Nữ sĩ Minh Đức Hoài Trinh (1930-2017)
Hồi mới tới Canada định cư khoảng nửa năm tôi có nghe qua băng cassette bài
Ai Trở Về Xứ Việt của nhạc sĩ Phan Văn Hưng mà lòng bồi hồi. Thập niên 1980,
không riêng gì những cựu tù cải tạo mới đặt chân lên xứ sở tự do, khi nghe bài
hát này qua giọng hát Khánh Ly, tôi nghĩ rằng ai cũng phải cúi đầu ngậm ngùi mà
nhớ lại quãng đời đày đọa u uất trong lao tù Cộng sản. Cả lời ca lẫn tiếng nhạc
đều gợi lên một nỗi trầm buồn thê thiết – nó quyện lại, nhắn nhủ, gởi gắm, trôi
đi. Nó trôi qua không gian mênh mông trở về tận bên kia bờ đất nước để ân cần
hỏi thăm những người bạn tù ở trong tù:
Ai trở về xứ Việt. Nhắn giùm ta người ấy ở trong tù. Nghe đâu đây vang
giọng hờn rên xiết. Dài lắm không đằng đẵng mấy mùa thu.
Ai trở về xứ Việt. Thăm giùm ta người ấy ở trong tù. Cho ta gởi một mảnh
trời xanh biếc. Thay giùm ai màu trời ngục âm u…
Sau này tôi mới biết bản nhạc này được Phan Văn Hưng phổ từ thơ Minh Đức Hoài
Trinh, một nhà thơ đầy nhân bản của đất Thần Kinh trầm mặc, cổ kính, sáng tác
tại Paris năm 1962.
Trước 1975, nhạc sĩ Phạm Duy có hai bản nhạc Kiếp Nào Có Yêu Nhau và Đừng Bỏ
Em Một Mình phổ từ thơ Minh Đức Hoài Trinh trở thành bất tử trong nền âm nhạc
Việt Nam. (Tôi vẫn còn nhớ năm 1970 tại Ban Mê Thuột, ông Tô Phùng Nghiệp, cựu
giáo sư trung học Banmêthuột có soạn riêng cho Tây ban cầm những bản tình ca
của các nhạc sĩ miền Nam trong đó có bản nhạc Kiếp Nào Có Yêu Nhau của Phạm
Duy. Thuở đó, ở Ban Mê Thuột rộ lên “phong trào” chơi đàn Tây ban cầm cổ điển
do giáo sư Tô Phùng Nghiệp hướng dẫn. Về sau, giáo sư xin đổi về quê quán Cần
Thơ tiếp tục dạy học và đã bị phía Cộng sản thủ tiêu lúc con của giáo sư vừa
tròn 1 tuổi).
Ngưỡng mộ nữ sĩ Minh Đức Hoài Trinh từ những ngày ở trong nước trước 1975
đến mãi mùa hè năm 1983 tôi mới gặp nữ sĩ tại tư gia giáo sư Nguyễn Tăng Chương
nhân dịp bà ghé qua thăm Toronto. Có tiếp xúc mới cảm nhận ở bà một tâm hồn
bình dị và thanh thoát trong chiếc áo dài đậm màu nâu đất. Chữ nghĩa trong văn
chương cũng như giữa cuộc sống của bà đều toát ra sự hiền hòa, chân thực. Quê
hương miền Trung và mảnh đất nhỏ hẹp của sông Hương núi Ngự như lênh đênh trôi
nổi qua từng lời nói nhỏ nhẹ, cử chỉ từ tốn vốn có của người phụ nữ đất Thần
Kinh. Từ đó đến năm 2011, nhân thực hiện bộ Chân Dung Bạn Văn online tôi có gọi
điện thoại qua Mỹ trò chuyện hỏi thăm nữ sĩ và phu quân Nguyễn Huy Quang. Rồi
thôi, cho đến khi hay tin bà qua đời.
Nữ sĩ Minh Đức Hoài Trinh tên thật là Võ Thị Hoài Trinh, sinh ngày
15-10-1930 tại Huế, Sống ở Pháp từ năm 1953 đến năm 1964. Đến định cư tại quận
Cam, Hoa Kỳ năm 1982. Bà mất ngày 9-6-2017 tại Nam California, Hoa Kỳ.
Suốt quãng đời hoạt động văn học nghệ thuật, bà đã có nhiều thành tựu trên
những lãnh vực văn học, xã hội và đời sống. Bà cũng tận dụng khả năng qua ngòi
bút để tranh đấu cho các văn nghệ sĩ bị cộng sản giam cầm. Bà đứng ra thành lập
Hội Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại và vận động để được công nhận hội viên Văn Bút
Quốc Tế tại Rio de Janeiro, Brazil năm 1979. Ngoài những bài báo, bà đã xuất
bản các tác phẩm giá trị qua các thể loại truyện, thơ: Lang Thang (1960), Thư
Sinh (1962), Bơ Vơ (1964), Hắn (1964), Mơ (1964), Thiên Nga (1965), Hai Gốc Cây
(1966), Sám Hối (1967), Tử Địa (1973), Trà Thất (1974), Bài Thơ Cho Ai (1974),
Dòng Mưa Trích Lịch (Thanh Long Bruxelles, 1976), Bài Thơ Cho Quê Hương (Nguyễn
Quang Paris, 1076), This Side The Other Side )Occidental Press USA, 1980), Bên
Ni Bên Tê (truyện dài Nguyễn Quang USA, 1985), Niệm Thư 1 (tái bản 1987), Biển
Nghiệp (Nguyễn Quang USA,1990).
Danh nhân của nền văn học miền Nam Việt Nam, nhạc sĩ Phạm Duy và nữ sĩ Minh
Đức Hoài Trinh đã lần lượt đi vào thiên cổ, nhưng các tác phẩm của họ vẫn bất
tử trong lòng người Việt.
Phan Ni Tấn