Nghệ sĩ Út Bạch Lan (1935-2016)
Ông T.V. Lai có lần hỏi tôi về nguồn gốc
bài Lý Con Sáo Bạc Liêu, tôi cứ lay hoay hoài không biết trả lời
ngay sao cho ổn thỏa. Có lẽ như vầy
Ba tôi là một nghệ sĩ cổ nhạc, kéo vĩ cầm mùi rệu. Gốc gác bên Nội tôi mấy
đời sinh sống làm ăn trên cuộc đất Cần Giuộc, thuộc miền Tây Nam phần. Nhưng
đến thế hệ của Ba tôi, khi lớn lên thời thế đẩy đưa, ông đã trôi giạt ra tận
ngoài Huế lập gia đình, một thời gian sau lại tấp lên cao nguyên Daklak, tỉnh
Ban Mê Thuột. Thuở đó, thập niên 1930 – 40, Ban Mê Thuột là chốn ma thiêng nước
độc, khỉ ho cò gáy, ít có người Kinh đặt chân tới xứ này. Tại đây, Ba Má tôi
lập nghiệp, sinh con đàn cháu đống cho đến cuối đời.
Tôi còn nhớ mỗi lần gánh cải lương Thanh Minh Thanh Nga của Út Bạch Lan – Thành
Ðược đi lưu diễn khắp nước ghé lên Ban Mê Thuột, có dịp Ba tôi vẫn hay mời các
nghệ nhân này về nhà đờn ca cải lương hoài cổ linh đình. Sân khấu là nền nhà,
nên không ai cần phải xênh xang áo mão, diệu võ dương oai, ra tuồng ra tích;
chỉ việc ngồi bệt xuống chiếu quanh mâm đồ nhậu mà ca ngâm với dàn đờn ca tài
tử sành nghề gồm guitar cổ nhạc (phím lõm), đờn kìm, đờn tranh, nhị hồ, vĩ cầm,
song lang v.v… Ðó là cuối thập niên 1950.
Ba tôi vốn sống bằng nội tâm nên về sau càng lớn tuổi ông càng thâm trầm ít
nói, cây vĩ cầm cũng vắng tiếng. Biến cố tháng 4/75 mất nước tan nhà. Ba tôi
buồn. Thỉnh thoảng những đêm rằm ngắm trăng bên ly rượu đế, nhã hứng Ba tôi lấy
đờn ra kéo. Ngón đờn thiện nghệ, mùi mẫn trở nên nỉ non, uốn éo, não nùng. Sau
này đi đoàn tụ Má tôi đem theo cây vĩ cầm của ông như một kỷ vật, bà nói Ba tôi
chết vì bệnh buồn.
Ngoài ra, chú Năm tôi, rồi chú Sáu (mắc thêm cái nghiệp làm thơ), chú Lai
Anh, chú Út đều là những người có máu nghệ sĩ, đã một thời đình đám cầm ca. Qua
thế hệ thứ hai, anh Hai tôi chuyển qua tân nhạc chuyên về độc tấu Tây ban cầm
nhạc cổ điển Tây phương. Trừ chú Út, còn những vị vừa kể trên đã tuần tự ra
người thiên cổ.
Có lẽ, một giòng giõi nghệ sĩ như vậy, lại thêm núi rừng cao nguyên heo hút
cũng đủ thẳm thấu hồn tôi một chút gì là sầu là cảm, một chút gì gọi là liên
quan tới lãnh vực tân, cổ nhạc chăng?
Bạc Liêu là cái nôi của dân ca miền Nam, quê hương của câu vọng cổ đầu tiên
ra đời. Bản Dạ Cổ Hoài Lang do nhạc sĩ Cao Văn Lầu sáng tác năm 1918, kể về tâm
tình người vợ nhớ chồng xa quê lúc đêm về. Sau này, khi tôi viết bài Lý
Con Sáo Bạc Liêu trong đó có một đoạn vọng cổ do tôi cải biên không muốn để cho
con sáo của tôi xổ lồng bay xa tới Mỏ Cầy, Bến Tre hay Rạch Giá, Hà Tiên, hoặc
Sóc Trăng, Cà Mau…, mà chỉ bay quanh quẩn ở xứ cơ cầu mà thôi. Hơn nữa, năm
1970 có lần tôi đi ngang qua Bạc Liêu nhìn thấy vài mái lều tranh cằn cỗi, xiêu
tó, trơ trụi trên gò đất quanh là ruộng muối không một bóng người; trên trời
thì mây chì ảm đạm dọc ngang, dưới đất thì sắt se gió mặn. Cái cảnh hắt hiu sầu
thảm đó của Bạc Liêu đã ăn sâu vào tâm trí tôi cho tới tận bây giờ.
Về sau, trong cuốn băng hình Chúng Ta Ði Mang Theo Quê Hương của Trung Tâm
Thúy Nga, tôi bồi hồi thấy lại con người và sông nước Bạc Liêu sau gần 30 năm
xa cách. Nhìn hình ảnh những nghệ nhân ca múa trông giống như một phó bản của
Ba tôi và các nghệ sĩ cổ nhạc thời trước. Những bản cổ nhạc theo các điệu Kim
tiền, Lưu thủy, Bình bán vắn, Nam xuân, Nam ai… của Ba tôi và các nghệ sĩ diễn
tấu xưa kia đã âm thầm đọng lại, vun bồi trong tôi để ngày nay biến thể thành
điệu nhạc Lý Con Sáo Bạc Liêu. Rồi mỗi lần nghe lại bài này qua giọng hát
Phi Nhung, Hương Lan, Tâm Ðoan, Ngân Huệ, Trung Hậu, Duy Trường, Thoại Mỹ,
Quang Hiếu, Lý Ngọc Thu… tôi đều mang một mối cảm hoài. Sau này ở bên nhà nhiều
người cũng thích hát bài này, cũng có vài nghệ nhân sáng tác thêm phần cổ nhạc
giao duyên.
Cuối cùng, tôi như thấy mình từ một phương trời xa thẳm bôn ba trở về quê
xưa. Từ miền châu thổ sông Cửu Long ngược lên phố núi, đứng trước căn nhà xưa,
nơi tôi thường nép mình ngoài cửa lắng nghe tiếng vĩ cầm mùi rệu của Ba tôi,
ngón đàn kìm của chú Sĩ, tiếng guitar cổ nhạc của cậu Năm Bé, tiếng nhị hồ của
chú Hiếu hòa cùng giọng hát của danh ca Thành Được và nữ nghệ sĩ Út Bạch Lan.
Ngày nay tất cả chỉ còn lại dư âm. Trừ Thành Được, tất cả, họ đã hóa thành
gió bụi, từ lâu lắm. Riêng nữ nghệ sĩ Út Bạch Lan, sau hơn 60 năm miệt mài trên
sân khấu cải lương, ngày 4-11-2016, như con sáo xổ lồng đã bay vào thiên
cổ. Hầu như bà dành hết cuộc đời mình cho nền cổ nhạc miền Nam đến hơi thở cuối
cùng. Bà mất đi nhưng tiếng hát ngọt ngào, êm dịu của bà, dù đã ngót 60 năm,
tôi nghe như vẫn còn đọng lại đâu đó trên nền nhà năm xưa của Ba Má tôi.
Ngậm ngùi nhớ tới bà mà thương cho tình trạng sân khấu cải lương không còn
đất sống. Nền cổ nhạc có từ năm 1917 đến nay đã tròn một thế kỷ đang lâm vào
cảnh suy tàn. Dù sao, trong cái buồn cũng có cái may, vì nghệ thuật cải lương
vẫn còn những hậu duệ không kém những bậc tài danh năm xưa, như Kim Tử Long,
Hương Lan, Ngọc Huyền, Thanh Ngân, Tài Linh, Vũ Linh, Vũ Luân, Thoại Mỹ, Quế
Trân… Ngày nay, những nghệ danh này không còn sân khấu lớn để diễn, nhưng giọng
ca mùi của họ vẫn văng vẳng đâu đó ở nơi đời này.
Tôi cũng thích thưởng thức vọng cổ với dàn đờn ca tài tử sau này diễn ra
trong các quán lá, trên sàn nhà, ngoài vườn cây, bên con rạch hiền hòa. Có
điều, giữa không gian nghệ thuật dân dã như vậy, cho dù họ hát thật mùi, đờn
thật hay nhưng nghe ra giọng ca giọng đờn của họ có vẻ lầm lũi, bùi ngùi, hụt
hẫng làm sao. Họ như những tiếng dế canh thâu rả rích gọi buồn.
Những sinh hoạt nghệ thuật truyền thống như vậy, những ấn tượng âm thanh như
vậy lâu dần đã thấm nhuần vào ký ức thính giác của tôi, để rồi tuần tự tôi viết
ra các điệu nhạc có âm hưởng dân ca, cổ nhạc miền Nam như Lý Con
Sáo Bạc Liêu, Phải Lòng Con Gái Bến Tre, Con Sáo Thứ Ba Biển, Con Sáo Rạch
Giá, Tay Vịn Cần Thơ, Tình Má Hậu Giang, Lý Ngược Dòng, Nhớ Dìa Miệt Thứ…
Phan Ni Tấn