Chiếc Mercedes màu đen bóng loáng quẹo phải ở chiếc cổng rộng
có ghi hàng chữ “Làng Việt Kiều”. Hắn lái xe từ từ qua cổng. Bên phải là
trạm bảo vệ. Hắn nhìn thấy tên Sơn, một trong những nhân viên bảo vệ thường trực
của “làng”. Thấy hắn, Sơn vẫy tay, giọng vui vẻ làm quà:
– Chào chú Pi-Tơ (Peter). Chú mới đi chợ Tết về hả?
Hắn dừng xe, cười cười, gật đầu. Rồi với tay cầm cái cặp da,
lấy ra bao thuốc lá ba số 5 chưa bóc, thẩy cho gã bảo-vệ:
– Nè, cho chú mày. Hút cho thơm râu mấy ngày Tết.
Tên bảo vệ trẻ tuổi chộp lấy hai bao thuốc chính xác như một
thủ môn nhà nghề. Mắt gã sáng chưng, hớn hở nói:
Nói xong, tên bảo-vệ cười hì-hì. Hắn tiếp-tục cho xe từ từ chạy tới. Hắn chợt
nghe tiếng tên bảo-vệ gọi với theo ở phía sau:
- Chú Pi-Tơ ơi, cái này là hút cho thơm râu. Chú nhớ là còn
lì-xì cho cháu lấy hên nữa nghe.
Hắn gật đầu, miệng lẩm-bẩm chửi thề
– Bull shit! Fuck you! Đồ làm tiền!
Qua kính chiếu-hậu, hắn thấy tên bảo-vệ còn đứng vẫy tay, miệng
cười toe-toét.
Đường bên trong “làng” rất sạch với hai hàng cỏ mượt được
săn sóc cẩn thận, và được tô điểm bằng những khóm hoa đủ màu sắc. Tất cả đều
tươi mát trong không gian trong lành. Hôm nay là ngày 23 Tháng Chạp. Buổi sáng
hắn đã làm một màn lả lướt lái xe ra Sàigon ngắm cảnh. Hắn vẫn quen gọi là
Sàigon, một cái tên quen thuộc thuở nào. Mấy tên cán bộ quen hắn cũng vậy. Chẳng
đứa nào muốn gọi cái thành phố này bằng tên của ông cụ già đã chết. Điều đó
cũng dễ hiểu. Rất nhiều người đã có những kỷ niệm sâu xa ở đây từ những năm
tháng xaxưa, và ký ức không phải là chuyện dễ bôi xoá. Người ta vẫn quen miệng
gọi là Sàigon. Người ta vẫn quen hát “Sàigòn đẹp lắm, Sàigòn ơi, Sàigòn ơi…”
mà không cần phải biết đến tên tác giả là ai. Nó như một sự quen thuộc, xuất
phát từ trong trái tim, rất mộc mạc, nhưng chân thành.
Đường phố bên ngoài có vẻ tấp nập đặc biệt. Mọi người đang
chuẩn bị tiễn đưa ông Táo về trời.
Hắn mỉm cười, gật gù ra vẻ đắc ý. Ngang qua căn biệt thự đầu
tiên, nhìn thấy người đàn ông trung niên đang đứng trong vườn phía trước, hắn
nhấn nút cho kiếng cửa xe quay xuống, la lớn:
– Ê, Tô-Ni (Tony). How are you?
Người đàn ông có tên Tô-Ni vẫy tay lại:
– Ah, Pi-Tơ. Good. Khỏe không? Đi đâu về vậy?
Hắn không trả lời trực tiếp câu hỏi, mà chỉ bằng những cái gật
đầu và mỉm cười. Cả hai chào hỏi nhau rất tự nhiên bằng tiếng Việt, pha lẫn tiếng
Anh. Họ có vẻ như quen miệng nói tiếng nước ngoài mỗi khi gặp nhau. Có khi họ
nói rất đúng giọng và đúng câu cú, chứng tỏ đã ở nước ngoài lâu ngày và “có
trình độ”, nhưng cũng có khi cương ẩu, chẳng cần chữ nghĩa văn phạm văn phiếc
gì cả. Nhưng được cái ở đây không ai thắc mắc gì. Hắn vừa lái xe vừa huýt sáo một
bản nhạc vui. Tô-Ni hiện đang làm chủ căn biệt thự đầu tiên mang số 001, nằm
phiá bên trái tính từ cổng vào. Anh ta là Việt kiều từ Úc về.
Riêng Pi-Tơ, hắn cũng là Việt kiều chính hiệu 100%. Trước
kia hắn ở tiểu-bang California. Cách đây hai năm, hắn từ Mỹ về, không biết lấy
tiền từ đâu ra, mua căn biệt thự số 022. Căn biệt thự này nằm gần phiá bờ
sông. Trong làng có 37 biệt-thự lớn nhỏ, diện tích mỗi căn từ 2 ngàn đến 5 ngàn
square feet (thước vuông của Anh). Tất cả được làm bằng vật liệu cao cấp đúng
theo tiêu chuẩn của Mỹ. Mỗi biệt thự, tùy theo diện tích, có từ 2 đến 4 phòng
ngủ, phòng ăn, phòng tắm, nhà bếp, vườn trước và vườn sau.
Ngoài ra, còn có máy điều hòa không khí và đủ mọi tiện nghi
khác. Trong làng có hồ bơi, sân quần vợt, và phòng tập thể dục với đầy đủ dụng
cụ. Làng được vây quanh bởi một bờ tường cao, chắc chắn. Ngoài ra còn có đội bảo
vệ túc trực ngày đêm. Nhờ vậy, tình trạng an ninh trong làng rất bảo đảm. Người
lạ mặt không được vào làng, nếu không có giấy phép của chính quyền hoặc không
có chứng nhận của gia chủ.
Gọi là “Làng Việt Kiều” vì phần lớn những người cư ngụ
đều là Việt kiều. Những người này từ nước ngoài về Việt-Nam mua nhà, đa số là từ
Pháp, Anh, Hà Lan, Canada, Mỹ, Úc và một số quốc gia khác nữa. Chính quyền Việt
Nam đang dành mọi dễ dàng cho những người này. Họ về nước mua nhà với nhiều lý
do và mục đích khác nhau. Có người đi đi về về như cơm bữa vì có cơ sở làm ăn ở
nước ngoài và ở trong nước, có người cư ngụ thường xuyên vì đã đến tuổi về hưu.
Vì tính chất đặc biệt như vậy, đương nhiên nó tạo ra một xã hội riêng biệt và một
giai cấp đặc biệt, không thể tránh khỏi.
Chiếc Mercedes chạy vào garage của căn biệt-thự số 22. Đây
là căn biệt thự hai tầng, kiến trúc theo kiểu mới. Thoạt nhìn, nó có vẻ giống
như căn single house ở Mỹ, nhưng diện tích vườn trước và vườn sau có phần rộng
hơn và có vẻ khang trang hơn. Ngoài vườn trước có hai cây mai chi chít nụ non,
báo hiệu vài ngày nữa sẽ trổ hoa vàng rực rỡ. Cây mai này là quà tặng của Sáu Bảnh,
tên cán bộ trưởng Công An Quận cách đây vài tháng. Tên cán bộ này đã sai đàn em
chở đến, trồng cho hắn. Tên cán-bộ đã ghé vào tai hắn, nói nhỏ: “Tặng anh
hai cây mai. Đây là giống quý. Để thắt chặt thêm tình giao hảo giữa chúng ta.
Anh sẽ có mai ngắm vào dịp Tết.”
Hắn cười, cám ơn. Thực ra, nói hai cây mai kia là quà của
Sáu Bảnh cũng đúng; hoặc nói nó không phải là quà, cũng đúng. Vì để có được món
quà đó, hắn đã nhiều lần chi rất đẹp cho tên cán bộ này, kể cả đàn em của nó.
Bây giờ tặng cho hắn hai cây mai, đây chỉ là việc làm “có đi có lại”, hoặc là
“hai bên đều có lợi” mà thôi.
Sáu Bảnh là cán bộ tập kết. Năm 1954 khi chưa học xong Tiểu-học,
Sáu Bảnh gia nhập đội dân quân xã, rồi sau đó được đưa ra Bắc. Năm 1970 Sáu Bảnh
là Tiểu Đoàn Trưởng, rồi Trung Đoàn Trưởng thuộc Công Trường 9 ở mật khu Dương
Minh Châu. Sau khi bị thương và hồi phục, Sáu Bảnh được đưa về hoạt động bí mật
ở Sàigon. Đến ngày 30 tháng Tư năm 1975, ngay sau khi Việt Cộng vào tới Dinh Độc
Lập, Sáu Bảnh ra mặt. Bây giờ Sáu Bảnh là Quận Trưởng của một quận ngoại thành.
Hắn quen Sáu Bảnh hơn một năm nay, qua sự giới thiệu của một
người quen, cùng trong nhóm “làm ăn” với nhau. Sáu Bảnh biết hắn là Việt Kiều ở
Mỹ về, chịu ngay. Còn hắn, khi biết Sáu Bảnh là Quận Trưởng, hắn cũng rất yên
tâm, mừng thầm trong bụng. Từ đó trở đi, hắn hết sức lấy lòng Sáu Bảnh, nói
cách khác là hắn mua chuộc Sáu Bảnh để mong có lợi về sau.
Chính quyền trong nước vẫn thường tâng bốc “Việt kiều là
khúc ruột ngàn dặm”. Chúng nói như vậy, nhưng không phải vậy. Chúng muốn Việt
kiều mang đô-la về càng nhiều, càng tốt. Chế độ trong nước chỉ sống được nhờ những
đồng đô-la từ nước ngoài gửi về dưới bất cứ hình thức nào. Thực ra, nó chỉ là
con quỷ hút máu người, hút mãi, hút mãi, không biết đến bao giờ mới no, mới
thôi thèm khát. Chính quyền tham nhũng từ trên xuống dưới. Cán bộ gộc, có chức
có quyền, làm giàu trên xương máu dân nghèo. Tiền chi cho một bữa nhậu, đủ để
cho những gia-đình nghèo khó sống thoải mái cả năm.
Ở “Làng Việt Kiều”, không ai biết hắn làm nghề gì, và
cũng không ai thắc mắc tìm hiểu xem cái tên Việt của hắn là gì. Người ta chỉ biết
hắn là Việt kiều từ Mỹ về. Mọi người quen miệng gọi hắn là Pi-Tơ, một cái tên Mỹ
rất thông thường hắn đã chọn sau khi thi đậu quốc tịch.
Từ đầu năm 1975 Việt Cộng ráo riết gây áp lực chính trị và
quân sự để mau cưỡng chiếm miền Nam. Trước những thất bại không thể tránh khỏi,
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố từ chức vào ngày 21 tháng Tư năm 1975,
giao quyền cho ông Trần Văn Hương. Rồi một tuần sau đó, Đại tướng hồi hưu Dương
Văn Minh lại lên thay Tổng thống Trần Văn Hương với ý định vá víu lại tình hình
đã nát bét như tương. Cả miền Nam lúc đó rơi vào tình trạng rất hỗn loạn, hoang
mang và bi đát.
Sau khi biết bị lừa, hắn tức tối, chửi thề tùm lum, nhưng
không biết làm sao, vì đã quá trễ. “Bên thắng cuộc” đã đóng kịch cắm cờ
trên nóc dinh Độc Lập. Cuối cùng, hắn phải ra trình diện, thâm tâm mong “học
tập cải tạo” mười lăm ngày cho “tốt”, rồi trở về lo làm ăn sinh sống.
Thế là hắn “tự nguyện đi ở tù”. Vì là sĩ quan cấp thấp, nên hắn không bị
đưa ra ngoài Bắc, mà chỉ long-vòng trong Nam qua các trại tù như Hóc Môn, Trảng
Lớn, Long Thành, Xuân Lộc, Bù Gia Phúc, Bù Gia Mập.
Vì có “nợ máu với nhân dân”, nên hơn 5 năm sau, nhờ “học
tập tiến bộ”, hắn mới được “trên” cứu xét thả về. Sau khi chân ướt chân ráo
ở tù về, hắn phải lo mưu sinh ngay. Thời gian đó, đối với những người ở
tù được thả về như hắn, không có nghề gì dễ bằng đạp xích lô, nghĩa là không cần
phải qua học hành trường lớp gì cả. Hơn nữa, cũng là để cho bọn công an không để
tâm bới móc. Có một số người khác ngồi ở lề đường sửa xe đạp, xe gắn máy. Sau
vài ngày suy nghĩ, hắn mướn một chiếc xích lô, mỗi ngày ra sức đạp từ sáng đến
tối. Trả tiền mướn xe, cũng lai rai sống đắp đổi qua ngày, dù có phần vất vả. Một
hai tuần đầu hắn tưởng mình chịu không nổi. Cơ thể rã rời, đau nhức, nhưng rồi
từ từ cũng quen đi. Rất may là sức khoẻ của hắn chưa đến nỗi tồi tệ lắm, mặc dù
trong thời gian ở tù, ăn uống thiếu thốn, thường chỉ o bo và khoai mì. Trong đời
hắn, chưa bao giờ hắn có thể tưởng tượng có lúc hắn phải gò lưng trên chiếc xe
xích lô, đạp kiếm tiền độ nhật.
Mấy năm sau hắn tìm đường vượt biên. Chuyến đầu thất bại. Hắn
bị bắt và bị nhốt ở Bến Tre mất mấy tháng. Tiền của cạn sạch. Ở trong tù, hắn
khai lý lịch giả, vì vậy bọn công an không biết hắn là sĩ quan đi “cải tạo
về”.
Sau khi được thả về, vài tháng sau, nhờ sự giúp đỡ của vài
người bạn cũ, hắn lại đi chuyến thứ hai. Để tạo bất ngờ, chuyến đi được tổ chức
đúng vào ngày 30 Tết. Hắn đi Rạch Giá, chờ đêm tối, được “tắc xi” đưa tới một
chiếc thuyền giả dạng đánh cá. Hắn còn nhớ chiếc thuyền tối om và nồng nặc
hơi người. Sau năm ngày lênh đênh trên biển, chiếc thuyền gặp bão. Cơn bão làm
gẫy cột buồm và phá vỡ một phần đuôi thuyền. Chiếc thuyền mất phương hướng,
loay hoay như chiếc lá tre trên mặt hồ rộng lớn. Sáu chục người, kể cả trẻ con,
bắt đầu kiệt sức. Người ta nằm bẹp dí trong khoang thuyền, mắt lờ đờ nhìn nhau.
Trẻ con không còn một tiếng khóc dù là rất khẽ. Thỉnh thoảng chỉ nghe thấy những
tiếng nấc rất nhẹ, rồi lại chìm trong tiếng sóng biển bên ngoài.
Hắn chỉ lờ mờ biết là mình đã rơi xuống biển, ngụp lặn trong
giòng nước giá buốt, mặn chát. Và hắn cũng chỉ lờ mờ biết là trong khi chờ
Thần Chết đến, tay hắn đã chạm phải một mảnh ván thuyền. Nó chính là vị cứu
tinh của hắn. Hắn đã ôm chặt lấy mảnh ván đó, rồi cứ để mặc cho giòng nước cuốn
đi.
Khi hắn tỉnh dậy, mắt chưa đủ sức mở ra, tai hắn nghe mơ hồ
có tiếng chân người và tiếng nói chuyện của mọi người bằng một thứ tiếng lạ. Rồi
người ta đưa hắn tới một bệnh xá để săn sóc. Qua ngày hôm sau hắn mới phục hồi
được phần nào. Hắn đi lại được, và có thể nói chuyện với những người trong bệnh
xá. Cô y tá kể cho hắn nghe bằng tiếng Anh, chuyện các ngư phủ người Mã Lai vớt
được hắn ở ngoài khơi. Do vậy, hắn mới biết hắn là một trong số bảy người được
cứu sống. Chỉ có bảy người sống sót trong số sáu chục người. Đó là hậu-quả bi
thảm của chuyến vượt biên đi tìm tự do.
Ở đảo gần một năm, qua nhiều lần sàng lọc, hắn được Cao Ủy
ghi tên vào danh sách những người đi Mỹ, vì hắn khai có người thân ở đấy. Hắn
được đưa tới tiểu bang North Dakota, rồi nửa tháng sau, hắn xin vào làm ở một
nông trại chăn nuôi bò sữa.
Những năm tháng đầu tiên trên đất Mỹ không phải là những năm
tháng sung sướng, an nhàn. Ở trại chăn nuôi, hắn đã làm việc từ sáng đến tối để
khỏi phải nghe thằng chủ mũi lõ quát tháo, la lối. Hắn tự nhủ, dù khổ cực đến mấy,
vẫn còn hơn phải sống mất tự do nơi quê hương đang bị nhuộm đỏ.
Hai năm sau, được sự đùm bọc của một người bạn, hắn chuyển về
California. Tại đây, mấy năm đầu, hắn làm đủ mọi chuyện. Ai gọi đâu làm đó. Gặp
cái gì cũng làm, không từ nan. Hơn năm năm bị giam trong trại tập trung của
“bên thắng cuộc” đã giúp hắn biết chịu đựng gian khổ. Được cái, hắn là người
tháo vát, khá thông minh và có tinh thần cầu tiến.
Ở đây, không ai biết hắn làm nghề gì. Có hỏi, hắn chỉ nói
lòng vòng cho qua chuyện. Biết ý, không ai hỏi nữa. Ở tuổi còn trẻ, hắn không
hút thuốc, không rượu chè, và cũng không cờ bạc, tướng mạo lại coi được, vì vậy
có nhiều cô muốn nhảy vào “nâng khăn sửa túi” cho hắn, nhưng hắn cứ phớt lờ.
Rồi một ngày số phận đẩy đưa hắn tới một tiệm phở của người
Việt Nam. Hắn gặp bà chủ và xin làm phụ việc. Thấy hắn khoẻ mạnh, tưới tắn, bà
chủ nhận liền. Thực ra, xin làm phụ việc ở nhà hàng, nhất là nhà hàng do người
Việt làm chủ, chẳng khó khăn mấy, miễn là có đủ sức khoẻ. Phần lớn những nhà
hàng này chỉ trả lương tối thiểu cho công nhân, có nơi còn bóc lột trắng trợn,
lấy luôn cả tiền “tip” của khách thưởng cho người phục vụ. Vì vậy, gần như họ
mướn người làm mà không phải trả một xu nào cả. Nhưng nói chung, đó cũng chỉ là
một trong những cách để làm giàu, dù là bất chính.
Lợi dụng lúc nghỉ phép, hắn về Việt Nam. Sau vài ba chuyến,
thấy có vẻ “chắc ăn”, hắn thấy bớt nghi kỵ, và càng lúc càng tin vào sự
đổi mới của chính quyền hiện tại.
Mỗi lần về Việt Nam, hắn được tôn sùng và ưu đãi như một ông
hoàng. Hắn lần tìm những thằng bạn cũ, nhưng không gặp lại “tay” nào
cả. Rồi những chuyến về của hắn gia tăng nhiều hơn. Có năm hắn đã về bốn năm lần.
Mỗi lần lâu cả tháng.
Rồi hắn nghĩ đến chuyện mua một căn nhà ở Việt Nam. So sánh
với giá nhà ở Mỹ, nhà ở Việt Nam rẻ hơn nhiêu. Hơn nữa, hắn về nhiều, có một
căn nhà sẵn sàng để ở, vẫn tốt hơn là phải thuê mướn khách sạn.
Sau “thủ tục đầu-tiên” với bọn nhà đất và công an khu
vực, hắn trở thành chủ nhân căn biệt thự mới toanh này.
Hắn vòng ra vườn sau. Qua lớp hàng rào, hắn nhìn thấy con
sông phiá sau vườn đang lúc nước ròng, để lộ ra những đám lục bình mắc cạn. Gió
thổi nhè nhẹ. Hắn ngửi thấy mùi phù sa ở dưới sông tỏa lên ngai ngái. Hắn cảm
thấy mát rượi trong lòng.
Có tiếng phụ nữ chào hắn từ phía vườn nhà bên cạnh:
– Bonjour anh Pi-Tơ. Sáng nay anh đi sắm Tết hả? Đường phố
có gì vui không, anh?
Hắn nhìn sang bên cạnh. Hê-Len đang đứng bên khóm hồng,
trông cô ta tươi mát như bông hoa vào buổi sáng sớm. Hê-Len là Việt kiều ở
Pháp. Cô ta đi đi, về về. như cơm bữa. Chồng của Hê-Len là người Pháp, nhưng
ông ta nói tiếng Việt rất thong thạo. Họ có hai đứa con– một trai 7 tuổi và một
gái 5 tuổi– rất dễ-thương.
– Tôi chỉ làm một vòng quanh Sàigon thôi, chứ có mua sắm gì
đâu. Đông người lắm. Mấy hôm nữa đi sắm cũng được. Sớm chán.
Pi-Tơ trả lời.
– Chưa đi đâu cả. Định mua mấy chậu bông về trưng, nhưng
chưa có thì giờ.
Nói đến đó, như chợt nhớ ra, Hê-Len nói tiếp:
– Này, anh Pi-Tơ, nhân tiện chiều nay tiễn Ông Táo về trời,
vợ chồng em mời anh sang dùng bữa.
Đến đó, Hê-Len nói nhỏ:
– Tụi em có mời cả ông Sáu Bảnh trên quận nữa. Anh thân với
ông Sáu Bảnh, anh nhớ qua chơi nhé.
Pi-Tơ nghĩ thầm, ghê thật, đâu phải chỉ có mình. Vợ chồng
cô này cũng quen cả Sáu Bảnh nữa. Họ định dựa hơi gì đây? Đang muốn gặp Sáu
Bảnh, nên hắn nhận lời liền:
– OK, cám ơn. Thế nào tôi cũng qua.
Buổi chiều lúc 5 giờ khi hắn đóng bộ qua nhà Hê-Len, Sáu Bảnh
vẫn chưa tới. Hê-Len đang bận rộn nấu nướng trong bếp. Hắn ngồi ở sofa, chuyện
trò cùng chồng Hê-Len. Mãi đến 6 giờ rưỡi Sáu Bảnh mới tới. Sáu Bảnh đến bằng
xe hơi có tài xế riêng. Tài xế còn làm nhiệm vụ bảo vệ nữa. Nghe tiếng xe, hắn
là người đầu tiên bước ra đón Sáu Bảnh.
– Chào anh Sáu. Anh vẫn mạnh chứ?
Hôm nay Sáu Bảnh trông tươm tất hẳn ra, nhưng vẫn không giấu
được vẻ mộc mạc, quê kệch của người ở “rừng” về, dù đã lâu. Sáu Bảnh vừa
cười, vừa đi vào nhà.
– Vẫn bình thường thôi. Còn anh thì sao? Có gì khá hơn
không?
Tuy hỏi vậy, nhưng Sáu Bảnh nắm rõ từng chi tiết rất nhỏ của
các Việt kiều sống trong khu vực, nhất là những người như hắn, cựu sĩ quan chế
độ cũ, vượt biên ra nước ngoài và hiện nay về Việt Nam thăm viếng, đầu tư, kể cả
ăn chơi phè phỡn. Biết tụi nó như thế nào. Cần phải đề cao cảnh giác cho
chắc ăn. Sáu Bảnh luôn luôn nghĩ như thế.
Hắn bắt tay Sáu Bảnh, trả lời cho có vị:
– Cám ơn anh Sáu. Tôi vẫn cứ lai rai.
Vợ chồng Hê-Len bắt tay Sáu Bảnh, mời ngồi vào bàn. Tất cả
có năm người. Vợ chồng chủ nhà, Sáu Bảnh, gã tài xế và hắn. Các món ăn đều do
Hê-Len nấu. Món nào cũng thơm ngon. Sáu Bảnh có vẻ thích thú với những chai rượu
đắt tiền Hê-Len mua từ bên Pháp mang qua. Nhờ rượu và thức ăn ngon, Sáu Bảnh ăn
uống rất tự nhiên. Mọi người nói chuyện vui vẻ, hết chuyện này qua chuyện khác
không ngớt. Qua câu chuyện, hắn biết vợ chồng Hê-Len muốn mua thêm vài căn biệt
thự nữa ở Làng Việt-kiều hay chỗ khác cũng được. Họ tính chuyện đầu tư
nhà đất, mua đi bán lại. Mua nhà là phải qua Sở Nhà Đất ở thành phố và địa
phương. Họ biết Sáu Bảnh là người có thế lực, quen biết nhiều. Họ muốn dựa vào
Sáu Bảnh để cho mọi thủ tục được dễ dàng, nhanh chóng.
Sáu Bảnh có vẻ ngà ngà say, cười hề hề:
– Được, được. Chuyện nhỏ. Để đấy tôi lo.
Vợ chồng Hê-Len rót thêm rượu mời Sáu Bảnh. Ai cũng biết đến
đó là chuyện đã được giải quyết xong.
Chập sau, Sáu Bảnh đứng lên từ giã vợ chồng chủ nhà. Lúc ra
đến cổng ngoài, Sáu Bảnh ghé vào tai hắn, nói nhỏ. Hắn ngửi thấy mùi rượu nồng
nặc.
– Tôi cần nói chuyện với anh một chút.
Sáu Bảnh nói như ra lệnh. Hắn chửi thề trong bụng “Tổ cha
mày, định chơi trò gì đây?” Tuy vậy, hắn vẫn mỉm cười, xoè tay ra:
– Vâng, mời anh.
Sáu Bảnh đi qua nhà Pi-Tơ trước. Sau khi ngồi vào ghế, gã
nói:
– Anh Pi-Tơ, tôi muốn bàn với anh chuyện này. Tôi cần anh
giúp. Xong chuyện, ai cũng có lợi cả.
Hắn tỏ vẻ ngạc nhiên:
– Chuyện gì vậy, anh Sáu?
Sáu Bảnh tỏ vẻ nghiêm trọng:
– Chỉ có anh, tôi mới nói chuyện này. Tôi có một đường dây
buôn bán từ Úc. Đường dây này đang cần một số tiền để mua hàng và lót đường. Nếu
công việc trôi chảy, như tôi đã nói, anh sẽ được chia sằng phẳng.
Bên tai hắn, Sáu Bảnh lúc nào nói cũng như ra lệnh. Hắn như
muốn rơi ra khỏi ghế. Giọng hắn ngập ngừng, lo sợ:
– Anh có thể cho tôi biết đường dây nào vậy?
– Tôi nghĩ anh cũng chẳng nên thắc mắc làm gì. Đó là “đường
dây chân rết” của tụi tui. Không thể nói ngắn gọn ngay bây giờ được.
Hy-vọng anh có thể lo được. Điều tôi cần phải nói là anh cũng có lợi
trong vụ này.
Có thể thằng cán bộ này đang cầm đầu, hoặc là có chân trong
một tổ chức buôn lậu quốc tế nào đó. Nó lợi dụng chức quyền làm điều phi pháp.
Nó nói là “đường dây chân rết”. Có thể là đường dây này nhiều ngõ ngách
ngang dọc, và lẽ dĩ nhiên, được tổ chức quy mô từ trên xuống dưới.
Hắn thều thào:
– Anh cần bao nhiêu?
– Một trăm ngàn đô.
Hắn hốt-hoảng:
– Nhiều quá vậy? Làm sao tôi lo được?
Sáu Bảnh gằn giọng:
– Nhiêu đó mà nhiều nỗi gì. Sao, anh không lo được à? Nó chỉ
là phần nhỏ nằm trong ngân hàng của anh thôi mà.
Hắn xuống nước:
– Bao giờ anh mới cần?
– Trễ nhất là tuần sau. Không thể lâu hơn.
Hắn lẩm nhẩm, rồi hỏi:
– Chết, vậy là… đúng ngày 30 Tết?
– Đúng thế. Anh ráng giúp dùm nhé? Đường dây không thể tin
ai khác, ngoài anh.
Trước khi đi, Sáu Bảnh còn nói nhỏ vào tai hắn:
– Anh đừng quên một điều. Khi “đường dây” cần, có anh giúp đỡ,
đương nhiên anh trở thành người của “đường dây”. Công sức của anh sẽ được đền
bù xứng-đáng. Bằng không…
Nói đến đó, Sáu Bảnh nhìn thẳng vào mắt hắn. Hắn thừa hiểu
đó là lời đe dọa. “Bên thắng cuộc” có thể nói và làm cáì gì cũng được, chẳng
khác gì bọn Mafia.
Đêm đó hắn không tài nào ngủ được. Hay là mình báo Công An?
Nhưng để làm gì? Có lợi gì không? Liệu chúng có tin mình không? Ai là người làm
chứng? Ai là người bảo-vệ mình?…
Hắn tự hỏi mình hàng trăm câu hỏi, nhưng không thể trả lời
được. Hắn thừa biết Sáu Bảnh là một tay cán bộ kỳ cựu và có thế lực ở quận. Tên
này có gốc gác lớn ở Bộ Chính Trị. Ngay đến Bí Thư Thành Ủy cũng chẳng muốn rầy
rà. Hắn nằm trăn-trở, nghĩ muốn nát óc. Sau cùng, một ý nghĩ chợt đến
với hắn. Hay là mình bay ngay về Mỹ cho xong chuyện? Đúng rồi. Chỉ có cách đó mới
trốn thoát bọn Sáu-Bảnh. Rồi hắn lại tự trách mình sao quá ngu ngốc, tự dưng
đem dâng mạng cho bọn chúng.
Sáng hôm sau, vừa ăn sáng xong ở một nhà hàng quen, để đề-phòng
tai mắt, hắn đi bộ đến văn-phòng của một hãng máy bay để hỏi thăm tin-tức mua
vé máy bay về Mỹ. Văn-phòng này chỉ cách đó một đoạn đường ngắn. Hắn cố tình đi
thật chậm, hai tay thọc túi quần, làm ra vẻ thoải-mái, nhàn-hạ. Phải về Mỹ nay
mai thôi. Tài-sản ở Việt-nam rồi sẽ tính sau. Không thể sống chung với bọn này
được. Tụi nó có thể hại mình không biết lúc nào. Không thể tin vào luật pháp của
bọn này được.
Hắn vừa đi, vừa suy nghĩ. Chợt có tiếng xe gắn máy nổ kế
bên, rồi có tiếng người gọi hắn:
– Anh Pi-Tơ. Đi đâu vậy? Đồng chí Sáu Bảnh đang muốn gặp anh
nội trong ngày nay đó.
Hắn giật mình quay sang bên cạnh. Tên tài-xế của Sáu Bảnh
đang ngồi trên chiếc xe gắn máy. Gã mặc đồ công-an. Lưng gài khẩu K54, mà gã cố
tình để lộ ra, mặt gã có vẻ rất nghiêm trọng. Vậy là bọn này theo
dõi mình từng bước, không dễ gì lọt qua được. Khốn nạn thật. Bây giờ làm sao
đây?
Hắn cố lấy giọng bình thản:
– Tôi vừa mới ăn sáng xong. Đi bộ một chút cho khỏe người.
Gã tài xế gật đầu:
– Anh có cần tôi chở về không?
Hắn lắc đầu:
– Không, cám ơn. Tôi có xe.
– Vậy thì tốt. Anh nhớ về gặp đồng chí ấy nhé? Tôi đi đây.
Nói xong, gã nhấn ga. Chiếc xe gầm lên, rồi lao nhanh về
phía trước. Thằng này chỉ làm bộ, nó lòng vòng quanh đây thôi. Mình phải coi chừng.
Hôm nay không thể đến văn phòng bán vé máy bay được. Tụi nó theo dõi sát nút.
Thôi, đành chờ dịp khác vậy.
Hắn làm bộ đi vào một cửa hàng bán hoa, đầu óc rối bung lên,
không biết phải tìm cách nào bây giờ. Thật là dại dột. Hay là mình đến Toà Đại
Sứ Mỹ nói sự thật, rồi nhờ họ giúp, mình cũng là công dân Mỹ mà. Nhưng Toà Đại
Sứ lại không gần đây. Nhưng dễ gì nó để cho mình đến được đó. Hay là cứ bỏ ra một
trăm ngàn đô cho thằng chó chết cho rồi. Nhưng đã chắc gì nó chịu như thế. Nó
biết mình có tiền, sẽ tìm mọi cách để tống tiền, chẳng những lần này, mà còn
nhiều lần khác nữa. Đồ khốn nạn.
Khi hắn lái xe về đến nhà, thấy Sáu Bảnh đã đứng chờ sẵn
trong sân, bên cạnh có gã tài xế. Hắn giật mình, chột dạ.
– Chào anh Việt kiều. Anh đi sắm Tết vui chứ? Sao, có mua được
nhiều bông không?
Sáu Bảnh trở giọng, không gọi hắn bằng tên như thường-lệ.
Hai con mắt lồi của gã như muốn lòi hẳn ra.
Hắn líu lưỡi:
– Định mua ít bông, nhưng nghĩ hôm nay còn sớm nên lại thôi.
Sáu Bảnh gằn tiếng:
– Hôm nay là 23 tháng Chạp. Tết tới nơi rồi. Còn gì nữa mà sớm.
Rồi Sáu Bảnh ghé tai hắn:
– Anh nhớ hạn chót là 30 Tết nhé. Đừng để lỡ hẹn.
Đúng là thằng trắng trợn làm tiền hắn. Nó đã lợi dụng quyền
thế để ức hiếp, bóc lột người dân. Nhưng mình phải làm gì bây giờ? Dù nó có là
ai, mình vẫn phải trình vụ việc cho công an biết. Hy-vọng họ sẽ có cách trừ khử
thằng ăn cướp này.
*
– Đấy, không thấy à? Có xác người chết kẹt trong đám lục-bình kia kìa.
– Hình như tự tử.
– Không biết có đúng không. Để coi.
– Mới đầu năm mới đã chết rồi.
Người ta xì-xào, bàn-tán một lúc, rồi không ai bảo ai, mọi
người đều im-lặng. Trong đám người ấy có cả Hê-Len và ông chồng người Pháp của
cô.
– Công-an trên quận chưa xuống. Bà con đừng ai đụng vô hết.
Có người nói như thế. Không ai bàn tán gì nữa. Sát bên bờ
sông, một đám lục bình lớn bị chặn lại vì một nhánh cây gẫy. Người ta nhìn thấy
có một thây người nằm xấp, ẩn hiện dưới đám lục bình.
Đến gần 10 giờ công an mới xuống hiện trường làm việc. Đám
người hiếu kỳ tản ra hai bên. Họ cử người lội xuống sông, kéo xác chết lên bờ.
Một tấm chiếu được trải bên cạnh bờ sông. Hai người mang bao tay khiêng cái xác
đặt vào đó. Bây giờ ai cũng thấy rõ. Đấy là xác của một người đàn ông mặc quần
jean màu xanh, nhưng không ai nhận ra là ai, ngoại trừ Hê-Len và có lẽ, cả ông
chồng nước ngoài.
Những đám lục-bình vô tư trôi từ từ theo giòng nước đang bắt
đầu xuống. Mặc dù hôm nay là mùng một Tết, một số người hiếu kỳ đã trực chờ sẵn
bên bờ sông.
– Anh à, đúng là anh Pi-Tơ bên cạnh nhà mình rồi.
Hê-Len nói nhỏ với chồng như thế. Ông chồng nhìn Hê-Len, để
một ngón tay lên miệng, nhẹ gật đầu.
Hà Việt Hùng
08-2017
08-2017