Công tác xây cất trường tiểu học Sao Mai tại làng Hà Bằng được
thành công nhanh chóng là nhờ sự hiện diện của đoàn quân tăng cường cho đồn Ty
Hạ. Sở dĩ nhiều người khẳng định như vậy là vì trước khi đơn vị tăng cường cho đồn
Ty Hạ được chuyển đến đây – tuy có đồn Nghĩa Quân nơi đèo Quảng Cau – mọi công
trình kiến tạo của chính phủ V.N.C.H. đều bị Việt Cộng phá hoại.
Trước lễ khánh thành trường Sao Mai, hội đồng xã tận dụng được
một số nhân công tình nguyện để trang hoàng khuôn viên ngôi trường. Nhóm người
này ghép gỗ thành một khán đài “dã chiến”. Nhóm người kia chặt lá dừa, xén lại
cho gọn, bọc chung quanh mấy trụ gỗ cho có vẻ tươi mát. Nhóm người nọ treo cờ,
giăng giây điện để cắm micro. Nhóm
người khác đem băng ngồi của học trò sắp ngay ngắn trước khán đài để hôm khánh
thành quan khách và phu huynh học sinh ngồi.
Sáng sớm của ngày khánh thành trường Sao Mai, nơi mái hiên,
các cô giáo duyên dáng trong những chiếc áo dài tha thướt. Các thầy giáo mặc quần
đậm màu, áo dài tay, gài nút ở cổ tay và thắt cà-vạt. Vài thầy hướng dẫn toán học
sinh vào giàn chào, dọc theo lối vào từ cổng trường. Vài thầy lăng xăng dợt lại
bài Quốc Ca cho toán học sinh phụ trách hành lễ, ngay cột cờ, giữa sân.
Trên gương mặt của mỗi người như toát ra sư vui tươi, trang
trọng mà từ lâu lắm người dân tại làng Hà Bằng hằng mong đợi.
Khoảng chín giờ, dân chúng trong làng đều quần áo chỉnh tề,
cùng nhau đến trường Sao Mai dự buổi lễ quan trọng. Một số nông dân vẫn ra đồng,
ra rẫy, làm công việc thường lệ. Riêng Thêm và đứa em trai – viện lý do là ngày
giỗ – không tham dự lễ khánh thành.
Nhân ngày giỗ, Thêm mời người yêu, tên Duệ – hiệu thính viên
của đại úy Phong, chỉ huy trưởng đoàn quân tăng phái cho đồn Ty Hạ – đến nhà ăn
giỗ. Duệ từ chối, vì biết ngày đó Phong bận đón phái đoàn của ông Quận Trưởng đến
dự lễ. Thêm năn nỉ rồi giận hờn làm cho Duệ khó xử. Duệ đành xin phép Phong.
Nhận thấy buổi lễ dự trù kéo dài khoảng một tiếng đồng hồ,
không có gì quan trọng phải cần đến hiệu thính viên; nếu trường hợp khẩn cấp
Phong có thể dùng máy truyền tin của ông Quận Trưởng, Phong cho phép Duệ vào
làng dự đám giỗ.
Khi Duệ vừa qua khỏi hàng rào bông bụp thì nghe tiếng em
trai của Thêm hát: “…Các anh đi, đến bao
giờ trở lại…Các anh về, tưng bừng trước ngõ. Lớp lớp đàn em hớn hở theo sau. Mẹ
già bịn rịn áo nâu. Vui đàn con nhỏ rừng sâu mới về…”(1) Dù là một người
không chơi nhạc, Duệ cũng thoáng giật mình vì câu “…đàn con nhỏ rừng sâu mới về!” Duệ tự hỏi “Đàn con nào mà ở rừng
sâu? Chỉ có đàn con Việt Cộng mới ở rừng sâu.” Hơi khó chịu trong lòng, Duệ
chưa kịp đến hỏi đứa bé thì Thêm xuất hiện, niềm nở chào hỏi và mời Duệ vào nhà.
Duệ hỏi “hai bác” đâu? Thêm đáp Ba Má của Thêm phải đi xuống đầm Ô-Loan mua lác
về dệt chiếu gấp. Duệ chẳng để ý, miễn được gặp và ăn cơm cùng người yêu là Duệ
vui trong lòng.
Trong khi Duệ chia xẻ những giây phút ấm cúng với Thêm thì
trước sân trường Sao Mai, dân làng tề tựu rất đông. Các bô lão mặc áo dài đen,
đội khăn đóng, được mời ngồi nơi hàng ghế đầu tiên.
Chiếc Jeep “lùn” và một chiếc Dodge chở lính hộ tống dừng lại
bên lề quốc lộ. Toán lính hộ tống từ chiếc Dodge nhảy xuống. Ông Quận Trưởng và
Phong – được ông Quận Trưởng ưu ái ghé đồn Ty Hạ đón, đưa đến nơi hành lễ – từ
chiếc Jeep bước xuống trong khi quý vị trong ban tổ chức từ trong trường đi
nhanh ra cổng, đón tiếp hai vị thượng khách.
Khi ông Quận Trưởng, Phong cùng toán binh sĩ theo đại diện của
ban tổ chức vào nơi hành lễ thì mọi đôi mắt chăm chú nhìn theo. Trong lòng mỗi
người dân hiện diện tại buổi lễ đều nảy sinh mỗi ý nghĩ khác nhau. Người thì thở
dài, thầm ước: Phải chi con trai của họ đi “lính Cộng Hòa” thì sẽ được sống tự
do, ăn mặc tươm tất, oai phong chứ không phải sống chui rúc, rách rưới nơi xó xỉnh,
hầm cống nào đó; thỉnh thoảng mới lẻn về xin gạo, xin tiền! Kẻ thì thầm tiếc,
phải chi đơn vị của Phong về đây sớm hơn, chắc chắn đồn Nghĩa Quân đã không bị
Việt Cộng dùng chiến thuật biển người “đánh úp” để con của họ phải chết! Có người
lại buồn; vì từ ngày đồn Ty Hạ được thành lập – và nhất là từ ngày đơn vị của
Phong tăng phái cho đồn Ty Hạ – thằng con của họ cứ trốn miết trong rừng, không
dám về!
Sau phần nghi lễ thông thường, ông Hiệu Trưởng trường Sao
Mai, đại diện ban tổ chức cảm tạ sự hiện diện của quan khách và đồng bào. Tiếp
theo, ông Quận Trưởng – đại diện chính quyền – ngõ lời cùng đồng bào. Sau khi một
vị bô lão nói lên cảm tưởng của dân làng đối với sự lưu tâm của chính phủ
V.N.C.H. dành cho con em của làng Hà Bằng, một đại diện học sinh cũng lên khán
đài bày tỏ lòng biết ơn và niềm tin tưởng tốt đẹp của các em vào chính thể Quốc
Gia.
Người cuối cùng được ban tổ chức mời lên khán đài là đại úy
Phong. Phong được giới thiệu như là một người đã đem yên bình cho thôn làng;
người được cảm tình của hầu hết dân làng và – quan trọng hơn cả – chính Phong
chủ xướng và đề nghị lên Quận về công tác thiết yếu để xây trường Sao Mai.
Ngoài ra, Phong còn liên lạc với đại úy cố vấn cũ – Gary Card, hiện là cố vấn
cho ông Quận Trưởng – để xin xi-măng, tôn và các vật dụng xây cất.
Đây không phải là lần đầu tiên Phong xuất hiện trước đám
đông, cũng không phải là lần đầu tiên chàng ban huấn từ; nhưng tại sao lần này
Phong cảm thấy xúc động lạ thường!
Nhìn quanh, Phong thấy như gốc chuối này, bờ tre nọ, khóm sậy
đong đưa, bụi cam đường oằn trái, khóm lan leo tím nhạt bên bờ rào thưa, v.v… vẫn
còn vương vấn bóng dáng thằng bé “đầu cá trê”! Danh từ “đầu cá trê” được dân
làng dùng cho những đứa bé – vì gia đình đơn chiếc và nghèo quá – suốt ngày Mẹ
phải bỏ đứa bé nằm trong một cái thúng, gánh theo để đi mót lúa, mót khoai hoặc
bán dạo những thứ vặt vảnh như kẹo thèo lèo, đậu phọng rang, ổi, cốc, v.v… vì vậy,
đầu của đứa bé bị dẹp ở phía sau, trông giống “đầu cá trê”.
Người dân làng Hà Bằng không thể nào tìm thấy vết tích của
thằng bé “đầu cá trê” năm xưa qua nhân dáng vạm vỡ, đạo mạo và thái độ lịch lãm
của Phong. Nhưng, quanh đây, nhìn đâu Phong cũng tưởng như thấy lại cu Phong với
những trưa lang thang dưới gốc vong đồng, rình bắn mấy con chim sẻ với chiếc ná
bằng giây thun; những buổi chiều chơi “u mọi” dưới bóng cây đa già; những buổi
sáng – với đôi bàn chân cáu bẩn, đầy ghẻ – bước nhè nhẹ, rón rén trên khóm đá
cuội im lìm bên con suối cạn để bắt mấy con chuồn chuồn kim…
Không ai có thể tìm lại để sống với quá khứ của mình. Nhưng,
tại Hà Bằng, Phong đã tìm lại được chàng. Từ lúc tìm lại được chính mình, Phong
cảm thấy thương yêu mảnh đất này như thương yêu tuổi thơ đã mất. Và Phong thầm
nguyện sẽ bảo vệ an ninh tuyệt đối cho ngôi làng này!
Ý tưởng của Phong vừa đến đây và bước chân của Phong còn
cách micro một khoảng ngắn thì nhiều
và rất nhiều trái đạn pháo kích của Việt Cộng rơi ngay địa điểm khánh thành trường
tiểu học Sao Mai!
Phong quỵ xuống. Trong cảnh hỗn loạn của đạn rơi, của tiếng
nổ, của tiếng la khóc, của bụi đất và mảnh đạn bay mịt mờ, Phong không hiểu tại
sao chàng không thể gượng dậy được! Trước khi chìm vào hôn mê, Phong tưởng như
chàng thấy rõ hình ảnh cu Phong đứng chàng hãng, giăng hai tay ngang cửa, không
cho cán bộ Lục vào nhà…
Trong số những cán bộ cao cấp cùng đơn vị với ông Thưởng – Bố
của cu Phong – đến nhà học Pháp văn do ông Thưởng dạy, cu Phong không hề thấy Lục.
Nhưng mỗi khi ông Thưởng đi công tác thì Lục lại đến thăm bà Thưởng! Lần nào
cũng vậy, Lục mặc quân phục màu “cứt ngựa”, bên hông đeo “súng lục”, chân mang
dép Bình Trị Thiên và cởi ngựa – chứ không đi xe đạp hoặc đi bộ như ông Thưởng
và các “đồng chí” cùng đơn vị với ông Thưởng. Sau khi vào sân nhà bà Thưởng, Lục
xuống ngựa, cột giây cương vào gốc tre trước nhà rồi thong thả đi vào.
Thấy cu Phong vẫn trong tư thế đứng chàng hãng ngang cửa chứ
không né tránh, Lục gọi: “Chị Thưởng ơi!”
Bà Thưởng từ bếp chạy ra: “Dạ, chào
cán bộ. Ông nhà tôi không có ở nhà.” Lục cười: “Biết rồi. Chị khỏe chứ? Tôi muốn ghé thăm chị.” Trước khi bà Thưởng
kịp đáp lời Lục, cu Phong nhìn thẳng cán bộ, hỏi: “Ba tui hỏng có ở nhà mà sao bác cứ tới thăm Má tui ‘wài’ dậy?” Đã bị
cu Phong cản trở nhiều lần, lần này, Lục chuẩn bị trước, lấy từ túi quần viên
đường thẻ màu nâu đậm, gói trong lá chuối, trao cho cu Phong: “Hôm nay bác có cái này, ngon lắm, cháu cầm
đi.” Cu phong nghênh mặt: “Hỏng
thèm!” Mẹ xoa tóc cu Phong: “Con phải
trả lời bác một cách lễ độ.” Cu Phong uất quá, òa lên khóc! Bà Thưởng khom
xuống, ôm con, hôn con như thầm cảm ơn con trong khi Lục hơi chần chừ một chốc
rồi quay gót, đến bên con ngựa.
Con ngựa đưa Lục đi xa nhưng hệ lụy do Lục để lại thì không
thể nào ông bà Thưởng – và cả cu Phong – có thể ngờ được!
Ông Thưởng bị thuyên chuyển lên Chùa Lầu, một vùng núi thâm
u, chỉ dành riêng cho những nhân vật thiếu tinh thần giác ngộ! Vì Chùa Lầu là nơi
“chó ăn đá, gà ăn muối” cho nên chỉ có ngôi chùa cổ cạnh con suối cạn. Sư trù
trì là ni sư Mẫu Đơn. Ni sư Mẫu Đơn phải “tình nguyện ủng hộ” chánh điện để bộ
đội cư ngụ và phục vụ cho Đảng và bác Hồ; còn ni sư Mẫu Đơn và các ni cô khác
phải dọn dẹp hậu liêu rồi thỉnh tượng Phật xuống thờ nơi hậu liêu!
Vì điều kiện sinh sống ở vùng núi quá khó khăn, “đồng chí”
nào đem theo vợ con thì tự tìm cây rừng và tranh để dựng lên những túp lều trống
trước hở sau. Trong thời gian chờ dựng lều tranh, gia đình cu Phong được ni sư
Mẫu Đơn cho tá túc dưới mái hậu liêu. Cu Phong theo ông Thưởng chặt cây rừng, gặt
tranh để dựng lều.
Lều chưa dựng xong, ông Thưởng phải đi công tác xa. Bà Thưởng
trông em gái của cu Phong. Cu Phong lén bà Thưởng âm thầm đi gặt tranh.
Đến tối vẫn không thấy cu Phong về, bà Thưởng bế em bé đi
quanh chùa, vừa khóc vừa gọi tên Phong.
Đến khuya, vẫn nghe tiếng gọi đã khàn của người Mẹ mất con,
các đồng chí từ chánh điện quát: “Có im
đi để người ta ngủ hay không?” Bà Thưởng vẫn gào khóc: “Các đồng chí làm ơn tìm giùm con tôi.” Một giọng vang lên: “Ai đồng chí với chị? Toàn dân vùng lên chống
thực dân Pháp mà vợ chồng chị cứ dạy con học tiếng Tây; thế mà đòi là đồng chí
với chúng tôi à!” Chợt nhớ, từ khi tản
cư đến Hà Bằng, bà Thưởng đã nghe đồn Chùa Lầu và đèo Quảng Cau là hai nơi cọp
nhiều nhất, bà Thưởng van lơn: “Các ông
tìm giúp con tôi chứ ở đây cọp nhiều lắm!” Không nghe trả lời, bà Thưởng thất
vọng, trở về hậu liêu khi tiếng niệm kinh của các ni cô cũng vừa dứt.
Ni sư Mẫu Đơn bước ra sân, thấy bà Thưởng đang khóc ngất
trong khi đứa bé gái ngủ say trong lòng Mẹ. Ni sư Mẫu Đơn hỏi nguyên nhân.
Sau khi biết nguyên nhân, ni sư Mẫu Đơn đưa Mẹ con bà Thưởng
vào hậu liêu và dặn bà Thưởng không được ra ngoài. Ni sư Mẫu Đơn cùng các ni cô
thắp bốn ngọn đèn lồng, cầm theo giây dừa, gậy gộc và một “phèng la”.
Ni sư Mẫu Đơn cùng các ni cô vừa rời hậu liêu một tý, bà Thưởng
nghe tiếng “phèng la” vang lên cùng tiếng la hét của những người con của Phật
đã quen chống chọi với thiên nhiên để tồn tại. Lúc này bà Thưởng mới nghĩ – có
lẽ – tiếng “phèng la” và tiếng la hét là để dọa cho cọp sợ.
Đi dọc con suối cạn, không thấy dấu vết gì lạ, ni sư Mẫu Đơn
chợt nhớ giếng lạng – giếng cạn, không xây thành – gần vườn xoài. Ni sư Mẫu Đơn
vội ra dấu cho nhóm ni cô theo ni sư rẻ phải, đi lên vườn xoài.
Đến vườn xoài, ni sư Mẫu Đơn ra dấu im lặng. Đang vạch cỏ và
tranh để bước đi, cả nhóm người cùng nghe tiếng kêu khóc văng vẳng. Ni sư Mẫu
Đơn ra dấu cho nhóm ni cô tiến về giếng lạng – đã bị tranh phủ đầy. Càng đến gần
giếng lạng, tiếng khóc la nghe đã khàn hẳn.
Sau khi ra dấu cho các ni cô cẩn thận và đứng xa bờ giếng,
ni sư Mẫu Đơn một tay vin vào cành xoài, một tay thòng đèn lồng khỏi bờ giếng,
hỏi lớn: “Có ai dưới đó không?” Tiếng
cu Phong khóc òa: “Dạ, con! Cứu giùm
con!”
Được ni sư Mẫu Đơn và nhóm ni cô thòng giây dừa, kéo lên khỏi
miệng giếng, người cu Phong tái ngắt và run lặp cặp…
Nhớ ơn cứu tử ngày xưa và cũng vì tình hình quân sự tại Chùa
Lầu rất căng thẳng, sau khi đem đơn vị đến tăng cường cho đồn Ty Hạ, Phong tổ
chức cuộc hành quân truy lùng toàn vùng Hà Bằng và Chùa Lầu.
Đến Chùa Lầu, Phong gặp lạ ni sư Mẫu Đơn. Ni sư Mẫu Đơn vẫn nhớ
từng chi tiết. Chính lúc đó ni sư Mẫu Đơn mới cho Phong biết rằng: Ông bà Thưởng
đã khuyên ni sư Mẫu Đơn nên cùng gia đình ông bà Thưởng trốn về Thành; nhưng ni
sư không thuận. Đã không thuận mà ni sư cũng không hề tiết lộ cho bất cứ ai về
việc gia đình Phong trốn về lại “vùng tạm chiếm”.
Trong khi tâm trí của Phong cứ miên man chìm vào quá khứ thì Duệ chạy “như bay” khi được tin Việt Cộng
pháo kích ngay vào buổi lễ khánh thành trường Sao Mai. Chiếc xe Lam chạy cùng
chiều với Duệ dừng lại. Bác Sáu Nhỏ – chủ và lái xe Lam – chồm ra, hỏi:
- Tụi nó pháo kích ở đâu dẩy?
Nhận ra người dân làng tốt bụng, Duệ thở gấp:
-Tụi nó pháo vô chỗ khánh thành trường Sao Mai. Bác cho tôi
“quá giang” tới đó giùm.
Vì vội vàng – và cũng vì biết bác Sáu Nhỏ lúc nào cũng cho
“lính Cộng Hòa” “quá giang” mà không nhận tiền – đến nơi, Duệ không kịp cảm ơn
bác Sáu Nhỏ, vội chạy vào tìm Phong.
Nhìn hiện trường la liệt xác thường dân và trẻ em, Duệ uất đến
lặng người! Trong đời lính, thấy biết bao xác người, bạn có, thù có, nhưng toàn
là những người có liên hệ trực tiếp đến cuộc chiến cho nên trong lòng Duệ chỉ
thương tiếc, ngậm ngùi, ngao ngán chứ không có cái ghê tởm, uất nghẹn như bây
giờ! Đang phụ khiêng xác chết của một bé trai gom chung một chỗ với những xác
chết khác, Duệ bị thiếu úy Cảnh – người vừa đem quân từ đồn Ty Hạ đến – vỗ vai:
-Ổng đâu, mày?
-Ý, chết tui! Bị thấy con nít chết nhiều quá, tui nổi
“xùng”, tui rối trí, quên ổng luôn!
Cảnh và Duệ đi nhanh đến chỗ đông người và thấy ông Quận Trưởng
bị thương nhẹ, đang tựa vào gốc cây bàng để được chăm sóc; Phong nằm im trên đất
với đôi chân bê bết máu và được kẹp bằng hai thanh tre nhỏ. Duệ và Cảnh cùng
khom xuống, sờ vào ngực Phong, thấy nhịp tim vẫn đập – nhưng yếu. Thấy Phong hé
mắt, Duệ hỏi:
-Ông thầy! Ông thầy biết em là ai không”
-Biết. Duệ.
-Dạ. Ông thầy làm em “teo” wá! Em cứ sợ dại…
Nghe tiếng trực thăng văng vẳng xa xa, Cảnh và Duệ đều thầm
mừng, vì nghĩ rằng văn phòng Quận đã biết tin và gọi trực thăng tải thương.
******
Sau khi thăm viếng, vấn an, đại úy cố vấn Gary Card bắt tay
kiếu từ ông Quận Trưởng. Gary vừa xoay lưng, ông Quận Trưởng chợt nhớ, vội gọi:
-Gary!
Gary quay lại “Vâng”.
Ông Quận Trưởng tiếp:
-Anh nhớ đại úy Phong mà cách nay vài tháng đã xin dụng cụ
xây cất để xây trường Sao Mai không?
-Vâng. Hồi trước Phong cùng trong Lực Lượng Đặc Biệt với
tôi.
-Đúng rồi! Phong cũng bị thương cùng ngày với tôi.
-Vậy sao? Hiện tại Phong như thế nào? Đang điều trị tại đâu?
-Cũng điều trị tại bệnh viện này, cách phòng tôi khoảng vài
phòng; tiếc rằng tôi không nhớ số phòng.
-Tôi sẽ tìm Phong. Cảm ơn. Giữ gìn sức khỏe.
Gary vừa đi chầm chậm vừa nhìn vào từng phòng. Đến phòng số
9 Gary nhận ra Phong ngay. Hai người xúc động, nắm tay nhau thật lâu. Phong cười,
mai mỉa:
-Gary thấy không? Tôi đúng là “đi sông đi biển không chết, về nhà sụp lỗ chân trâu”!
Vừa nhìn đôi chân của
Phong được băng bột, trở nên to, cứng và sậm màu, Gary – tay phải vẫn nắm tay
Phong – đưa tay trái vỗ vỗ lên tay Phong:
-Vì bạn là con hổ
dũng mãnh!
Phong cười, chưa kịp
nói gì thì Phong chợt cảm thấy như đang bị say sóng, nghe tiếng “u u” bên tai
và hơi nóng hừng hực nơi cổ.
Thái độ của Phong và
hơi nóng hâm hấp từ cơ thể của Phong lan qua bàn tay của Gary khiến Gary lo ngại,
nói với Cảnh và Duệ:
-Nắm tay Phong, tôi
biết Phong đang bị sốt. Nhiệt độ cao, có thể vết thương đã nhiễm trùng. Hai bạn
nghĩ mình có nên đưa Phong ra tàu bệnh viện của Đệ Thất Hạm Đội để chữa trị hay
không?
Duệ nhìn Cảnh vì Duệ
chẳng hiểu gì. Cảnh đáp lời Gary:
-Sorry, tôi không
dám có ý kiến trong việc này; vì việc này thuộc pham vi chuyên môn của các bác
sĩ thuộc quân y viện này.
-Thôi được, tôi sẽ hỏi
ý kiến Phong. Nếu Phong đồng ý, tôi sẽ can thiệp bằng mọi cách.
Gary khom xuống gần tai
Phong, gọi nhỏ:
-Phong! Tỉnh dậy đi,
Phong! Tỉnh dậy đi, Phong!
Nghe gọi, Phong cố mở
mắt. Rất trầm tỉnh, Gary hỏi từng tiến:
-Phong! Anh tỉnh
chưa? Anh nghe tôi rõ không? Tôi có một việc hệ trọng, muốn hỏi anh. Anh tỉnh
chưa?
Phong nhìn Gary, môi
cười méo xệch:
-Có gì quan trọng
quá vậy, Gary?
-Tôi muốn đưa anh ra
tàu bệnh viện của Đệ Thất Hạm Đội nhờ chữa trị. Anh nghĩ thế nào?
Phong giật mình, tỉnh
hẳn, không ngờ Gary dành cho chàng nhiều ưu ái đến như vậy! Trong khi mọi người
đang chờ sự quyết định của chàng thì Phong nhớ lại – trong lần đầu tiên Phong đưa
quân càng quét vùng Hà Bằng, Chùa Lầu và biết mắt của ni sư Mẫu Đơn bị lòa – Phong
đã thầm nguyện là sẽ gặp lại ni sư Mẫu Đơn và sẽ tìm phương tiện giúp ni sư chữa
bệnh mắt. Bây giờ, nghe những lời chân thành của Gary, Phong biết điều khấn
nguyện của chàng đang trở thành hiện thực. Phong đáp lời Gary với giọng đầy xúc
động:
-Không ngờ Gary tốt
với tôi đến như vậy! Tôi xin ghi ơn bạn suốt đời. Có điều, tôi xin Gary hãy
giúp đỡ một người thiếu phương tiện hơn tôi. Người ấy rất xứng đáng nhận đặc ân
của bạn. Xin bạn hãy giúp người ấy.
Gary ngạc nhiên,
nhìn Phong:
-Phong! Anh thật là
lạ! Anh bị thương nặng, vết thương đang làm độc. Tôi ngại bác sĩ ở đây không đủ
dụng cụ, thuốc men, rồi anh sẽ mất đôi chân; vậy mà anh lại từ chối để nhường
cho người khác. Tại sao?
Phong nhìn vào mắt
Gary; trong ánh nhìn đó Gary đọc được tất cả sự khẩn khoảng của Phong:
-Nếu Gary có lòng
giúp tôi thì xin Gary giúp người ấy. Tôi ở đây có bác sĩ; vả lại, bạn nhớ rằng
tôi “sẽ không chết vì lổ chân trâu” đâu!
-Người ấy là ai? Cha
Mẹ, vợ con của bạn, phải không?
-Không. Người này
không họ hàng gì với tôi.
-Anh nói gì? Không họ
hàng với anh mà tại sao anh lo cho người đó hơn là lo cho anh?
-Người ấy cũng như Mẹ
tôi; vì người ấy đã cứu tôi thoát chết khi tôi còn bé. Người ấy là một ni sư.
Gary lập lại nho nhỏ:
-Một ni sư!
Giọng của Phong trở
nên khẩn thiết vô cùng:
-Gary! Làm ơn cứu ni
sư. Tôi thề sẽ làm tất cả những gì Gary muốn để Gary giúp ni sư thấy được ánh
sáng mặt trời.
-Bà ấy bị mù à?
-Chưa mù hẳn; nhưng
nếu Gary không giúp thì bà sẽ…
Gary nhíu mày, ra vẻ
khó nghĩ vừa khi bác Sáu Nhỏ đến thăm Phong. Thấy nét mặt mọi người quanh Phong
đều có vẻ nghiêm trọng, bác Sáu Nhỏ lặng lẽ đến bên Duệ.
Phong tiếp:
-Kỹ thuật giải phẫu
mắt tại Việt Nam còn phôi thai lắm, Gary ạ! Hơn nữa, cuộc đời của một ni sư thì
làm thế nào bà ấy có tài chánh để trang trải cho cuộc giải phẫu tốn kém như vậy.
Please, Gary!
-Phong đưa tên họ và
địa chỉ của ni sư cho tôi. Tôi không dám hứa gì cả. Tôi sẽ cố gắng trong khả
năng của tôi.
Gary cười, vỗ vỗ vào
vai Phong. Phong bảo Cảnh viết vào mảnh giấy nhỏ: Ni sư Mẫu Đơn, Chùa Lầu, Hà Bằng.
Nhìn mảnh giấy, Gary ngạc nhiên:
-Sao không thấy tên
đường và số nhà?
Bây giờ Cảnh mới dám
lên tiếng:
-Trời ơi! Chùa Lầu
là “ổ” Việt Cộng mà ai dám một mình lên đem ni sư đi, đại úy?
Vì Cảnh nói tiếng Việt,
Duệ hiểu cho nên Duệ góp ý:
-Lên Chùa Lầu phải cỡ
trung đội mới dám lên đó, ông Thầy.
Bây giờ Phong mới thấy
sự hiện diện của bác Sáu Nhỏ, vội vẩy mấy ngón tay:
-Chào bác Sáu. Cảm
ơn bác đã đến thăm tôi.
-Chu cha! Nhiều người
muốn đi thăm đại úy lắm mà tui hỏng dám cho đi; vì tui hỏng biết mình tui có
thăm đại úy được hay không mà chở “cả đám”, rủi “nẫu” hỏng cho vô thăm thì làm
sao!
Quay sang Gary,
Phong trở lại đề tài lúc nãy:
-Gary! Nếu có người
đưa ni sư ra Qui Nhơn, bạn nghĩ bạn có thể giúp ni sư được không?
-Tôi sẽ cố gắng. Tôi
sẽ liên lạc trực tiếp với anh về việc này.
-Xin đa tạ lòng nhân
đạo của anh. Khi nào anh lo xong thủ tục, giấy tờ, xin cho tôi biết. Tôi sẽ nhờ
người đưa ni sư đến Qui Nhơn, nghỉ tạm nhà bà con của tôi rồi tôi sẽ liên lạc với
anh, cho anh địa chỉ của ni sư – tại Qui Nhơn.
-Tốt! Bạn có thể tin
tưởng rằng ước nguyện cao cả của bạn sẽ được Đức Chúa trợ giúp. Bây giờ tôi cần
tên họ, ngày, tháng, năm sinh của ni sư. Khi nào có những chi tiết cần thiết
này, bạn liên lạc với tôi.
Sau khi Gary từ giã,
Phong nhìn bác Sáu Nhỏ:
-Bác Sáu! Có lẽ bác
đã biết bệnh tình của ni sư Mẫu Đơn rồi, phải không, bác?
-Dạ, biết.
-Nhờ bác lên Chùa Lầu
thưa với ni sư Mẫu Đơn là tôi cần biết ngày, tháng, năm và nơi sinh của ni sư.
-Dạ, dễ mà. Tui dân
dả đi lên Chùa Lầu hỏng sao đâu. Để tui lo.
-Cảm ơn bác. Sau
này, bác có thể giúp đưa ni sư Mẫu Đơn từ Chùa Lầu xuống Hà Bằng; rồi bác chở
ni sư đến Qui Nhơn, gửi ni sư ngụ tại nhà người bà con của tôi, mọi phí khoảng
tôi sẽ ứng trước hoặc hoàn lại cho bác, được không, bác Sáu?
-Cái gì chớ cái đó
có gì khó khăn đâu! Đại úy cứ tịnh dưỡng cho mau lành. Bất cứ lúc nào đại úy cần,
cứ nói chú Duệ cho tui hay thì mọi việc đều xong. Tiền nong mình tính sau,
nhen, đại úy!
-Cảm ơn bác Sáu vô
cùng! Tôi sẽ không để bác Sáu thiệt thòi đâu. Thôi, chiều rồi Bác Sáu, Cảnh và
Duệ về đi.
******
Trên đường đến chỗ
xe Lam đậu, bác Sáu Nhỏ chợt nhớ một chi tiết lạ, vội hỏi Huệ:
-Nè, chú Duệ! Chú là
“đệ tử” của Ổng, tại sao hôm Ổng bị thương chú không ở bên Ổng mà chú lại chạy
ngơ ngơ ngoài đường dậy?
-Tại bữa đó cô Thêm
mời tôi ăn giỗ.
-Con Thêm bà con với
chú hả?
-Không phải. Thêm là
“bồ” của tôi.
-Chú “bồ” với con
Thêm hả? Chết cha! Coi chừng nghe, chú!
-Dạ. Sao, bác Sáu?
-Bữa đó nhà con Thêm
giỗ ai?
-Dường như tôi nghe
Thêm nói giỗ bà Ngoại thì phải.
Bác Sáu Nhỏ dừng bước,
nhìn Duệ:
-Bà Ngoại của con
Thêm còn sống sờ sờ đó mà ai nói với chú là giỗ bà Ngoại của nó? Chú cẩn thận,
đừng để ông đại úy bị liên lụy, nhen, chú!
Duệ hoang man, nhớ lại
câu hát của thằng bé “…Vui đàn con nhỏ rừng
sâu mới về…” Và, hôm đó, Duệ thấy một cụ bà lưng còng, ngồi trên phản, lặng
lẽ têm trầu chứ không ăn cơm; mà bữa cơm cũng chẳng có gì ra vẻ là bữa giỗ! Lại
cũng chẳng thấy nhan, đèn, vàng bạc gì cả! Mà bữa giỗ thì tại sao Ba Má của
Thêm lại đi mua lác dệt chiếu? Duệ lại nhớ, mỗi lần “hai đứa” hẹn nhau bên bụi
dù dẻ hoặc bên gò mối, Thêm cứ hỏi dò Duệ: “Cái
máy gì mà anh cứ đeo trên lưng rồi ‘nẫu’ nói ra, anh nói dô trong đó dậy?” Duệ
tìm cách không đáp lời Thêm.
Bây giờ, nhận ra được
nguyên nhân của sự việc, Duệ – dù rất thương Thêm – cũng cảm thấy uất trong
lòng vì chàng đã bị lợi dụng và lừa dối! Duệ bật lên tiếng chửi thề:
-Chết mẹ rồi!
Cảnh hỏi:
-Cái gì vậy, Duệ?
-Dạ, không có gì,
thiếu úy.
Đáp lời Cảnh như vậy,
nhưng trong lòng, Duệ đã quyết định: Sau khi Phong xuất viện, Duệ sẽ trình bày
mọi việc và xin Phong cho chàng được thuyên chuyển đến đơn vị khác!
ĐIỆP MỸ LINH
http://www.diepmylinh.com/