Bay về ổ chín tầng cao
Con chim vĩnh biệt quên chào mái hiên
Bùi Giáng
Thế là vợ chồng chúng tôi đã sống nơi đây gần bảy năm sau khi rời
bỏ căn hộ hai tầng mà tôi gọi là “Ngôi Nhà Lý Tưởng.”
Thời gian vùn vụt trôi. Tôi không nhớ đã dọn nhà bao nhiêu lần. Sáu
hay bảy lần chưa kể lấn cuối dọn đến căn gác nhỏ này? Lẽ dĩ nhiên
không phải vì chúng tôi là người ưa kén chọn khó khăn, mà vì hoàn
cảnh, vì phải chạy theo công việc làm ăn. Nhớ lại lúc còn ở trong
nước, gần nửa thế kỷ, chỉ dọn nhà vài ba lần.
Khi bỏ nước mà đi, chúng tôi không hình dung nổi cuộc sống mới sẽ
như thế nào. Nó sẽ tốt, hoặc xấu. Mặc. Nhưng chắc chắn không xấu hơn
đời sống mà chúng tôi đã trải qua từ ngày Miền Nam mất. Con cái có
thể ráng sức tiếp tục học hành, khởi công xây dựng tương lai, nhưng
vợ chồng chúng tôi thì sao? Chắc chắn không thể trở lại nghề nghiệp
cũ. Có thể nào làm lại cuộc đời lúc tuổi trẻ không còn? Sẽ chấp
nhận tất cả. Hái trái cây, phụ việc tại các nông trại, làm vườn,
đánh cá, chăm sóc người già, … nếu ở miền quê. Gác gian, bồi bàn,
bỏ báo, phụ bếp, bưng phở, làm khuy nút, cắt chỉ … nếu sống tại
thành thị. Còn chỗ ở? Nhà trọ, chung cư, hay chỗ trú ẩn mà người ta
gọi là shelter. Đủ che mưa nắng là tốt rồi. Không ngờ xứ Mỹ
cứu trợ chu đáo. Người dân Mỹ, nói chung có máu lạnh nhưng hào hiệp.
Chúng tôi dần dần có việc làm qua ngày. Lũ con thì khá hơn.
Sau nhiều lần dọn nhà, chúng tôi đến ở tại một trong hai căn hộ nằm
liền nhau (duplex). Căn hộ có hai tầng, hai phòng ngủ, hai phòng tắm,
toa lét, phòng khách, nhà bếp, những tủ đựng áo quần, một ga-ra cho
hai xe, và sau nhà là một mảnh vườn nhỏ. Căn hộ nằm trong một khu gia
cư có hồ bơi, sân quần vợt, những hộp thư riêng, cổng sắt, muốn
vào phải bấm mã số ở cổng. Đây là một khu gia cư nhỏ bé
chỉ có 27 căn hộ bao quanh bởi dãy tường dày và cao quá đầu người.
Tại sao phải kiên cố như vậy? Sợ trộm, cướp? Đúng vậy, vì nó nằm
trong một vùng trước kia bị xem là thiếu an ninh. Đối diện với
nó qua một con đường lớn, đường 17, là những khóm nhà tồi tàn, mọc
lên hỗn độn, do những người da màu, đa số là người Mễ, trú
ngụ. Xe cảnh sát thường tới lui, đèn chớp lia lịa, còi hụ inh ỏi.
Về sau, nhà nước cho chỉnh trang, triệt hạ tất cả những ngôi nhà cũ,
xây những tòa chung cư tươm tất ba tầng lầu cho dân vùng đó. Nhờ vậy,
ít còn nghe tiếng còi hụ, không còn thấy những tội phạm bị xiềng
tay áp giải lên xe. Khu gia cư của chúng tôi nhờ đó tự nhiên lên giá.
Trước nhà, cạnh ngưỡng cửa, có một cây phong rất cao, cao nhất
trong vùng, lá to bảng và mượt mà. Lá vàng, lá đỏ sắp rụng vẫn
tươi tắn. Tôi nghĩ nếu phần nối giữa cuốn lá và cành dai dẳng hơn để
cho lá khỏi rụng sớm thì cây phong vào mùa thu rực rỡ đến chừng
nào. Lúc chúng tôi dọn nhà tới vào mùa thu. Lá phong rụng đầy quanh
gốc, đầy thảm cỏ xanh. Cứ vài ba hôm có người đến quét dọn, rồi
lại đầy lá rụng. Chỉ một cây phong mà thôi, quét lá không xuể. Đúng,
“Đố ai quét sạch lá rừng.” Tôi thích cây phong lắm. Cũng thích lá khi
đang rụng, và khi đã nằm yên trên mặt đất.
Tôi mong gia đình chúng tôi sẽ ở lâu trong ngôi nhà này cùng với cây
phong, với hồ nước. Tôi nhớ có một bản nhạc cũ mang tên “Ngôi Nhà Lý
Tưởng”. Mình thích nó, thì mình cứ gọi nó cái tên ấy, tôi tự nhủ,
dù theo tiêu chuẩn tại nước Mỹ, có lẽ cái nhà này được sắp vào
hạng rất xa dưới trung bình về mặt tiện nghi, sang trọng.
Tôi vốn thích cây cối và sông nước. Mỗi vùng trên quê hương cũ đều
có một số cây đặc thù đứng chen chúc với những loại cây khác. Hồi
bé tí, sống ở Đà Lạt, hồi đó Đà Lạt cũng bé tí như tôi, tôi chỉ
biết thông xanh bạt ngàn và cái hồ sương mù. Thác ghềnh có nghe nói
nhưng chỉ được tới thác Cam ly gần thành phố. Lớn lên một chút, về
kinh đô cũ, về Huế, về quê quán, thì cau, chuối, tre, dừa, bàng,
phượng. Và con sông với đền đài cổ kính, phố xá trầm mặc, câm nín.
Sắp trưởng thành vô Sài Gòn, gặp nhiều thứ cây lạ, nhưng nổi bật
nhất là những hàng cây sao cao vút, hoa rụng quay quay trên không trung,
chạy dài trên đường Minh Mạng, Đại Học Xá. Và xe cộ, bến cảng với
tiếng còi tàu buồn buồn.
Loại cây nào thường trở lại với ký ức? Có lẽ cau và chuối. Tôi
vẽ trong trí một bức họa rất đơn sơ, chỉ vài ba chất liệu. Một tàu
lá chuối màu xanh thắm lành cũng đẹp, rách càng đẹp, làm tiền cảnh
che một phần mái hiên nhà tranh màu nâu xám; phía sau nóc tranh là
vài ngọn cau cao lá rủ như những lọn tóc; và đằng sau cùng, làm hậu
cảnh, là khoảng trời xanh biếc với vài cụm mây trắng, mây hồng. Chỉ
thế thôi. Đấy là quê cũ, là tổ ấm, là quấn quýt, là êm đềm, là
quyến luyến, là xa lìa, mà tôi nhớ quay quắt khi mới đến nước Mỹ
này những lúc ngồi lâu một mình nơi trạm chờ xe buýt, hay trong nhiều
giấc ngủ ngày hoặc đêm, mơ hồ nghe thêm tiếng chim cu gáy từng
hồi dài, thấy hiện thêm con sông nước trong vắt lác đác thuyền đò,
và những con hói có nhiều cá rô, cá mại, cá cấn, và bèo nổi trên
mặt, và rong chìm bên dưới. Xa quê hương, tôi nhớ cây cối và sông nước
nhiều hơn nhớ bao nhiêu thứ khác. Tới một xứ lạ, không lạ vì nhà
cửa, đường sá, mà lạ vì các loại cây.
Quê tôi không có cây phong. Trước đây khi còn ở trong nước, tôi đã
làm quen với phong qua sách vở, tranh ảnh. Nước Tàu từ xa xưa đã đưa
cây phong vào thơ. Trong đêm trăng, sương mù, quạ kêu thảng thốt, hàng
phong bên sông âm thầm cùng với ánh lửa thuyền chài đánh một giấc
ngủ buồn:
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn Tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền
(Phong Kiều Dạ Bạc, Trương Kế)
Trăng rụng quạ kêu trời đầy sương
Lửa chài phong bến giấc sầu vương
Ngoài Cô Tô, có Hàn Sơn Tự
Thuyền khách nửa đêm nghe tiếng chuông
(nt dịch) [1]
Có lẽ tác giả chú ý tiếng chuông nửa đêm hơn, nhưng tôi thì lại
nghĩ đến hàng phong mơ ngủ.
Ở phương Tây vào cuối thu, tại biên thùy phía Đông Bắc nước Mỹ
tiếp giáp với Canada mà sau này tôi có lần tới thăm, đồi núi, rừng
rú vàng rực, đỏ thắm với trùng trùng điệp điệp những phong là
phong. Một cơn gió thổi qua, muôn ngàn vạn triệu lá phong rụng xuống
lấp lánh trong ánh mặt trời. Một nhà thơ Việt Nam chưa từng rời khỏi
đất nước, thấy mùa thu ngô đồng trút lá không bảo đấy là lá rụng
mà màu sắc đang rơi:
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi, vàng rơi, thu mênh mông
(Tỳ Bà, Bích Khê)
Nếu được chứng kiến cảnh rừng phong thay đổi xiêm áo lúc thu về,
có lẽ nhà thơ ấy đã có những câu thơ huyền ảo khác nữa. Và lẽ dĩ
nhiên câu thơ bát ngát của Nguyễn Du trong Truyện Kiều cũng đã
đến với tôi không biết bao nhiêu lần:
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san
Thế mà nay một cây phong đứng ngay sừng sững trước nhà. Đẹp, cao,
uy nghi. Nó cao hơn tất cả cây cối trong khu. Đi đâu về, đậu xe lại bấm
nút chờ cổng mở, mắt tự nhiên ngước nhìn lên, thấy ngay cây phong vươn
lên đằng sau những mái nhà ngang, dọc. Những chùm lá trên ngọn ve vẩy
vẽ hình lên nền trời xanh, hay ghi chép câu chuyện gì đó với hư không.
Qua khỏi cổng, vừa bước chân ra khỏi xe cũng gặp ngay cây phong. Thân
nó to đến gần hai người ôm, vỏ óng ánh vàng, nâu. Rễ thì phần nổi
trên mặt đất trông cuồn cuộn như sóng biển.
Một hôm đi làm về tôi đứng lặng người. Cây phong đâu? Cây phong đâu?
Thì ra từ sáng sớm dụng cụ cơ giới đã được mang tới triệt hạ nó.
Thân bị cưa ngang thành nhiều khoanh to. Cành lá rễ bị nhồi nhét vào
máy xay xay ra thành bột gỗ. Tất cả được đưa lên một chiếc xe tải
lớn mang đi. Nơi gốc cũ của cây phong không còn dấu vết gì ngoại trừ
lớp cỏ xanh được bứng lên từ nơi khác mang lại lấp kín. Cây phong có
đau đớn và oán hận?
Hỏi Ban Giám Đốc khu gia cư. Được biết cây phong không nằm trong
“lãnh thổ” của nhà tôi, người ta muốn làm gì thì làm. Lá rụng
nhiều quá, quét dọn tốn kém; cành khô rơi và tụ trên mái nhà làm
đọng nước, hôi thối; rễ cây bên dưới mới gây phiền toái nhất, nó làm
nứt nẻ các lối đi, và phá hỏng mấy nền nhà gần đấy. Tôi ngẫm nghĩ
phong phải mọc trong rừng hoang vu, quê hương riêng của nó.
Không có phong tôi trồng trúc trong địa phận của mình. Tôi thích tre
hơn nhưng tre to quá, cao quá. Đứng ngoài cánh đồng trống hay bao quanh
làng xóm đu đưa kẽo kẹt suốt ngày đêm thì được, nhưng sẽ làm phiền
lòng nhiều người nếu nó có mặt nơi đây. Ngay cả nuôi gà kiểu của ta
cũng không ổn. Gà trống ưa gáy làm mất giấc ngủ người ta, và làm
náo động sự yên tĩnh cần thiết. Gà mái cũng không kém, khi muốn đẻ
chạy loạn lên cục tác. Rồi trứng nở ra, mẹ luôn miệng gọi đàn con đi
kiếm ăn, đàn con thì chiêm chiếp, rối rít.
Vâng, trồng trúc xinh. Nhớ ca dao, Trúc xinh trúc mọc đầu
đình/Em xinh em đứng một mình cũng xinh, hay, Trúc xinh trúc
mọc bờ ao/Em xinh em đứng nơi nào cũng xinh. Thử bịa thêm, Trúc
xinh trúc mọc ven đồi/Em xinh em đứng em ngồi cũng xinh, hay,
Trúc xinh trúc mọc trước nhà/Em xinh em ậm em à cũng xinh, hay,
Trúc xinh trúc mọc trên cồn … Và thế là tôi càng hài lòng với
bụi trúc.
Nhưng cuối cùng bụi trúc cũng phải chịu cùng số phận với cây
phong. Là vì nó đâm thành nhiều cây con khác. Trên đất của mình thì
không sao, nhưng nó còn chạy ngầm dưới đất, và chạy rất xa. Rồi trồi
lên. Hàng chục cái chồi trúc mọc lú nhú trên những bãi cỏ, hay chạy
sâu vào trong những khu vườn của mấy ngôi nhà láng giềng. Phải phá
bỏ, đào tận gốc, tận rễ. Trồng lại trúc mới trong chậu sành thật
dày cho rễ không đâm thủng nổi. Nhưng bị gò bó, trúc hết xinh, cây lá
vàng úa, xơ xác. Cuối cùng phải dẹp nó đi, thay vào đó là bụi
hồng. Và khiêng về đấy mấy cục đá trái nặng trịch, và to như những
quả banh bầu dục. Để làm gi, tôi không biết. Có lẽ vì nhớ câu thơ
trong Truyện Kiều, “Có cây, có đá sẵn sàng.”
Đấy là trước cửa ra vào. Đằng sau nhà có mảnh vườn nhỏ, có sẵn
cây bưởi và một loạt cây cọ loại thấp chủ cũ để lại. Cây bưởi, tôi
thích lắm. Nó đang trổ bông trắng muốt, thơm ngát, ẩn hiện trong đám
lá xanh um. Khi có gió, mùi thơm lan xa ngào ngạt. Nhưng những cây cọ
khô khan, lại choáng quá nhiều đất. Chúng nên có mặt trong công viên
hay trên đường phố. Tôi phá hết chúng đi. Thay vào đó là vài cây ăn
trái khác, dăm loại rau thơm như sả, húng, tía tô, rau quế, hành, ngò.
Vài cây ớt chỉ thiên. Một cái giàn nhỏ cho cây mơ và cây mồng tơi leo
lên. Có cả mấy bụi hồng, khác giống với hồng trồng trước nhà, nằm
song song với bức tường rào. Hồng ở Mỹ nhiều, rẻ, và đẹp. Bạn bè
tới chơi thấy có rau mơ hỏi đùa rằng có phải dành để ăn với thịt
chó? Đừng rình bắt chó hàng xóm nhé. Tôi trồng rau mơ để ăn với dê
nướng thỉnh thoảng mua về. Gói trong lá mơ, dê nướng, hay nói chung
các món thịt nướng khác, ngon hẳn lên.
Với những chăm chút đó, một vài hy vọng được nhen nhúm trở lại.
Tuy vậy, cây phong bị đốn ngã, bụi trúc bị đào bới, vẫn để lại
trong tôi một dấu ấn đầu tiên khá đậm kể từ ngày sống trên đất nước
này, dù tôi cố nuôi tin tưởng rằng “Ngôi Nhà Lý Tưởng” của chúng tôi
vẫn còn nguyên vẹn. Những liên tưởng, những bàng hoàng, thỉnh
thoảng hiện lên như ác mộng, như điềm xấu. Như có lần đứng nhìn
biển, hồi mới qua đây, tôi mơ hồ cảm thấy chúng tôi chỉ là những con
sóng nhỏ tiếp nối được gió đưa đẩy từ ngoài khơi xa thăm thẳm vào
bờ. Đến khi chạm vào bãi cát, sóng gầm lên như con thú bị thương,
rồi quằn quại, rồi tàn lụn. Còn để lại gi? Họa chăng còn lại lớp
bọt biển sắp vỡ nằm lẫn lộn trong đám rong rêu.
Gia đình tôi gồm hai vợ chồng và bốn đứa con. Đứa lớn nhất đã
đến tuổi trưởng thành, đứa nhỏ nhất vị thành niên. Ban ngày nhà
vắng, mọi người đi “tẩu tán” hết. Ban đêm nếu thiếu chỗ ngủ thì
chúng dùng giường xếp, ghế đi văng. Bà con, khách khứa ở xa tới thăm,
chúng tôi vẫn khẩn khoản mời ở lại. “Chật bụng chật chi nhà”. Khách
được nhường chỗ tốt. Chủ và con cái còn có sàn nhà hoặc kẹt lắm,
ga-ra. Nhà còn có một lợi thế khác, đó là nó nằm trong một khu gần
ba xa lộ, xa lộ 5, 22, và 405, rất tiện khi cần phải lái xe đi xa.
Còn đi gần? Ngày nào cũng đi, và đi nhiều nơi. Muốn được hưởng
trợ cấp của nhà nước, mỗi ngày phải đi đến Sở Xã Hội học tiếng
Anh, học một vài kỹ năng, học cách điền đơn, học cách trả lời phỏng
vấn đơn giản v.v…, để hy vọng có thể đi xin việc làm tại các công ty.
Thường được nhắc nhở rằng thời gian hưởng trợ cấp xã hội tối đa là
tám tháng. Cả nhà lo lắng. Lỡ sau tám tháng chưa tự túc nổi? Tiền
mang theo từ quê nhà phải cộng thêm tiền mượn từ bà con, bạn bè, mới
đủ mua một chiếc xe hơi cũ dùng cho cả nhà. Tiền để dành trước kia
đều “nướng” vào những lần vượt biên thất bại. Hết trợ cấp mà chưa
kiếm được việc làm thì sẽ “cạp đất mà ăn”? Ăn đất không được, chẳng
lẽ đi ăn mày? Cho nên phải xoay xở. Ngay tháng đầu tiên sống ở Mỹ,
tất cả vợ con kể cả đứa con vị thành niên lập tức tranh thủ thì
giờ lẻ để “đi cày”. Mà muốn đi đâu cũng phải có xe. Xứ này rộng
quá, đường sá nhiều và dài quá. Tôi làm tài xế cho mọi người, ngày
và đêm. Ngoài giờ đến Sở Xã Hội, đi cắt chỉ, đơm khuy nút tại mấy
“sóp may”; cuối tuần đi dọn hàng, dẹp hàng, tại các Chợ Trời; nấu
bếp, bưng dọn tại Nhà Hàng Việt Nam. Tiền công tùy lòng tốt của
người chủ.
Ngoài ra, cả nhà đều hiểu rằng ở cái xứ này, trình độ đại học
mới là chìa khóa mở được nhiều cánh cửa lớn. Cho nên, được cha mẹ
khuyến khích, được thi đua cùng nhóm bạn bè “ham học”, được trợ cấp
hay vay mượn về tài chánh của Nhà Nước, lũ con xông xáo ghi tên vào
những Đại Học. Riêng tôi, có biết tiếng Anh và chút khả năng
hợp với công việc của Sở Xã Hội, sau mấy tháng hưởng trợ cấp, được
tuyển làm việc cho Sở. Ban đầu Chuyên Viên Tìm Việc Làm (Employment
Specialist), và khi gần về hưu, Phối Trí Viên Tài Nguyên (Resources
Coordinator). Cái tên nghe kêu, thật ra chỉ phụ trách liên lạc với các
công ty, các tổ chức thiện nguyện, các cơ quan viện trợ, xin phẩm
vật, quà tặng bằng tiền hoặc hiện vật để giúp thêm cho người tỵ
nạn đang đến học tại Sở Xã Hội nói trên.
Ngày, không còn một người trong nhà; đêm, đỡ vắng hơn. Mãi đến
khuya mọi người mới gặp nhau. Cũng chưa hẳn. Có người phải đi ngủ
sớm hơn để hôm sau rời nhà lúc trời chưa sáng. Trong bữa ăn tối, kẻ
có mặt, người vắng. Nhớ ngày cũ, bữa ăn tối là dịp cả gia đình sum
họp. Ngôi nhà nào khác một tổ chim. Sáng chim bay đi khắp nơi kiếm ăn,
đến tối quay về, con trước, con sau. Ríu rít một chốc rồi nhíp mắt
ngủ.
Chim non khôn lớn mau. Cái tổ ấm dưới hiên nhà ai đó trở nên chật
chội. Chúng lần lượt bay xa, “bay về ổ chín tầng cao”, xây
dựng cuộc đời mới.
Cuộc đời ví như dòng sông. Sông có khúc, người có lúc.
Thẳng tắp cũng có mà quanh co uốn khúc thì nhiều hơn. Dòng sông nào
nhỉ? Những dòng sông ấm áp, gần gũi, quen thuộc thuở trước, và xa
xôi, lạnh lùng, lạ lùng bây giờ. Lúc thì qua ghềnh qua thác, đau đớn
than van khóc lóc, hoặc la lối, gầm thét, điên cuồng; lúc thì im lìm
hiu quạnh, câm nín chịu đựng; lúc thì say sưa nhìn trời ca hát cùng
mây, cùng gió, cùng mưa, cùng nắng; lúc thì róc rách thủ thỉ nhắc
nhở quá khứ. Và cũng có lúc tha thiết bảo hãy bình tâm lắng nghe
đây, sông đang muốn tiết lộ một vài điều chưa hề nói cho ai biết.
Hai đứa học xong món này, bôn ba đi tìm học thêm món khác, rồi
chạy theo công việc, dọn lên miền bắc California, ở cách xa nhau, và
cách nhà chúng tôi hơn 7 tiếng lái xe. Rồi chúng nó lập gia đình, mua
nhà mới, sinh con. Ngôi nhà thiếu hai người bỗng trở nên vắng vẻ một
cách lạ lùng. Tôi bỗng cảm thấy, một cách buồn rầu, rằng giả dụ
chúng nó không đi học xa, không có việc làm xa, hay ngay cả khi chưa có
gia đình riêng, chúng nó cũng lần lượt rời bỏ ngôi nhà này. Cái nếp
sống mơ ước “ngũ đại đồng đường” hay dù là “tam đại đồng đường”của
Tàu xưa nay không có chỗ đứng trên đất nước trẻ trung và năng động
này. Thỉnh thoảng chúng nó về thăm, mang theo cháu bé, vui vẻ được
mấy hôm, rồi đi. Nhưng không vui trọn. Về thăm bố mẹ nơi căn nhà cũ mà
lòng dạ chúng nó thì nằm ở chốn mới.
Còn lại hai đứa ở với chúng tôi. Chúng nó cố gắng có mặt với
chúng tôi nhiều hơn, mỗi tối đều về nhà ăn cơm, kể chuyện trường,
chuyện bạn, chuyện học hành. Có vẻ còn vui hơn xưa, thân ái hơn xưa.
Nhưng mỗi điệu bộ trông như cái dáng chia tay, mỗi nụ cười nghe như
lời từ biệt. Chuyện phải đến, chúng học xong, có gia đình riêng, nhà
riêng. Mua nhà ở Mỹ dễ, miễn là có việc làm ổn định. Chỉ việc
đóng tiển cọc nhiều hay ít tùy hoàn cảnh, số còn lại trả góp phân
lời thấp trong 10, 15 hay 30 năm. Nhưng chúng tôi còn bám víu chút may
mắn. Nhà của chúng nó khá gần nhau và cùng tọa lạc trong một thành
phố tại Nam Ca li. Và không xa nhà chúng tôi lắm. Thăm nhau dễ. Thêm
một chút may mắn khác, thỉnh thoảng dăm ba bạn bè từ thời Trung Học
đến họp mặt với chúng tôi. Căn nhà, nhờ vậy, thỉnh thoảng có tiếng
cười.
“Ngôi nhà lý tưởng”! Nghĩ rằng nó sẽ trở thành một “hang động
kiên cố” vừa khám phá ra, và cố công xây đắp, trên đất lưu vong, thay
thế cho “tổ ấm” cũ, để từ đó có thể khai sinh ra một “môn phái võ
công mới”, một nhánh của dòng họ lớn tại quê xưa, hòng chen chân
thích cánh với “đám tứ chiếng giang hồ”, nay rã rời dần. Hai vợ
chồng già, đã nghỉ hưu, nhiều khi thấy ngày tháng thừa thãi. Một hôm
bàn bạc.
“Ông thấy sao. Hai đứa kia ở xa quá. Lâu lâu đi thăm chúng nó, hay
chúng nó về thăm. Thế là tốt rồi. Nhưng hai đứa ở gần thì khác.”
“Khác thế nào?”
“Chúng đều vừa sinh con, mình vừa có thêm cháu ngoại.”
“Cái đó anh đã biết.”
“Mình thì đã về hưu, yên phận, khỏi phải lo gì nữa. Nhưng tụi nó
còn trẻ. Tương lai của chúng nó, của con cái chúng nó, ở cái xứ xa
lạ này. Mà tụi nhóc còn nhỏ quá.”
“Đúng vậy.”
“Thì phải tính toán lại chứ.”
Sau khi bàn bạc thâu đêm, chúng tôi quyết định phải xa lìa “Ngôi Nhà
Lý Tưởng”này. Thuê một căn hộ rẻ tiền nằm giữa hai ngôi nhà của hai
đứa, cách mỗi đứa khoảng 5 phút lái xe. Để chạy qua chạy về cho
tiện. Lỡ khi “tối lửa tắt đèn”, hô lên một tiếng, có nhau. Ở gần
nhau, nương tựa nhau, nhất là về mặt tinh thần, tình cảm – chúng tôi
nghĩ thế. Tụi con, nhất là hai đứa ở xa, phản đối:
“Cuộc sống phải mỗi ngày phải một thăng tiến. Ai lại con cái thì
nhà cửa đẹp đẽ trong khi cha mẹ đã già lại đi tìm nơi tệ hơn”.
“Tụi nó nói gì mặc tụi nó. Mình cứ đi tìm thuê một căn apartment
ở tầng trên cho rẻ. Sẽ ở tạm thôi.”
“Tạm? Tại sao tạm?”, tôi hỏi.
“Sau này khi ông già yếu không lên thang gác nổi, mình kiếm nhà
trệt khác. Hoặc khi một trong hai người ra đi, người còn lại sẽ dọn
tới ở với một đứa nào đó. Nếu có gì bất tiện, sẽ dọn đến khu có
nhiều người Việt mình, cho đỡ buồn. Khu Bolsa chẳng hạn. Hay khu San
Jose cũng tốt.”
***
Hồi còn ở Việt Nam, tôi là gia trưởng, tiếng nói nặng ký. Qua đây,
trong giai đoạn đầu, vẫn thế. Rồi thay đổi dần. Tre già măng mọc, tôi
ghi nhớ câu nói dân gian đó. Nay, tôi nghĩ, nên để cho vợ, cho con, lo
liệu mọi chuyện. Mình, nếu cần, đưa ra ý kiến chứ không quyết định.
Hay chỉ quyết định những việc hết sức riêng tư. Thỉnh thoảng, cũng
may là ít khi xẩy ra, ý kiến mình bị bác bỏ. Thì có hai chọn lựa:
hoặc tuân theo đám đông, hoặc không. “Không” có nghĩa là đóng vai con sư
tử già, đứng xa nhìn bầy đàn tung tăng. Tôi liên tưởng đến một truyện
ngắn của Jack London: Một bộ lạc thổ dân ở Cực Bắc lạnh lẽo của
Địa Cầu có tục lệ hễ cha mẹ già không còn đủ sức lao động, không đi
theo nổi đoàn con cái kiếm sống, thì bị bỏ lại dọc đường với một
ít thức ăn kéo dài được dăm ba ngày, áo ấm chống rét, con dao bén,
mũi lao nhọn, dùng để chống đàn chó sói đánh hơi được trong đoàn có
người già yếu. Thế nào chúng cũng tìm đến xé xác. Lẽ cố nhiên
người già ở nước Mỹ bây giờ được đối xử nhân đạo hơn nhiều. Hơn
nữa, con cái người tỵ nạn cũng còn giữ một số nếp cũ.
“Thứ năm này dọn nhà nhé.”
“Thế sao không dọn nhà vào cuối tuần. Gọi chúng nó tới giúp một
tay?”
“Ông tính sai rồi. Tụi nó đi cày suốt tuần. Cuối tuần cần nghỉ
ngơi.”
Không lẽ tôi lại chịu thua vợ trong việc lo lắng cho con cái, nên
đồng ý ngay. Thuê một xe tải chuyên việc dọn nhà. Những “chuyên gia
dọn nhà” khiêng các đồ nặng như tủ, giường, bàn ghế, TV, dụng cụ
tập thể dục, máy hút bụi. Tôi tiếc cây cối trong cái vườn nhỏ, nhất
là cây bưởi. Để vớt vát, nhờ người dọn nhà mang theo mấy chậu hoa.
Hoa trồng xuống đất, nhiều hơn, phải bỏ lại. Định mang theo những
nhánh mồng tơi và mơ, nhưng chẳng lẽ cho nó leo lên lan can của bao lơn?
Vợ thì gom góp nhiều món lỉnh kỉnh nào nồi niêu son chảo, nào gương
lược kim chỉ, nào tiêu, muối, nước mắm, xì dầu, nào mấy con búp bê
kỷ niệm của ấu thơ. Cô ta, phải gọi là bà ta, lên xuống thang
lầu nhiều chuyến.
Còn tôi làm gì? Không lường được sức khỏe, khiêng sách vở đã đóng
thùng, nặng lắm, từ xe tải lên tầng lầu. Cũng phải đi nhiều chuyến.
Cuối cùng trật xương sống. Thuốc men chạy chữa đủ thứ, đông y, tây y,
châm cứu, thể dục, khí công, nhân điện – không lành. Đâm hoảng.
Nghe ai mách nước, chỉ bảo gì, làm theo ngay. Nào đậu đen xanh lòng
hầm với giò heo, nào trái đười ươi, nghệ, nấm linh chi, đông trùng hạ
thảo … Vẫn đau. Đau càng ngày càng tăng, nhất là ban đêm. Như người
tàn phế, đi đâu phải chống gậy rồi xe lăn. Chịu đau khổ như thế này
cho đến cuối đời thì có nên sống thêm không? Mà cuối đời là lúc
nào? Ngày hôm sau, hay tháng sau, hay năm sau, hay lâu hơn? Liều đi mổ dù
có bác sĩ khuyên không nên làm thế, già rồi mà. Tự trấn an, đời
người có số; một sống, hai chết. Cuối cùng, sống. Nhưng không hoàn
toàn bình phục. May còn có thể lái xe, còn có thể đi bộ những
quãng đường ngắn. Đi xa, hoặc đường dốc, phải có gậy. Vợ thì còn
lái xe nhanh nhẹn, an toàn.
“Gác trọ” của chúng tôi ở khu người Mỹ nghèo, không có người châu
Á, nằm trên lầu hai. Tôi đi lên, đi xuống thang lầu phải cẩn thận, tay
luôn luôn nhớ nắm vào lan can. Được bạn bè, vợ con dặn đừng vô ý để
té. Tuổi đã lớn, ngã xuống có khi không bao giờ đứng dậy được nữa.
Nhiều lần tìm quanh vùng gần đấy xem nơi nào có tầng trệt cho thuê.
Nhưng nghĩ đến chuyện dọn nhà, thấy ngại quá. Rồi quen dần, chân
mạnh dần. Cầu thang không còn là chướng ngại vật, mà còn có thể
được dùng làm dụng cụ tập thể dục.
Ngoài ra, vài ba niềm vui nhỏ bên cạnh niềm vui lớn hơn, là ở gần
con cháu. Mở cửa sổ và cửa lớn, gió từ biển thổi vào mát rười
rượi vào mùa hè. Mùa Đông lạnh thì chỉ mở cửa trong vài mươi phút
rồi đóng kín. Từ bao lơn nhìn quanh thấy được nhiều. Ban ngày, những
mái nhà ngói đỏ, ngói nâu, bằng phẳng, hoặc như chữ V úp ngược, dọc
ngang, nhịp ngàng, đẹp đẽ. Bên kia đường, một công viên khá lớn, có
cầu tuột, xích đu, tụi nhóc sắp lớn lên sẽ có chỗ chơi. Ban đêm,
những cửa sổ tuôn ánh sáng. Thử quan sát một cửa sổ gần, thấy được
một chút sinh hoạt của người bản xứ. Chẳng hạn người đàn bà Mỹ
cũng biết làm bếp, nấu ăn, lui cui dọn món ăn lên bàn. Ăn xong, người
đàn ông dọn dẹp dĩa, tô, nỉa, muỗng, lau bàn, rửa chén. Họ chia công
việc cho nhau, khác với ta ngày cũ, đàn ông mình sướng hơn nhiều. Sau
một thời gian, cạnh cửa sổ ấy thấy toàn là đồ chơi con nít, khủng
long, người nhện, sư tử, súng ống, xe tăng, máy bay. Tôi đoán lại
người thuê mới, có con hay cháu còn bé. Lại sau một thời gian nữa,
vài ba cây đàn thấp thoáng sau tấm rèm mỏng. Nếu có người ở lâu hơn
nhìn mình quan sát lại, tôi thầm nghĩ, họ sẽ ngạc nhiên chẳng thấy
có gì khác lạ từ năm này đến năm khác. Nhìn xa hơn nữa, dăm cây thông
loại đứng thẳng hình chóp theo năm tháng vượt lên cao bỏ xa dần những
mái nhà nằm bên dưới.
Trong khi đó, láng giềng gần và kể cả chúng tôi sống trong bốn căn
hộ của một lầu chung cư. Cũng rất đa dạng. Có người vui vẻ, chia với
chúng tôi trái chanh, trái cam, khoe cây bơ sắp có trái, mời chúng tôi
vào nhà chơi ở tầng trệt, và bảo, Đây là Vườn Địa Đàng bé nhỏ của
tôi đấy nhé. Có người lâu lâu mới gặp mặt, chỉ “Hi”một tiếng rồi
vội vàng đi. Có một người đàn ông sống một mình, ở sát cạnh, đau
ốm lâu ngày, khó tính, cãi vã với tôi mấy lần, từng nói nặng lời,
Cái gã này tự nhiên từ đâu ló mặt tới đây làm rộn. Kỳ thị hả? Có
lẽ người bệnh này thường gây sự với người thuê nhà trước tôi, cho nên
khi chúng tôi mới dọn nhà đến, chủ nhà cẩn thận bảo nếu có gì lôi
thôi giữa người bệnh ấy và tôi thì nhớ gọi Cảnh Sát, đừng gọi anh
ta. Người bệnh sau đó vào bệnh viện vài hôm rồi qua đời.
Trừ cô tóc vàng luống tuổi ở “Vườn Địa Đàng” đã lâu trước khi
chúng tôi đến, những láng giềng khác, cứ năm bảy tháng hay một vài
năm, dọn nhà đi. Chỉ trong khoảng một vài tuần lễ đã có người thuê
mới, lại láng giềng mới. Nhiều láng giềng mới quá, hết đợt này,
đến đợt khác. Có khi chưa được biết tên nhau, họ đã dọn đi nơi khác.
Để cô tóc vàng và chúng tôi ở đây “trấn thủ lưu đồn” mãi chăng? Có
khi tôi giật mình, mới đó mà gần bảy năm ở nơi này, nơi mà tôi sống
khá lặng lẽ, yên ổn, yên thân; nơi mà chúng tôi được ở gần gia đình
hai đứa con. Thì cứ bắt chước cô hàng xóm gọi nơi cô ở là “Vườn Địa
Đàng”, tôi gọi nơi chúng tôi ở là “Căn Gác Lý Tưởng”. Dù không có cây
phong, bụi trúc, khóm hồng; không còn cây bưởi trong khu vườn nhỏ với
những loại rau thơm, rau mùi, rau xanh. Dù bị “xuống cấp” khá nhiều so
với “Ngôi Nhà Lý Tưởng” cũ.
***
Mùa đông đến. Mới hơn 9 giờ tối mà đã như khuya.
Hôm đó vợ giận — hai vợ chồng đã già vẫn chưa “ngộ”, thỉnh thoảng
lời qua tiếng lại dai dẳng – từ sáng sớm bỏ đi thăm con cái, cháu nội,
cháu ngoại trên Bắc Cali. Tôi bảo chúng nó vừa xuống thăm nhân lễ
Phục Sinh đó mà. Mặc, cứ đi. Một mình tôi ở nhà. Cơm nước khỏi lo.
Siêng thì chạy ra ngoài mấy ngã tư có nhiều món ăn khác nhau, hoặc
các món ăn nhanh (fast food). Siêng hơn nữa, lái xe xuống phố Bolsa, hơi
xa, có rất nhiều nhà hàng Việt Nam, đủ các món ăn Việt Nam, Bắc,
Trung, Nam. Lười thì cơm nguội cá kho, muối mè, ốc miêu (oatmeal), khoai
luộc, bắp luộc, hoặc bánh mì trét bơ đậu phụng. Món ăn cuối này
nghe nói có lợi cho người có tuổi lượng đường trong máu cao. Hoặc
nhịn đói càng tốt, lâu lâu một lần, rất hợp vệ sinh dinh dưỡng. Buồn
thì mở nhạc ra nghe, giở vài ba trang sách, coi TV, mở Internet. Vui
thì tìm gặp bạn bè đấu láo. Thời gian qua mau.
Hồi chiều ham coi trận đá banh trên TV, không đi bộ sớm như mọi ngày
được. Mà bác sĩ bảo phải đi bộ thật đều đặn mới giữ gìn được sức
khỏe. Bỏ vài lần đi bộ coi như bỏ hết “công phu” luyện tập kể từ sau
khi mổ. Bác sĩ này có lẽ cường điệu, nhưng cũng khiến mình chịu
khó đi bộ hơn. Tôi tự nhủ, đã trễ cũng phải đi.
Khu chúng tôi ở khá vắng vẻ. Gác trọ vợ chồng tôi thuê thuộc loại
rẻ tiền trong một thị trấn sang trọng. Vợ từng nói: “Nghèo ở khu
giàu hơn giàu ở khu nghèo.” Tôi từng phản pháo: “Nhưng làm đầu con gà
hơn làm đuôi con công.” Nói cho vui miệng thế thôi. Như đã nói trên,
tiếng nói của tôi nhẹ ký rồi. Hai nhà của hai đứa con nằm tại hai
nơi khác nhau, càng vắng vẻ hơn, cũng càng đẹp đẽ hơn. Tại nước Mỹ
này, nhà càng có giá càng ở khu vắng người. Có những ngôi biệt thự
nằm trơ trọi trên đỉnh đồi, hoặc chênh vênh trên sườn núi.
Coi xong trận banh, mặc thêm áo len, mang giày ấm, đội nón ấm, ra
đi. Đã khuya, đêm mùa Đông lạnh buốt. Đi đâu? Ban ngày tôi có bốn, năm
lộ trình đi bộ quen thuộc. Khi mệt biết dừng lại chỗ nào có ghế
dài công cộng, có tường thấp ngồi ghé tạm, hoặc có trạm chờ xe
buýt. Khi ngồi tại ghế chờ xe buýt, phải cẩn thận. Thấy xe từ xa
chạy tới, phải vội vàng đứng dậy đi lãng nơi khác, bằng không xe
buýt sẽ dừng lại, mình phải giải thích lôi thôi. Xe cộ chạy trên
đường liên tục, không nên ngồi trên lề đường nghỉ chân.
Đó là kinh nghiệm đi bộ ban ngày. Nhưng ban đêm? Đi đường nào bây
giờ? Tôi phân vân trong một phút rồi chợt nhớ. Tôi có đọc trong một
tiểu thuyết hay xem một cuốn phim nào đó. Một trang thanh niên anh tuấn
mình mẩy máu me ngồi trên lưng một con ngựa cũng mang đầy thương tích.
Là vì chàng khinh địch, lọt vào một ổ phục kích. Binh sĩ dưới tay
đều bị giết sạch, một mình chàng tả xung hữu đột, thoát khỏi vòng
vây. Buồn bã, tay buông thõng dây cương, để mặc con ngựa muốn đưa đi đâu
thì đưa. Nghe cũng lãng mạn đấy chứ. Tôi đi bộ, không có ngựa mà
cưỡi. Một ý nghĩ buồn cười, thì mình là con ngựa của mình vậy. Nó
muốn đưa mình đi đâu tùy nó. Trên đường không gặp một người đi bộ nào
cả. Thỉnh thoảng một chiếc xe hơi lướt qua nhanh. Đèn đường soi sáng,
lạnh lẽo.
Quanh quẩn thế nào bước chân lại vô tình kéo tôi đến khu nhà của
một trong hai đứa con gái. Ban ngày, khu này trông khang trang, yên bình,
êm ả. Ban đêm, dù có đèn đường, nhưng những lối rẽ, những lùm cây,
những bụi hoa, những góc tường, những cổng nhà đóng kín vẫn chất
chứa những bí ẩn nào đó. Óc tưởng tượng khiến tôi nghĩ ra thế. Nó
khiến bước đi của tôi chậm lại, nhẹ hơn, có một chút dè dặt, một
chút cảnh giác. Tôi nghe được tiếng gió luồn qua những hàng rào,
những lùm cây, hay chạy dài trên mặt đường nhựa loang loáng ánh đèn.
Nghe cả tiếng giày của tôi giẫm trên vỉa hè, và tiếng hơi thở âm
thầm trong lòng. Và những mái nhà trông như lùi xa sau những bức
tường cao. Đi bộ như đêm nay khá xa đấy nhé, tôi tự bảo. Cũng may, đến
nhà đứa con lúc nào không hay.
Tần ngần đứng trên lề đường trước nhà. Nhìn vào. Ngọn đèn cao bên
ngoài cánh cửa lớn ra vào tỏa ánh sáng dịu lên cây đại hoa tím, cây
phong Nhật Bản, những bụi hoa hồng, và mấy ngọn lá xoè ra như rẽ
quạt của những cây gồi đứng thành hai hàng. Chiếc màn của cánh cửa
kính lớn đã kéo kín, mùa đông mà, nhưng vài ngọn đèn trong nhà còn
sáng. Có nên bấm chuông? Hay gõ cửa? Chúng nó sẽ kinh ngạc tự hỏi
giờ này còn có kẻ nào muốn tới “lộn xộn”? Hay gọi chúng nó bằng cell
phone, đỡ gây ngạc nhiên hơn? Có thể chúng nó đã đi ngủ. Nghĩ
lại, dù chúng nó còn thức, vào mình sẽ nói gì? Bố tới thăm? Bố
ghé vào uống miếng nước cho ấm bụng, trời lạnh lắm? Bố nhớ thằng
nhóc quá? Nghe không đâu vào đâu! Đi lui, rồi đi tới, trên vỉa hè.
Đầu óc lan man gặp lại quá khứ. Những ngày cũ, những sung sướng
ngắn ngủi và tù đày gian khổ. Và nhiều hình ảnh hiện lên lẫn lộn.
Cảm thấy thương lũ con hơn bao giờ hết. Cha mẹ đi, chúng đi; cha mẹ ở,
chúng ở. Không ý kiến, không tự do chọn lựa. Bỗng dưng phải bỏ láng
giềng, bạn bè, trường, lớp. Bỏ tuổi thơ vui chơi hồn nhiên trong thành
phố thân quen. Bỏ cả nước. Để tới nơi xa xôi và lạ lùng này. Để
phải toan tính đủ thứ. Đứa con nhỏ nhất có lần tâm sự với mẹ nó:
“Ở bên nhà khổ nhưng mình không biết đấy là khổ, không biết lo lắng
là gì, khoẻ ru, mọi chuyện đều đã có bố mẹ gánh vác. Qua đây tự
nhiên thấy khác hẳn dù bố mẹ và anh chị không hề nhắc nhở tới
chuyện bổn phận, trách nhiệm, của từng người.” Để trong một tương lai
không xa, một biến cố vô cùng quan trọng sẽ xẩy ra cho đời chúng nó –
trở thành công dân một nước khác. Đối với vợ chồng chúng tôi, dĩ
nhiên ra đi là chọn lựa đúng. Nhưng đối với chúng nó? Dù sao đi nữa,
tương lai của chúng chắc chắn tốt đẹp hơn, nhất là thoát ly khỏi nạn
cộng sản độc tài tuy chúng chưa biết rõ cộng sản là gì. Và cũng
may, bạn bè từ thuở nhỏ, và từ thời trung học của chúng nó lần
lượt qua đây khá đông. Dường như đông hơn cả bạn bè còn ở lại nơi quê
nhà.
Tôi lại quay nhìn sâu vào nhà, như kẻ trộm lấp ló rình mò. Một
bóng người di chuyển mờ mờ sau bức màn mỏng. Con gái? Hay thằng rể?
Ngọn đèn cao bên ngoài cửa lớn vẫn chiếu sáng, nhưng đèn trong nhà
bỗng tắt. Thế là chúng đi ngủ. Nhìn đồng hồ, gần 10 giờ. Đi ngủ
sớm vậy sao? Sực nhớ mùa Đông mới 5 giờ chiều trời đã tối. Mỏi
chân, ngồi xuống lề đường, quay lưng vào nhà. Cái lạnh thấu xương ùa
tới. Tự trách không mang theo đủ áo ấm. Khi đi đỡ lạnh hơn, chạy càng
ấm người, nhưng hết chạy được rồi. Kéo mạnh chiếc nón xuống, hai tay
ôm vào ngực, hai chân duỗi thẳng cho đỡ mỏi. Một xe hơi từ xa chạy
đến, đèn chớp chớp, vội co chân lại. Loáng một cái, chiếc xe mất
hút sau ngã ba. Rồi tiếng chó sủa ồm ồm từ nhà láng giềng bên
trái. Nó sủa mình? Mặc kệ. Rồi tiếng chó khác gầm gừ càng lúc
càng lớn từ nhà bên phải. Đứng dậy vậy. Choáng váng, lảo đảo một
hồi. Nhắm mắt lại thật lâu, lấy thăng bằng. Rồi bước đi chầm chậm.
Đi đã khá xa mà tiếng chó sủa còn chạy theo xua đuổi dai dẳng, nhưng
rồi cũng nhỏ dần, nhỏ dần, rời rạc, uể oải, trước khi “câm mồm”.
Trên đường về, phải đi qua một quãng đường khá dài, lề đường khá
hẹp. Một xe hơi từ phía sau lưng chạy như lao vào mình, đèn pha quét
nhanh. Đêm khuya chạy ẩu, tên say rượu nào đây? Chợt nhớ những buổi
tối Sài Gòn, sau cơn nhậu nhẹt với bạn bè, mùi bia nồng
hơi thở, có lần lái xe chạy lạc vào một xóm đêm. Đường hẹp, không
có đèn đường, không có lối đi thông, ánh đèn tù mù lọt ra từ những
căn nhà lụp xụp. Quay lui khó khăn, suýt ủi vào một đứa bé trần truồng
chạy theo xe đùa giỡn.
Lại không lượng sức. Hay đúng hơn, quên. Đã bắt đầu quên những
chuyện lặt vặt mà rất cần thiết cho sức khoẻ đang có vấn đề. Hay
là cái quên cái nhớ? Là đi bộ một chiều qua nhà chúng nó thì khỏi
cần gậy. Nhưng đi “khứ hồi” lại là chuyện khác. Nhớ lời nói nửa
đùa nửa thật của vài thằng bạn: Ở tuổi mình chỉ nên đi một chiều,
không nên khứ hồi. Nhất là khi mua vé máy bay hay xe lửa tàu suốt. Đi
được một quãng, phải đứng lại, ngồi xuống, nghỉ chân. Phủi bụi,
sỏi, đá, ngồi trệt xuống đất, sâu trên vỉa hè vắng, cho an toàn.
Nhìn xe cộ chốc chốc chạy qua. Nó chạy biến, nhanh lạ lùng. Ban
ngày, những khi ngồi trên xe, thấy những xe khác cứ đủng đa, đủng
đỉnh.
Vậy mà gần bảy năm kể từ ngày vợ chồng chúng tôi dọn tới căn
nhà này! Và sẽ ở đây trong bao lâu nữa?
Thời gian tại Mỹ bay vùn vụt, ai cũng cho là thế. Ai ở đây có
nghĩa là những người tỵ nạn, những người sống lưu vong, như chúng
tôi. Đối với người bản địa, có lẽ họ nghĩ khác. Mới chớp mắt
đã gặp lại Tết Tây, Tết Ta. Rồi Lễ Phục Sinh, Ngày Tình Yêu, Ngày
Tổng Thống, Ngày Quốc Hận của ta, Ngày Mẹ, Ngày Cha … Sắp đến ngày
lễ Độc Lập Hoa Kỳ. Một người than tui gần bảy mươi tuổi mà đã sống
tại nơi này hơn 40 năm, chưa làm được cái trò gì cho ra hồn. Người
khác than tôi đã trên tám mươi, càng tệ hơn, nhìn lại hai bàn tay,
trống không. Thời gian ở đây nhanh gấp năm, gấp mười lần ở quê nhà.
Tại sao?
Tại vì làm lại cuộc đời mới nơi đất mới quá trễ. Ngơ ngác, bỡ
ngỡ, hụt hẫng. Không tích lũy được gì. Thời gian trôi nhanh như cát
vuột qua những kẽ ngón tay xương xầu. Tại vì có nhiều chuyện xẩy ra
quá, khó bề xoay xở, chưa kịp định hình cái này thì cái khác đã
xuất hiện. Tại vì đất nước này rộng bao la, khiến thời gian chạy
theo muốn hụt hơi. Thăm một thằng bạn ở cùng một quận hạt có khi
mất hết cả ngày. Buổi sáng cùng vợ ghé chợ mua thêm một ít trái
cây, về tới nhà thấy mất hết nửa ngày. Ăn trưa vội, mở TV xem thử
có tin tức gì lạ hay không, đọc và xoá bỏ hàng trăm email
trên internet, chợp mắt một chút, mở mắt ra, chiều đã tà.
Nhớ khi còn ở quê hương, sáng chủ nhật cà phê cà pháo với bạn bè,
chuyện trò kéo dài trên góc phố. Trên đường về nhà la cà ghé tiệm
bán sách xem có cuốn sách nào mới, rồi đến sạp báo ở đầu đường
mua tờ nhật báo, xem hết các dòng tít lớn, các dòng tít nhỏ. Nhìn
lại đồng hồ, mới 9 giờ sáng.
Nhưng thời gian là cái gì mà kỳ cục vậy? Có cái mà người ta gọi
là thời gian hay không? Thử tưởng tượng hai người tù cấm cố bị nhốt
rất lâu trong hai ngục tối khác nhau, rồi được thả ra cho thấy ánh
sáng cùng một lúc. Hỏi bị nhốt trong bao lâu, chắc chắn họ không trả
lời được. Một người có thể phỏng đoán bị nhốt trong một năm, người
kia lại bảo mười năm, hai mươi năm. Hay cả ngàn năm. “Nhất nhật tại tù
thiên thu tại ngoại”. Và ngày , giờ, tháng, năm là gì? Đấy chẳng qua
là sáng chế của con người nhằm ghi nhận thứ tự xẩy ra của mọi biến
cố. Cái nào trước, cái nào sau. Nhưng nếu không nhìn đến tờ lịch,
cái thứ tự đó dễ bị đảo lộn, nhiều biến cố bị quên lãng, hoặc bị
trùng lẫn. Quá khứ và hiện tại xáo trộn.Tôi ở trong căn nhà này
gần bảy năm mà tưởng như mới hôm qua. Lục lại trong ký ức, nhớ và
quên, thường là không biết chuyện nào xẩy ra trước, chuyện nào xẩy ra
sau. Có khi không biết vì cớ gì nó xẩy ra như thế. Chỉ có điều biết
chắc là khi nhìn lại bản thân, thấy tuổi xanh đã ra đi, tóc bạc đã
tìm đến.
Vợ chồng già xa lìa “ngôi nhà lý tưởng” cũ, dọn đến đây để ở
gần chúng nó, để phụ giúp một phần nào trong việc săn sóc mấy cháu
bé. Đối với hai cháu còn quá nhỏ, mỗi tuần chúng tôi trông coi hai
ngày vào giờ cha mẹ chúng đi làm. Không nhọc nhằn và cũng đỡ nhớ
chúng. Mỗi lần các cháu được bố hay mẹ mang tới, chúng tôi cảm thấy
mát cả dạ. Những ngày khác các cháu ở với cha mẹ, hoặc ở với Nhà
Giữ Trẻ. Đối với các cháu lớn hơn, chúng tôi đưa đón – việc này vợ
tôi đóng vai chính — đi học tại trường học gần nhà, hoặc đi học đàn,
học bơi, đá banh, múa, vân vân, khi cha mẹ cháu bận việc đột ngột,
hoặc khi có tiệc tùng, đám cưới, họp mặt, xem phim, … Cũng đỡ cho
chúng một tay, và cũng để cho chúng có chỗ nương tựa về mặt tinh
thần, tình cảm. Đấy là chúng tôi nghĩ ra như thế. Đó bề mặt.
Còn ngấm ngầm trong sâu xa? Trước kia, cha mẹ đi đâu, con cái đi theo.
Nay tình thế xoay chiều, chúng tôi “lẽo đẽo theo chân.” Chúng tôi cần
chúng nó hơn. Chúng tôi biết thế, và chúng nó cũng biết thế, nhưng
không ai nói ra. Như đêm nay chẳng hạn, nhờ ở gần chúng nó, tôi “vô
tình” có chỗ tìm đến, tuy khuya khoắc không tiện vào nhà. Như nhiều
lần khác chúng tôi được chúng nó mời đi đây đó. Tôi được biết một
trong hai thằng rể, ở gần chúng tôi, rất thích thể thao và du lịch.
Lúc còn đang đi học, nó đã cố gắng làm việc thêm dành giụm tiền để
đi Nhật, vừa có dịp thăm Xứ Anh Đào vừa được coi trận chung kết đá
banh thế giới năm 2002 do Nhật và Nam Hàn cùng tổ chức. Cho nên mỗi
cuối tuần dài – có ngày nghỉ lễ bắc cầu — thường là một chuyến du
lịch gần ra ngoài quận hạt; mỗi kỳ nghỉ phép thường niên thường là
một chuyến du lịch xa, ngoài tiểu bang. Dường như cũng vì chúng tôi,
chúng nó đi du lịch nhiều hơn. Những đứa con ở xa lại có cách mời
gọi khác. Chúng nó tổ chức họp mặt hàng năm cho toàn thể ông bà con
cháu tại một nơi xa xôi nào đó. Mọi người ở những nơi khác nhau lục
tục kéo đến, rồi lục tục chia tay.
Nhiều lúc tôi băn khoăn. Vợ tôi cũng thế, tuy cố giữ im lặng. Cô ta,
tôi quen miệng gọi, phải nói là bà ta mới đúng, ai cũng già cả rồi
mà, thường không giấu được nỗi lo âu về vấn đề nơi ăn, chốn ở. Vâng,
các con chúng tôi còn trẻ quá. Việc làm của chúng nó có thể bị
thay đổi hoặc chấm dứt, hoặc bị di chuyển đột ngột đến một nơi nào
đó trên đất nước Mỹ mênh mông này. Tình cảnh bất ổn như thế đấy vẫn
xẩy ra thường xuyên, hàng tháng, hàng năm, cho nhiều người. Thì chúng nó
có thể sẽ phải dọn nhà chạy theo việc làm. Lúc ấy chúng tôi sẽ
tính sao đây? Chúng tôi lại phải rời bỏ căn gác nhỏ này để đi theo
“giúp đỡ” chúng nó? Lại phải đi tìm một căn gác nhỏ muộn màng ở
tầng hai, hay tầng ba cũng được, với ước mong nó nằm gần nhà chúng
nó? Mà có tìm thấy được hay không ở một chốn xa lạ nào khác nữa?
Bỗng dưng một cơn giận tràn tới như nước vỡ bờ. Rồi âm ỉ mãi
trong lòng. Thật lẩm cẩm, lố bịch, ngu ngốc! Bị đánh bật khỏi gốc
rễ. Bị tuổi tác xói mòn. Đừng nên mong một cuộc sống sum họp quây
quần. Đừng nên mơ một Ngôi Nhà Lý Tưởng./
Ngự Thuyết
7/ 2017
[1] Tản Đà dịch:
Trăng tà, tiếng quạ kêu sương,
Lửa chài, cây bến, sầu vương giấc hồ.
Thuyền ai đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.
Thật tài tình, nhịp nhàng, du dương theo thể thơ lục bát êm ái.
Chữ nghĩa quấn quýt nhau. Trong câu 1, kêu gọi; câu 2, vương vấn; câu 3,
hỏi han; câu 4, lắng nghe. Tuy nhiên, Thơ Đường, nói chung, có nhiều
không gian, khoảng trống, thường để cho cái lạnh lẽo, cứng cỏi len
vào từng câu, từng chữ. Trong nguyên tác bài này chẳng hạn, câu 1 chỉ
ba động tác rời rạc; câu 2, chữ “đối” nói lên tính cách thách thức;
câu 3, hai địa danh riêng rẻ. Chỉ trong 4 với chữ “đáo” tuy có diễn tả
sự nối kết nhưng đơn độc.