở
đây, nên ghé thăm.
Khi tôi quay trả phim để ráp cuộn mới, Minh cản tôi lại:
– Trong máy tao còn chừng 16 kiểu, mày chụp luôn dùm tao, tối giao thợ làm
hình, khỏi phải cắt phim mất công! Mai tao đem hình và phim qua.
Tôi hỏi Minh:
– Phim gì vậy Minh?
– Orwo. Vậy mày chụp phim gì?
– Phim Liên Xô mới lo chứ!
– Ủa sao không xài Orwo?
– Tay nhà thầu bảo giống nhau. Thợ hợp đồng với nó toàn xài loại này!
Tôi rã rời không muốn chụp tiếp. Xong đoạn phim của Minh, hai chúng tôi cùng
đi uống cà phê, đưa tiền 16 kiểu cho Minh rồi tôi về bên nhà ông Danh giao
phim…
Đúng ra, ngày hôm nay là thợ phải nhận hình chụp hôm mồng một, mồng hai, để
sáng mai giao cho khách theo như hẹn ba ngày. Nhưng cô thu ngân nói là tổ làm
hình làm chưa xong. Cứ đóng phim và tiền ngày hôm nay, rồi ngày mai, mồng bốn
nhận hình và thanh toán luôn tiền công.
Tôi phân vân, vì thợ vẫn đang chụp nên không gặp ai mà hỏi han. Tiền và phim
chụp ngày hôm nay được 4 cuộn, tôi cũng đã đóng! Lo lắng mà không nói được với
ai, tôi quay lại Nhà Rồng gặp chú Vang và anh Tùng. Họ cũng tức tối và lo lắng
rã rời, các thợ khác cũng xúm lại xôn xao…
Một anh thợ có vẻ sành sỏi, bộ dạng ra dáng dân giang hồ:
– Đù má tụi này định chơi trò “sóng giang” rồi!
Chú Vang hỏi:
– Sóng giang là sao?!
– “Sáng dông” đó mà, mai mốt tụi nó ôm tiền về Bắc, thánh nào tìm cho ra?!
Tụi mình đừng chụp nữa, bây giờ về nhà cha Danh, nhớ là không giao phim và tiền
ngày hôm nay. Đòi đưa hình hai ngày trước, có hình mới tiếp tục. Nếu không có,
mai chúng ta mua phim và biên lai. Tự chụp… nhớ là chưa có hình thì không giao
phim và tiền…
Tôi như đứng không vững, muốn ngồi thụp xuống đất. Tôi đã giao tiền và phim
hôm nay. Cả ba ngày là 13 cuộn phim, tôi không giữ lấy đồng nào!
Cả nhóm gần chục thợ cùng kéo nhau về nhà ông Danh đòi hình… Cuối cùng, một
gã đàn ông chừng 35 tuổi, đem ra một ôm phim trắng nhếch, thả tất cả xuống cái
bàn:
– Các anh không biết chụp hình, coi phim này, hoàn toàn thiếu sáng, phim thế
này làm sao ra hình cho được! Cả bọn im lặng, chết điếng đi một lúc, rồi cũng
anh thợ có dáng giang hồ lớn tiếng:
– Đù má, tao nói cho mày nghe nhé, thằng nào ở đây cầm máy ảnh bét gì cũng
đã 5 năm, ăn cơm thiên hạ mòn răng rồi, tụi mày lấy phim quá đát, lại là của
Liên Xô, không bắt sáng. Giờ đổ thừa cho thợ phải không?
Một anh thợ khác:
– Mày ra đây, tao còn trong máy mấy kiểu, mày chụp tụi tao rồi tráng phim
ngay, coi tại ai?
Gã đàn ông lầm bầm rồi lén vào trong nhà! Con hẻm xôn xao, người trong xóm
đến xem chật ních. Lúc này mới có nhiều bà con cho biết:
– Nhà này là của một cán bộ, lâu nay cho thuê, dạo gần đây thì đóng cửa cho
đến khi ông Danh vào…
– Đù má, đúng bài sóng giang mà! Anh em giữ lấy tiền ngày hôm nay, cố gắng
tìm chỗ làm hình giỏi, may chăng cứu được.
Mai mua phim Orwo và biên lai, tự chụp, tự kiếm chỗ làm hình và tự giao. Không
lẽ bỏ cái tết sao?
Tôi nghe đắng trong cổ mình, cái tết nhiều hy vọng mua cái flash tiêu tan!
Không đủ can đảm chụp tiếp vì sợ khách làm reo. Mấy hôm sau tôi về dứng phụ
chụp cho Lượng. Thấy tôi cứ bần thần buồn bã, Lượng nắm tay tôi siết thật chặt.
– Mình em chụp cũng dư mua đèn, anh đừng buồn, còn nhiều cái khốn nạn nữa
chứ chưa hết đâu!
Sài gòn 08 tháng 4 năm 2017.
Trạch An – Trần Hữu Hội