Phải hỏi thăm đôi ba lần, ký giả Mai Vy mới tìm ra nhà của độc
giả Hoàng Mai Thanh.
Vừa đặt chân tới
đây, cô ký giả bất ngờ nhận ra, ven ngoại ô thành phố bụi bặm nhốn nháo này vẫn
còn một góc đất thanh tịnh. Ngôi nhà trệt già nua, ngói đỏ, phủ rêu lốm đốm. Thấp
thoáng sau lùm bụi, ao nước lung linh bông súng tím. Tàn trứng cá bên hiên nhà
rớt bóng nắng xuống vuông sân lót gạch nung, nhấp nháy. Mảnh vườn trồng nhiều
cây cảnh cắt tỉa tươm tất. Lẩn khuất đâu đó bật lên tiếng chim trốn nắng, thảng
thốt từng chặp, nghe như trách cứ.
Mai Vy tắt máy, đảo
mắt quanh quất. Cửa ngoài bỏ ngỏ, không chuông bấm. Cửa nhà khép kín, màn cửa sổ
chấn song sắt kéo kín. Trưa muộn tháng mười một, nắng rót chan hoà. Không một
bóng người. Dưng không, niềm tự tin nghề nghiệp trong cô tan biến. Những háo hức
ban đầu, khi cô được ông chủ nhiệm giao trách nhiệm tới đây phỏng vấn chứng
nhân cuối cùng về một nhân vật tiểu thuyết gây nhiều tăm tiếng một thời, chợt
tan biến. Tâm tư cô dấy lên chút cảm xúc, như thể phân vân, như thể hoài nghi
khả năng chính mình.
Sự việc bắt đầu từ
mẩu tin thông báo chủ đề tháng giêng sắp tới của nguyệt san Tân Văn: »Bảy
khuôn mặt văn chương hiện sinh của thập niên một chín sáu mươi«, nhằm mục
đích tiếp thị một số tựa sách văn học miền Nam trước một chín bảy lăm sẽ được
phép tái bản vào tháng hai, vài tuần trước nguyên đán. Trong số đó, độc nhất một
khuôn mặt nữ. Cái tên lạ. Tựa truyện nghe tầm thường như tiểu thuyết diễm tình
trong tuần báo phụ nữ, vậy mà nghe nói đã một thời gây chấn động trong thị trường
chữ nghĩa.
»Mẹ đọc quyển
sách này bao giờ chưa?« Mai Vy giơ quyển sách trước mặt mẹ.
Người mẹ nhíu mắt
nhìn, nhoẻn cười:
“Rồi, lúc mười bảy,
mười tám tuổi gì đó, mẹ không nhớ.“
Mẹ thấy sao?«
»Thuở ấy mẹ thích
lắm, đọc đi đọc lại mấy lần. Bây giờ, có lẽ không còn thích hợp với tuổi của mẹ
nữa.«
»Con nghĩ, chắc
cũng không còn thích hợp với thời đại vi tính hiện nay.«
Cô lầm. Ngay sau
những trang chữ đầu tiên, ma lực văn phong của tác giả đã mê hoặc, cuốn hút cô
vào hành trình ngược về quá khứ của một Sài gòn phóng đãng, và một Đà lạt đẫm
sương những hoàng hôn. Một chín sáu mươi, mười lăm năm văn học mãn khai rực rỡ
trước khi lụn tắt vì thảm hoạ chiến tranh. Một chặng thời gian và những công
trình sáng tạo đã bị những kẻ mê sảng chủ nghĩa rúng rẩy và cố tình trù dập.
»… Mỗi tình
yêu là một bông hoa đã úa tàn. Mỗi ngày vui là một chiếc lá vàng rơi rụng. Vì
Trâm đã chán ngán, đã mệt mỏi, đã lìa xa một nửa con đường lang bạt đó. Đã bỏ
cái thành phố hai mặt sống và chết, mê và chán, xấu và tốt đó. Nàng bỏ đi như một
từ khước. Và như một lẩn trốn. Từ khước những thú vui buông thả đưa tới lỡ lầm
cay đắng, đưa tới trống không dằng dặc tủi hờn. Lẩn trốn những đòi hỏi xôn xao
của chính mình, của một bản chất sôi nổi thèm sống, thèm yêu đến tột cùng, đến
vô bờ vô bến.
Trâm bắt qua một
nhịp đời khác không tìm chuyển tiếp. Đà lạt như một nơi ngơi nghỉ vùi chôn đời
đời. Cuộc sống đang sôi trào bỗng dưng lắng đọng lại như những thước không gian
câm nín dày đặc sương mù…« [1]
Sau khi mẩu tin
được loan báo, toà soạn nhận được một vi thư ký tên Hoàng Mai Thanh, tiết lộ
ông là bạn chí thân của nhân vật nam chính, và sẵn lòng giải đáp những ẩn số
liên quan tới tác giả và quyển sách.
Mai Vy còn chần
chờ, chợt nghe giọng ai nhỏ nhẹ cất lên sau lưng:
»Chị tìm ai?«
Mai Vy quay nhìn.
Cô gái độ ngoài hai mươi, vận bà ba trắng, quần đen, mang dép nhựa, tay xách
túi ny-lông lấp ló bó cải xanh, có khuôn mặt ưa nhìn, tia nhìn thân thiện.
»Chị tìm nhà ông
Hoàng Mai Thanh, em à!«
»Chị đang đứng
trước nhà ổng đây. Nhà không gắn chuông, khách tới cứ tự tiện vô trong gõ cửa.
Dạ, chị tới có chuyện chi?«, cô gái dọ dẫm.
»Chị là Mai Vy,
phóng viên nguyệt san Tân Văn, có hẹn với ông Thanh bữa nay.«
»Còn em là cháu của
ông Thanh, gọi ổng là ông cậu. Mời chị vào! Có lẽ ông em đang ngủ trưa. Ổng có
tật ưa quên chuyện gần, còn mấy chuyện xưa lại nhớ vanh vách. Ngộ hết sức!«, cô
gái liến thoắng, rồi bật cười khúc khích.
Cô gái đưa Mai Vy
vào nhà, mời ngồi, bảo chờ chốc lát, cô vào trong gọi ông cậu. Phòng khách kín
màn cửa sổ, nhờ nhờ mảnh sáng cửa chính mở toang. Gian phòng bày biện giản dị.
Bộ sa-lông bọc vải hoa đã nhạt màu. Một bàn sa-lông gỗ thấp. Một bàn ăn hai ghế.
Một máy truyền hình nhỏ. Một tủ kính hai cánh chưng vài món cổ ngoạn, chén dĩa
tráng men, vài ly pha lê cao cổ và khoảng chục gáy sách bìa cứng. Vách đóng hai
kệ gỗ, bên trên thờ Phật, bên dưới dựng di ảnh người đàn bà, nhang đèn hoa trái
còn tươi mới. Bất chợt Mai Vy cảm thấy rạo rực, nhen nhúm chút bất an. Tầm mắt
cô tần ngần dừng bên bức chân dung. Ngọn nến điện soi yếu gương mặt người quá
vãng. Một diện mạo sắc nét, trông như vẽ. Nhưng, không hiểu vì lý do nào, hai
vòm mắt loé sáng rình rập, khe khắt. Và lạ lùng hơn nữa, Mai Vy có cảm tưởng
như tia nhìn người trong ảnh biết động đậy, xoi bói từng cử chỉ của người khách
lạ.
Cô gái rùng mình,
quay mặt ra hướng cửa. Bóng mát tàn trứng cá rụng xuống hiên nhà, chập chờn đốm
nắng, tuồng như run rẩy. Cô an tâm khi nghe tiếng động cơ và giọng người rao
hàng ngoài ngõ vọng vào. Lại khua vẳng tiếng chim lẻ bạn đây đó trong vòm lá.
»Một tiếng
chim hót lên đầu cành thông gần mái nhà. Trâm nhìn ra. Vòm trời xanh mênh mông
in hình nét đồi cong thoai thoải, sáng rực nắng chiều. Một đám mây trắng sắp sửa
nhô lên sau ngọn đồi thấp nhất. Hình ảnh của những buổi chiều yên tĩnh, cuộc đời
cô quạnh, buồn lãng mạn và nên thơ thoáng qua trong trí Trâm. Nàng chợt vừa sợ
vừa thích nỗi cô đơn hiện tại…
Trâm đứng lên
mở rộng cánh cửa kính. Mùi thơm quen thuộc của cỏ khô và đất mới xới, lẫn với
mùi dâu chín dưới thung lũng thoảng theo gió bay lên làm Trâm tự nhiên ấm áp
trong lòng, tưởng như đang đời đời yên ổn sống trên đất quê hương…
Trâm rót trà
ra chén cho Lưu rồi ngồi chống tay vào cắm nhìn ra khung cửa. Bóng chiều xuống
vội. Sương mù che kín thung lũng bên kia. Dãy đồi chỉ còn là một nét mờ sắp lẫn
vào bầu trời trắng đục… Thấy Trâm viết lách, mê văn chương, sống khác thường, vạch
lối riêng để một mình tiến tới, Lưu khuyên, đàn bà muốn được hạnh phúc thật phải
là đàn bà. Lẽ tất nhiên mỗi người quan niệm về hạnh phúc một cách. Nhưng cách duy
nhất vẫn là có một gia đình đầm ấm, chồng con đàng hoàng và giữ những mối thân
yêu đó mãi mãi. Cũng có người tìm thấy hạnh phúc ở những chuyện phi thường, muốn
thoát ra lề lối cố định, nhưng những người đàn bà đó không hẳn là đàn bà nữa.
Mà họ có sung sướng đâu. Đau khổ, có lẽ tại họ thích hưởng thú đau thương như vậy
hơn là hạnh phúc bình thường. Với người khác, có lẽ tán dương và khuyến khích
khi thấy chị viết lách. Tôi thì không, tôi mong chị chán bỏ con đường đó. Muốn
viết thành thật phải sống lăn lóc, phải có kinh nghiệm đã. Nhưng đàn bà như vâỵ
thì còn gì. Vả lại, có làm cho hết sức cũng chẳng đi đến đâu, chỉ là hạt bụi,
không một tiếng vang nào cả. Chị xem, trong văn học Pháp, Georges Sand có nổi
tiếng cũng chỉ vì phụ nữ hiếm trong làng văn, chứ thật ra sự nghiệp của bà ta
có đáng gì so với những tác phẩm vĩ đại của các văn hào nam giới. Như thế mà rồi
cũng một đời thật sa đoạ, tan nát… Rồi bây giờ lại Sagan…« [2]
»Mời chị uống trà
đá«, cô cháu gái bước ra, đặt ly nước lên bàn. »Ông cậu em đang rửa mặt, thay
quần áo, ra ngay bây giờ.«
Chợt nhận ra thần
sắc khác thường trên khuôn mặt khách, cô bật tiếng thảng thốt:
»Chị, chị, có sao
không?«
»Có lẽ trúng nắng«,
Mai Vy gượng cười. »Uống chút nước sẽ hết. Nơi đây vắng vẻ quá!«, Mai Vy bâng
quơ.
»Dạ, trước đó
không đến nỗi.«
»Trước đó là khi
nào?«
Cô gái chỉ lên
bàn thờ: »Trước khi bà mợ em qua đời.«
»Lâu chưa em?«
»Hơn hai năm rồi
chị à! Lúc bà mợ còn sống, nhà không trống trải như vậy. Hầu như bữa nào cũng
có khách tới thăm. Nghe đâu, trước kia bà mợ có viết sách, nên quen biết nhiều
người trong giới nhà văn nhà báo«, cô gái kể lể.
»Bút danh của mợ
em là gì?«, Mai Vy đâm tò mò.
»Em cũng không
rõ. Chị hỏi lại ông cậu. Còn tên thật của bà là Nguyễn thị Hằng.« Nói xong, cô
gái thấp giọng, như sợ ai nghe thấy: »Sau khi bà mất, nhà vắng khách. Ông cậu
em đâm ra lầm lì, ít khi rời nhà, không còn thiết tha chuyện người chuyện đời.
Mỗi khi chiều xuống, nơi này buồn lắm, nhất là vào những tháng mưa, trời tối sớm.
Đôi khi em sợ, một mình không dám vô phòng khách. Chị biết không, có lúc giữa
khuya, nằm ngủ phòng trong, em nghe tiếng đồ vật khua chạm, như thể có ai đang
dọn dẹp đồ đạc trong phòng khách. Kiểu này, chắc em không dám ở đây lâu.«
Kể xong, cô gái
quét mắt lên trang thờ. Chỉ một thoáng, rồi bỏ đi, không nói thêm lời nào.
*
Người đàn ông độ
ngoài bảy mươi, vóc người nhỏ thó, đầu tóc thưa sợi, nhiều sợi trắng. Gọng kính
đồi mồi gắn trên hai lõm mắt mệt mỏi. Khuôn mặt ốm, trán gấp nhiều nếp nhăn, lốm
đốm hoa mồi. Có điều lạ, giọng nói ông nghe còn tươi trẻ, bất cập với vẻ mặt.
Câu chuyện của độc
giả Hoàng Mai Thanh bắt đầu như những lời tự thú:
»Cho tới bây giờ
tôi vẫn không hiểu, tại sao chúng tôi có thể kết thân với nhau chừng ấy năm
dài. Bạn tôi, nhân vật nam chính trong tiểu thuyết, hoàn toàn khác tôi, ngoại
hình lẫn cá tính. Anh ta cao lớn, có gương mặt dễ nhìn, và nói chuyện rất có
duyên, gợi cảm, một kiểu jeune beau của điện ảnh Pháp vào thập niên sáu
mươi. Có điều, anh ta sa đà rong chơi nhiều hơn ham học«, ông cười khẽ.
»Ông còn giữ tấm ảnh
nào của ông ấy không?«
»Không.«
Ngưng tiếng
một đỗi, ông ngập ngừng:
»Đúng hơn,
có… Cho tới hai năm trước.«
»Tôi chưa
hiểu ý ông«, Mai Vy chau mày.
»Những tấm ảnh
ấy đã được tôi hoả táng cùng vợ tôi, theo như ý nguyện của bà«, người đàn ông
thấp giọng.
»Xin ông
vui lòng tiết lộ cho những độc giả sinh sau đẻ muộn vài chi tiết sống thực giữa
bạn ông và bà nhà, được không ạ?« người nữ ký giả nhỏ nhẹ.
Người đàn
ông ngẩng mặt ra hướng ngoài, hai vòm mắt nhiu nhíu, xa vời. Những sâu lắng thời
xuân trẻ khuấy động tâm thức. Một gương mặt. Một giọng nói. Một hơi ấm. Và chất
ngất cảm xúc không tên gọi.
»… Trâm
quay lại nhìn Minh. Trong làn ánh sáng lờ mờ của gian phòng chưa lên đèn, thân
hình nhỏ bé, cái đầu cúi nghiêng của người con trai in lên nền tường màu hồng
nhạt những nét vẽ linh động nhịp nhàng. Bỗng nhiên, Trâm khám phá ra, qua hình
dáng đó, một cuộc sống vừa bắt đầu ngút cháy, cuồng sôi, huyên náo mà lầm lì,
thơ dại mà phức tạp, cuộc sống của thanh niên thời đại. Mấy hôm trước, Minh dưới
mắt Trâm hoàn toàn xa lạ, hoàn toàn cách biệt. Như điệu nhạc từ bản đàn chưa một
lần nghe thấy. Minh thuộc phe nào trong cái đám con trai nôn nao xô bồ sống,
yêu, đam mê, chán bỏ. Tâm trí nàng dạo một vòng về vỉa hè Saigon. Tiếng nhạc bập
bùng vẳng ra từ những tiệm cà-phê, đuổi theo nhau quấn quít những bước chân đi
không giờ tìm thấy đích. Trong vùng ánh sáng nhờ nhờ của đèn xanh đèn đỏ về
khuya, từng khuôn mặt non choẹt, ngu ngơ, từng cánh tay duỗi dài trên quầy
hàng, từng ngón tay bám chặt lấy ly 33 ướt lạnh. Những bàn chân gõ nhịp xuống nền
gạch. Những cái nguẩy đầu. Những cái búng tay. Những cái lắc mình đu đưa theo
tiếng nhạc. Vô số những hình ảnh đó chập chờn chao lượn như những bóng ma hiện
lên từ một vực tối hun hút sâu. Ngày này qua ngày khác. Đêm này qua đêm khác.
Lũ con trai ngồi đó, im lìm chờ đợi. Im lìm nhìn nhau. Không biết để làm gì. Để
đi đến đâu. Khoảng trống không giữa cuộc đời và tâm hồn mở rộng theo dòng năm
tháng. Sách vở là những khối đá nặng nề. Lớp học là nhà giam. Lời giảng bài là
một thứ kinh cầu cỗ lỗ. Nét mặt thầy giáo đăm chiêu vô nghĩa. Những mùa thi rộn
ràng mà chán ngán. Đậu hay hỏng cũng thế, đều buồn nản, vô vị như nhau. Không
có gì thay đổi giữa những khoảng cách thời gian, đánh dấu bằng bãi trường, khai
giảng. Phần nhất, phần nhì rồi đại học. Những phân khoa. Xong rồi cũng ở lại
đó, lì ra đó, như con ngựa sau những vòng đua cũng phải trở vể chuồng. Những
phương trời nắng gió thật xa vời, chỉ mở ra trong tâm tưởng không bao giờ nguôi
khát vọng. Những chuyến đi xa thành hư ảo. Cảm giác tù đày nặng nề bưng bít
thêm. Người trẻ tuổi lớn lên. Già cỗi. Chán chường. Nên cảm thấy luôn luôn thừa
một cái gì. Luôn luôn thiếu một cái gì, để hoài hoài ray rứt, băn khoăn. Những
dấu hỏi muôn đời không giải đáp. Họ ra ngồi đó, nhìn hình ảnh mình trong vẻ rã
rời của kẻ khác. Và những bước chân đi qua. Những bước chân trở lại. Thật xôn
xao mà hờ hững vô cùng. Họ rủ nhau vào đêm. Uống thật nhiều. Hút liên tiếp. Mà
không bao giờ say. Như gặp rất nhiều, được rất nhiều mà chẳng bao giờ yêu, yêu
thành thật để thấy đời có nghĩa lý, có mục đích mà tiến tới.« [3]
»Tuổi trẻ
chúng tôi thuở ấy là vậy đó, chán chường, bi quan một cách vô tư«, ông Hoàng
Mai Thanh cất giọng.
»Những năm
đầu thập niên sáu mươi, chiến tranh chỉ mới nhen nhúm. Tư tưởng chúng tôi chịu
nhiều ảnh hưởng phim ảnh, âm nhạc, văn chương và triết lý hiện sinh tây phương,
những trào lưu thời đại rập theo khuôn mẫu yêu cuồng sống vội thuở bấy giờ. Với Jean-Paul Satre và La Nausée. Với
Françoise Sagan và Bonjour Tristesse. Với Phạm Công Thiện và Hố Thẳm
Tư Tưởng. Với Edith Piaf và Non, Je Ne Regrette Rien. Với Paul Anka và Crazy Love. Với
Evis Presley và It’s Now or Never. Với Brigitte Bardot và
Vie Privée. Với James Dean và Rebel Without a Cause. Với đêm Sài gòn
chưa hối hả trước giờ giới nghiêm. Đà lạt vẫn còn là xứ của thông ngàn cho những đôi tình nhân. Theo chuyện
kể của bạn tôi, cho tôi gọi anh là Minh như tên nhân vật trong tiểu thuyết, chỗ
trọ là một toà nhà một tầng của Tây để lại, nằm trên sườn đồi thoai thoải trông
xuống hồ Xuân Hương. Nơi đó, mốc điểm một cuộc tình cấm kỵ, nhưng vô cùng đằm
thắm và buồn bã, giữa Minh và cô giáo Trâm… «
»… Không, không hẳn
thế!« như sực nhớ ra, người đàn ông thốt lên. »Chuyện giữa Minh và cô giáo Trâm
bắt đầu từ buổi hai người đi chơi rừng với Tuân, thằng bé ở chung nhà trọ. Tuân
kể, trong cánh rừng này nó và đám bạn đã có lần khám phá ra một đường hầm trổ
ra sườn đồi hoang dã, vô cùng nên thơ.
›Đi!‹ giọng Trâm
nô nức khác thường, như thể có ai thúc đẩy.
Thật vậy, quang cảnh
nơi đấy đẹp không ngờ. Ngọn đồi thấp trông xuống thung lũng, lác đác chục mái
nhà sàn và nương trà ngát ngát xanh rì. Nắng xế sẫm vàng loang loáng núi đồi.
Tuân liến thoắng đề nghị xuống thăm bản Thượng một lần cho biết. Trâm và Minh đồng
ý ngay. Tưởng chỉ nán lại đôi ba tiếng, nào ngờ bản tính hiếu khách của dân miền
núi cầm chân họ cho tới khi nắng tắt. Trâm muốn về, nhưng Minh tỏ vẻ muốn ở lại
theo lời mời của ông Tây chủ đồn điền trà có vợ Thượng, còn Tuân mãi rong chơi
với lũ trẻ con ngoài suối, chưa thấy quay lại.
›Madame và
monsieur ở lại dùng cơm tối với vợ chồng chúng tôi‹, ông Tây sành sõi tiếng
Việt, cất giọng ân cần. ›Bữa nay chúng nó bẫy được con heo rừng, vừa xẻ thịt
xong, đang nướng ngoài kia. Vợ tôi sẽ làm sốt vang đỏ ăn kèm bắp nướng và légume
Đà lạt. Sáng mai tôi sẽ bảo chauffeur đưa quí khách về tận nhà.‹
Trâm còn ngần ngừ
thì ông đã tiếp lời:
›Bà đừng lo,
chúng tôi có phòng ngủ riêng dành cho ông bà.‹
Trâm đỏ mặt, muốn
lên tiếng giải thích, nhưng không thốt ra lời.
Bữa ăn tối ngon
miệng. Câu chuyện thú vị. Xong, chủ nhà mời khách ra hiên nhà uống thử loại trà
thượng hạng của đồn điền và ăn bánh Madeleine. Mái hiên thanh cảnh lát kính bốn
bề, sưu tập nhiều giống lan rừng, được ông Tây đồn điền gọi là khu vườn
mùa đông. Đêm lũng thấp bảng lảng sương mù. Đốm trăng u tịch treo đỉnh trời.
Hơi lạnh se se. Trâm thắt lại tấm khăn quàng cổ mua ban chiều của dân bản Thượng.
Mùi vải mới, mùi thuốc nhuộm bốc gây gấy, chừng như dư hương của thiên nhiên
còn sót lại.
Mẩu chuyện của
ông Tây đồn điền là một chuyến du hành ngược về quá khứ, từ Paris sang Sài gòn,
cuối cùng dừng chân nơi đây.
›Nhà tôi, ma
maison, …‹, ông bật cười ha hả, trỏ tay về phía vợ. Người đàn bà có nước da
mật ong, diện mạo thanh tú như tượng, mỉm cười ngượng ngập, ›Elle không
muốn sang Pháp. Tôi nhớ nhà, nhớ Paris lắm chứ, nhưng so với hoàn cảnh của vợ
tôi nếu phải lìa xa nơi này, chắc hẳn bi đát gấp mấy lần. Vả lại, tôi quen kiểu
sống sauvage ở đây rồi, có lẽ không còn thích hợp với nhịp sống náo nhiệt
ở thành phố nữa.‹
›Cũng là tâm trạng
tôi hiện giờ‹, Trâm xen vào. ›Mặc dù Sài gòn cách đây chỉ vài trăm cây số, vậy
mà đôi lúc, tưởng chừng như vạn dặm.‹
›Nhất là khi người
ta lỡ yêu…‹, Minh góp tiếng lửng lơ.
›Êtes-vous
amoureuse de quelqu’un, madame?‹ ông Tây cười chúm chím.
Trâm nhoẻn cười lặng
lẽ. Ánh nến soi không đủ sáng gương mặt người đàn bà vừa đánh mất thanh xuân.
»… Lờ mờ trong
ký ức Trâm, những mảnh bóng hình vỡ vụn ngày xưa trôi về, như những cánh hoa
tơi tả không phai tàn hương sắc, lạnh lùng theo sóng nước thời gian tắp xuống bờ
lau lách đìu hiu. Ở đó nằm chết những con thuyền phiêu lưu rã mục. Ở đó chất chứa
rác bẩn và rong rêu. Và ở đó người con gái thảng thốt thấy mình vật vờ trôi nổi
tan rã chơi vơi. Tất cả những ảo giác, những mơ màng, những cảm xúc đó trôi về
theo tiếng nhạc chiều nay. Khúc nhạc ôm choàng những âm thanh kỷ niệm, đã nghe
một lần, đã nghe nhiều lần. Những chòm ánh sáng như sao sa tan vỡ xuống nền gạch
hoa gắn kính. Arc-en-Ciel nửa đêm. Màu pipermint xanh biếc đáy biển cho đáy mắt
làn môi chết đuối. Besamé Mucho, điệu nhạc calypso. Nhưng đêm đó Trâm âm thầm độc
thoại, không, tôi không biết nhảy. Vì tôi ghét khiêu vũ. Biết thật thì khó từ
chối người mời. Mà nhận lời thì bị người ta ôm trong tay, và ôm người ta trong
tay. Không. Đâu phải dễ dàng. Ôm một người như vậy không phải là người yêu,
Appache bay đi cùng khắp trong đêm. Từ Givral qua Brodard. Từ những hiệu kem đến
những nhà hàng. Từ những gian phòng đầm ấm có stéréo hifi đài các, đến những hè
phố về khuya u uất đèn đường… Nó nhắc lại tiếng hát não nùng trầm ấm của người
ca sĩ da đen, you love a while and then love goes… Nó cháy lên những phương trời
rực rỡ xa vời, thiên đường của tình yêu và tuổi trẻ.« [4]
Phòng ngủ cho
khách được dành cho Minh và Tuân, Trâm ngỏ ý muốn ngủ trong khu vườn mùa đông,
trên sàn gỗ. Người vợ can ngăn, về khuya trời sẽ lạnh lắm. Trâm xin thêm chăn,
nói, nếu lạnh, tôi sẽ ôm chăn gối vào phòng khách.
Giữa khuya, trời
trở gió. Trâm bật thức, lắng nghe gió rừng thổn thức qua khe cửa, và tiếng thú
rừng gầm hú xa xa. Hay tất cả chỉ là những thanh âm sót lại của giấc mộng hoang
dại? Qua rãnh mắt ngái ngủ, cô thấy vầng trăng dường như đổi sắc huyễn hoặc,
như âm bản một ảo tưởng. Sương tan từ khi nào. Hương dạ lan ngan ngát nhà kính.
Tia nhìn Trâm quen dần bóng đêm. Cô thấy mái trời trổ màu xanh thẫm không đáy,
lác đác đây đó vài chấm sao lấp lánh những rạo rực không nguôi. Trâm đứng lên,
quấn chăn ra ngồi bên cửa kính, trông ra chập chùng đồi nương, tưởng như vừa lạc
bước sang đời sống khác. Với những thường nhật lặng lẽ, không vướng bận chuyện
tình cảm rối rắm. Với những ngày, những đêm đi về. Một mình. Khắc khoải. Cảm
xúc Trâm run khẽ từng cơn. Không phải vì lạnh, mà vì cô đơn. Trâm vòng tay ôm
chéo chăn bông, siết lại.
Chợt, một tiếng động
nhỏ vang lên sau lưng. Trâm quay lại. Bóng ai co ro trong tấm chăn, đứng bên
ngưỡng cửa. Minh.
›Cô… cô…‹, đứa
con trai lắp bắp, ›em không ngủ được… Phần lạ chỗ, phần thằng Tuân chòi đạp ghê
quá!‹
›Nghe như có tiếng
thú đêm ngoài kia‹, Trâm thầm thì như độc thoại.
›Nếu cô sợ, em sẽ
ở bên cô, chờ đến khi cô ngủ tiếp‹, Minh đề nghị.
Người đàn bà
không đáp. Thời gian khựng lại, mê thiếp trong giây khắc lặng lẽ. Cho tới khi
cô cảm nhận một hơi ấm gần gũi và hương thịt da dịu ngọt nhen nhúm trong bóng tối.
Những cám dỗ quỷ ám trong Trâm bén lửa, rực cháy. Bầy thiêu thân lao vào luồng
sáng liêu trai những đam mê.
»Thân hình
Trâm như đóng đinh xuống mặt nệm nóng ran. Thu hết cố gắng, Trâm gỡ tấm mền bỗng
nặng như giáp sắt phủ trên ngực, nhoài một cánh tay ra ngoài duỗi thẳng trên
sàn gỗ lạnh như một đầu hàng buông xuôi mệt mỏi. Một tiếng động nhẹ trên đầu
Trâm lần nữa. Nàng muốn đứng lên, vùng chạy, đánh thức tất cả mọi người, mọi vật,
cả mặt trời đã biến thành đồng loã im lìm trong giấc ngủ. Trong mê sảng, Trâm
có cảm giác như một đôi môi nóng bỏng nào chờm lên mái tóc mình xoã dài sông
đêm trên mặt gối. Bàn tay Trâm chới với níu lấy tóc mình. Nhưng bàn tay Minh
như vòi mực biển khổng lồ đã quấn chặt lấy tay nàng, dìm xuống, cho khuôn mặt
Minh phủ lên trên như một phiến san hô nồng ấm. Những ngón tay Trâm bất động
thiếp mê một phút trong tay Minh rồi trở mình xoay nhẹ, xoay nhẹ như tiếng trục
đổi chiều của một bánh xe hốt hoảng đuổi theo cái bóng lờ mờ thoắt hiện lên ở
ngã ba đời huyền hoặc… Trục bánh xe im tiếng, chợt dừng. Và những ngón tay Trâm
quật lên, xoắn lấy những ngón tay Minh siết nhẹ.
Và cuối cùng
mười ngón buông nhau. Một dòng cảm xúc không tên ào ào dâng lên ngập lụt trong
lòng và Trâm nghe như lưỡi dao bén ngọt nào vừa rạch suốt chiều dài thân thể…« [5]
›Minh về phòng
đi!‹ người đàn bà thầm thì.
Minh còn chần chờ
thì Trâm đã rít khẽ:
›Đi ngay!‹
Khoảng đêm còn lại,
Trâm chập chờn trong khoảnh khắc thực mộng tròng tréo nhau. Cho đến khi luồng
sáng nhá nhem đầu ngày trườn lên chăn gối nhàu nát, rách rưới mộng mị. Những giấc
mơ tan lẩn vào giây lát chuyện vãn giữa khuya, mơ hồ, trừu tượng như một hò hẹn
bồ-tùng-linh. Với Minh.
Sáng ra, vào ngồi
trong bàn điểm tâm, đứa con trai không tỏ vẻ gì khác lạ. Như thể khuya qua
không chuyện gì xảy ra. Tất cả chỉ là ảo giác. Của Trâm.
›Khuya qua anh
Minh bỏ đi đâu lâu thế?‹ Tuân bật tiếng.
Mọi cặp mắt dồn về
chỗ Minh ngồi. Lồng ngực Trâm bật lên vài nhịp lạc.
›Vậy à?‹ đứa con
trai ngẩn mặt giây lát. ›Lâu không?‹
›Không biết. Em sợ
quá, trùm chăn kín mít, rồi ngủ quên tới sáng.‹
Minh mỉm cười lửng
lơ, không nói.
Kể đến đấy, ông
Hoàng Mai Thanh ngưng bặt, xoáy tia nhìn vài hai mắt cô ký giả, không chớp. Mai
Vy ngượng ngập cầm ly nước, hớp một ngụm nhỏ. Phải tới nửa phút sau, người đàn
ông mới chậm chạp tiếp lời:
»Kết thân với
Minh lâu lắm, lần nọ, tình cờ tôi biết ra, anh ta vướng phải hội chứng mộng du.
Kỳ nghỉ hè năm đó chúng tôi đi Vũng tàu tắm biển một cuối tuần, cả bọn năm đứa.
Chúng tôi mướn một chỗ trọ ven biển. Đêm ấy trăng sáng, sau khi ăn cơm xong,
chúng tôi mua một chai rượu, cầm đàn ghi-ta ra bãi vừa nhâm nhi vừa ngắm trăng,
vừa nghe sóng vỗ bờ và hát hò lăng nhăng. Minh có giọng hát rất gợi cảm, chuyên
trị nhạc tiền chiến. Tôi thích nghe anh hát ›Sao Đêm‹ của Lê Trọng Nguyễn.
Rượu mềm môi, chất giọng anh càng quyến rũ, như được ướp thêm hương trăng và muối
biển. Khuya ấy chúng tôi về nhà trọ muộn. Tôi và Minh ngủ chung giường. Tôi nhớ
mình đã chếnh choáng hơi men, vừa đặt lưng xuống, ngủ ngay. Giữa khuya thức giấc,
nhìn sang bên, không thấy ai. Đoán rằng Minh đi ngoài. Tụi bạn nằm giường bên
ngủ say như chết. Chờ hoài, vẫn không thấy Minh trở lại, tôi đâm lo, rón rén tốc
mùng đi tìm. Trăng biển khuya ấy đẹp não nùng, cô ký giả à! Nhưng tôi không có
thì giờ để ngắm, vì mãi đi tìm Minh. Phải mất một đỗi lâu, mới thấy. Anh đang đứng
trên một mõm đá cao. Trần truồng. Đầu ngẩng nhìn trăng, hai cánh tay dang rộng,
bất động như tượng. Tôi không dám cất tiếng gọi, sợ anh hoảng hốt, rơi xuống.
Chờ hoài chờ mãi, mệt, tôi thiếp mắt. Lúc tỉnh giấc, trăng bị mây che lúc nào
không hay, không thấy Minh đứng đó nữa. Tôi hối hả quay lại nhà trọ, rón rén
vào giường, thấy Minh nằm đó, say giấc như không có chuyện gì xảy ra. Sáng ra,
hỏi anh có nhớ những gì khuya qua không. Anh lắc đầu ngơ ngác. Tôi chỉ cười,
lãng sang chuyện khác.«
Người đàn ông
ngưng lời, thở ra như trút gánh nặng.
»Tôi không dám chắc
là tôi đã hiểu ý ông…«, cô ký giả ngập ngừng.
«Không, không, cô
hiểu đúng rồi», người đàn ông xua tay, xoáy mắt nhìn Mai Vy. «Tất cả những gì
Minh kể cho tôi nghe chỉ là những chi tiết một cơn mộng du. Văn vẽ mà nói, toàn
là hư cấu. Đời người giống như một giấc ngủ, không ai biết trước, mình sẽ nằm
mơ thấy gì.«
Mai Vy nhoẻn cười,
ngước nhìn bức di ảnh trên kệ thờ. Ánh mắt người quá vãng như chùng xuống, quay
quắt những âm hồn chưa hoá kiếp.
«Nàng đi ngược
lại Brodard, qua phía Tự Do tìm người mù bán thuốc. Cửa vũ trường bỗng mở ra nhẹ
nhàng. Trâm nhìn lên. Minh. Trái đất quay một vòng trong chớp mắt im sửng. Dưới
ánh đèn màu khuya, muộn hắt hiu, Trâm nhận ra mái tóc bồng bềnh, hai con mắt thờ
ơ, đôi môi tràn đầy của mùa tình Đà-lạt. Trong bóng dáng tình khuya đó, Trâm
thoáng thấy hình ảnh xa lạ của chính mình chập choạng lung linh. Tia nhìn bỗng
lạc mất nhau. Nàng đi qua, đi qua, đi qua không một bước chân dừng lại. Con đường
bỗng lún xuống phía sau, Trâm nghe tiếng rơi vỡ của một tượng đen vào quá khứ… »
[6]
Mai Vy khép sách
lại, khoá trái những trang chữ, nhốt giữ những nhân vật tiểu thuyết vào một góc
chiêm bao. Cô biết, khuya nay cô sẽ ngon giấc. Cuộc sống, hay văn chương, chỉ
là một thoáng du mộng ngắn ngủi.
Đức, 07.2017
Ngô
Nguyên Dũng
[1] Vòng Tay Học Trò, tr. 9-10, Nguyễn thị Hoàng, nxb Thái Phương, Sài gòn, 1969.
[2] Nt., tr. 19-20 & 30-31.
[3] Nt., tr. 84-86.
[4] Nt., tr. 143-144.
[5] Nt., tr. 201-202.
[6] Nt., tr. 415.