Đêm Thượng Nguyên, trăng tròn như cái vành thúng được ai đó treo lên
bầu trời. Những cơn gió, thôi lùa qua những vách nứa nơi đầu hồi.
Đất trời dường như ấm trở lại. Khách khứa, bà con xóm làng đến chia
vui, tiễn đưa tân cử nhân Doãn Khuê vào kinh thành thi Hội đã ra về.
Làng Ngoại Lãng, tổng Vô Ngại, huyện Thư Trì, phủ Kiến Xương trở về với
cái tĩnh lặng của miền đồng quê.
Đóng cổng, quay lại Khuê châm thêm nước vào ấm. Trà tỏa ra mùi
hương thanh dịu. Nước đã ngấm, Khuê hai tay nâng tách trà đi về phía
góc phản, nơi tân Tổng đốc Định-Yên, kiêm Tuần phủ Hưng Yên Doãn Uẩn
còn ngồi đó. Khuê chưa kịp mời, Uẩn đã hỏi:
– Chú định khi nào vào Kinh?
Khuê đứng thẳng người:
– Thưa bác cả, ngày mốt em sang Nam Chân, chào thày Ngô Thế Vinh. Có
lẽ, ở lại đó vài ngày, rồi cùng Phạm Văn Nghị xuôi Kinh ạ.
– Ừ, chú định vậy cũng phải. Đi sớm một chút có thời gian nghỉ
ngơi, chuẩn bị khoa thi sẽ tốt hơn.
Đỡ tách trà từ tay Khuê để xuống phản, Uẩn rút chiếc túi trong
tay áo ra và bảo:
– Khoa thi này, tuy triều đình đã lo nơi ăn, chốn ở cho các sĩ tử,
nhưng đường xa, lạ nước lạ cái, cũng cần phải chi tiêu. Ta có chút
ít lộ phí, mong chú nhận cho.
Tuy là anh em con chú bác, nhưng Uẩn lớn hơn Khuê đến gần hai con
giáp. Khuê mồ côi cha mẹ từ tuổi lên mười, do vậy được Uẩn chăm sóc,
bảo ban, thúc giục việc học hành. Từ ân tình ấy, lúc nào Khuê cũng
coi trọng Uẩn như một người anh cả, một người cha đỡ đầu vậy.
Khựng lại, dằn cơn xúc động, Khuê mới ngập ngừng:
– Cảm ơn bác cả…nhưng…
– Còn nhưng gì nữa! Cả chục năm chinh chiến, ta may mắn được triều
đình bổ nhiệm làm Tổng đốc Định-Yên, năm nay mới được ăn Tết ở nhà.
Chú cũng vất vả về đại gia đình ta nhiều rồi. Hãy cầm lấy, lo cho
tốt việc thi cử, có vậy ta mới được yên lòng. Gặp thày Ngô Thế Vinh,
và Phạm Văn Nghị, nói cho ta gửi lời thăm hỏi…
Năm Mậu Tuất 1838, niên hiệu Minh Mạng thứ 19, cùng với người bạn
Phạm Văn Nghị, Doãn Khuê vượt qua hai khoa thi Hội, thi Đình, đỗ Đệ tam
giáp đồng tiến sĩ xuất thân. Tròn 25 tuổi, Khuê là người tiến sĩ
trẻ nhất khoa thi ấy. Năm sau, Khuê được phong quan Hàn lâm viện biên tu,
và sau đó được bổ nhiệm chi phủ Ứng Hòa…
Giải quyết xong những bê bối của phủ nha mà người tiền nhiệm để
lại, Khuê đến ngay làng Vân Đình, huyện Sơn Minh, phủ Ứng Hòa thăm người
bạn Dương Quang. Dù đã biết trước, nhưng Quang không ngờ Khuê đến nhà
thăm sớm như vậy. Là bạn, nhưng hiện Khuê đã là quan ở phủ nhà, vợ
lại vừa lâm bồn làm cho Quang một chút bối rối. Tuy nhiên, gặp nhau
cái chất mộc mạc, tình nghĩa của Khuê đã xua tan suy nghĩ ấy trong
Quang. Trong lúc khật khừ, Quang bảo:
– Nhà vừa sinh trưởng nam, mỗ tôi chưa đặt tên. Nhân Tri phủ đến chơi
cho cháu cái tên, thì thật may mắn lắm.
Đặt cốc xuống mâm, Doãn Khuê cười:
– Tiểu đệ vừa lập gia thất, cũng còn bỡ ngỡ lắm. Tuy nhiên, việc
học cũng lấy làm hanh thông, thôi thì cứ lấy tên tiểu đệ đặt cho cậu
cả vậy. Hậu sinh khả úy, sau này Dương Khuê [1] đỗ Giải nguyên, Hoàng
giáp không chừng.
Quang nhìn Khuê xem chừng cảm động lắm:
– Quan tri phủ làm thế này, thật là ban phúc đức cho gia đình
vậy.
Quang với cút định châm thêm tửu, Khuê đã vội xua tay:
– Bác lượng thứ, tửu lượng có hạn, hôm nay tiểu đệ đến đây cũng
có việc muốn nhờ vả đấy!
– Có chi, xin Tri phủ cứ nói. Làm được mỗ tôi xin dốc lòng.
– Tài trí của bác, trước sau triều đình cũng vời gọi. Tuy nhiên
phủ nha hiện rất cần người. Nếu được, mời bác ra giúp tiểu đệ một
thời gian.
Trầm ngâm một lúc, Quang bảo:
– Qủa thật, gánh nặng cha mẹ già, thêm thê tử còn dại, chưa thể ra
giúp ngay, nhưng mỗ tôi sẽ tiến cử một người có trí dũng cho Tri
phủ. Người này, tính tình khí khái, học hành khá, đặc biệt võ công
rất thâm hậu, nhưng không muốn thi cử để tìm công danh. Nghe nói, hắn
là hậu duệ của Ức Trai tiên sinh.
Nghe vậy, Khuê mừng lắm, hỏi:
– Tên gì, nhà ở đâu?
– Tên Nguyễn Bá, ở làng bên, nhưng Tri phủ phải thân hành đến
đó tốt hơn.
– Được…được, sau đây chúng ta sẽ đến đó…
Với tính cương trực, liêm khiết, cùng với sự trợ giúp của Bá,
trong một thời gian ngắn, Khuê đã ổn đời sống, sinh hoạt của người
dân Ứng Hòa sung túc, và đi vào nề nếp một cách rõ rệt. Năm Thiệu
Trị thứ nhất 1841, Khuê được bổ nhiệm làm Giám sát ngự sử biên thùy
phía Bắc, đạo Lạng-Bình.
Lúc này, dân Nam Kỳ liên tiếp nổi loạn. Ngoài biên, dân Chân Lạp
nổi dậy chống đối quan lại Đại Nam cai trị. Tướng trấn thủ Trương
Minh Giảng nhùng nhằng chưa thể dẹp yên. Vua Thiệu Trị nghe lời khuyên
của Đô thống Tạ Quang Cự bỏ Trấn Tây Thành, buộc tướng trấn thủ
Trương Minh Giảng phải rút quân về An Giang. Hay tin Khuê cho rằng, đây
là việc làm rất bất lợi, nên lập tức viết tấu biểu can ngăn Thiệu
Trị: “…Nếu ta rút quân, chắc chắn giặc Xiêm sẽ không bỏ lỡ cơ
hội, quay lại lấy Trấn Tây Thành làm bàn đạp tấn công Đại Nam. Nguy
cơ chiến tranh bùng nổ, và chiến trường sẽ ở ngay trên đất Đại Nam
ta. Do vậy, hạ thần xin bệ hạ cử ngay một tướng quân giỏi chiến trận
cũng như cai trị, an dân sang giúp Trương Minh Giảng giữ vững Trấn Tây
Thành. Đó là lá chắn vững chắc cho phía Tây Nam Đại Việt ta. Được
như vậy, thì thật may mắn lắm thay. Xin bệ hạ soi xét kỹ.“
Là một Hoàng đế nhân từ, nổi tiếng thi ca, nhưng không có tầm
nhìn, ít có tham vọng mở mang bờ cõi, do vậy khi nhận được tấu biểu
của Khuê, Thiệu Trị đã gạt bỏ. Không những vậy, ông còn cho bỏ luôn
cả phủ Quảng Biên và Khai Biên.
Một tin sét đánh. Hoàng đế đã tự chặt tay của mình, Khuê buồn
rầu lẩm bẩm như vậy.
Chiều biên cương mây mù đã giăng kín lối. Mờ mờ bên kia sườn núi
những vỉa đá nhọn hoắt đâm thẳng lên nền trời. Gió từ phía Bắc
thổi về đập vào vách đá, kêu u oa như tiếng sáo diều bị nghẹt lỗ.
Khuê trầm ngâm bên đống đơn từ kiện tụng. Chợt người lính vệ đi vào:
– Bà Nguyễn Thị Ngũ chủ thương điếm Ngũ Thị, tìm Giám sát ngự
sử muốn có điều bẩm báo ạ.
– Cho bà ta vào.
Ngũ Thị là người đàn bà khoáng đạt, nhân từ. Thị có thương điếm
hầu hết các tỉnh, từ Hà Nội lên Thái Nguyên và đến Lạng Bình. Thị
đã hiến nhiều của cải, vật chất cho triều đình mỗi khi đất nước có
thiên tai, hoặc chiến tranh, giặc giã. Đã nghe tên, tỏ lòng mến phục
Ngũ Thị ngay từ khi còn ở trong Kinh đô, nên Khuê đứng dậy, ra cửa
đón.
Khi Khuê kéo ghế mời, Thị xin phép được đứng. Có lẽ, cơn u uất
trong người còn chưa tan hết, bởi Thị vừa từ nơi Trưởng quan ty bố
chính đến. Khuê chưa kịp hỏi, Thị đã đi thẳng vào việc:
– Thưa quan, hạ dân là phận đàn bà, đến thưa gửi, kiện tụng thì
thật không nên. Nhưng không thể không đến, bởi gần đây, Trưởng quan ty
bố chính Đậu Thập ép các thương điếm phải vào bang hội. Và trưởng
cái bang hội này là người Quảng Tây đội lốt dân Việt, do Trưởng quan
ty bố chính sắp đặt. Giá cả, hàng hóa đều do người này ấn định.
Có một vài thương điếm không chịu gia nhập đã bị bắt giữ, và tịch
thu gia sản. Nguy hiểm, và dã man hơn nữa, họ còn dùng bọn thảo
khấu, được gọi là một thứ âm binh mới để đánh, giết người, nếu
chống đối. Theo hạ dân biết, cái bang hội này chỉ là cái vỏ bọc cho
Trưởng quan ty bố chính cấu kết với quan Lãnh binh Lê Thất buôn bán
thuốc phiện, hàng cấm qua biên giới mà thôi. Sự qua lại rất mờ ám
với Trung Quốc của chúng là điều lo ngại cho an ninh Đại Nam ta. Mong
quan lớn soi xét, điều tra, cứu lấy các thương điếm và dân chúng nơi
đây.
Khuê lắng nghe, rồi hỏi Ngũ Thị:
– Các ngươi đã trình báo lên tuần phủ chưa?
– Dạ, thưa rồi, nhưng mỗi lần trình báo là một lần bị âm binh
đánh đấm, đe dọa. Bây giờ bọn hạ dân có nhử kẹo kéo cũng không dám
đến quan tuần phủ nữa đâu ạ.
– Thôi, ngươi cứ yên tâm về, ta sẽ điều tra, trình báo triều đình
và xử lý thỏa đáng.
Trời đã khuya. Khuê ngồi bó gối lặng im trong bóng tối. Đĩa đèn
dầu vẫn cháy, nhưng không thể xuyên thủng màu đen như ken trước mặt.
Nguyễn Bá ướt sương đêm, từ trong bóng tối chui ra:
– Bác chưa đi nghỉ sao?
Khuê bảo:
– Ông chưa về sao ta ngủ được.
Cởi áo treo lên cột nhà, rồi Bá ngồi xuống cạnh Khuê:
– Qủa thực, tên Đậu Thập, Trưởng quan ty bố chính đã cấu kết với
Lê Thất, Lãnh binh buôn bán thuốc phiện, hàng cấm qua biên giới. Điểm
tập kết của chúng khi thì kho bang hội, lúc khu lãnh binh. Hai tên này
là hung thần, nỗi khiếp đảm của lương dân khu vực biên giới phía Bắc
này.
Người Khuê run lên, hai tay bóp chặt tay vào thành ghế:
– Như vậy đã rõ. Ta sẽ viết tấu biểu về triều đình ngay. Và
chúng ta âm thầm điều tra tiếp. Về thân thế hai tên này, hồ sơ có
trong văn khố, chắc ông đã đọc?
– Dạ, mỗ tôi đã biết.
Đậu Thập thực ra là họ Nguyễn, người tỉnh Hà Nội, xuất thân từ
nghề hoạn lợn. Đầu năm 1830, Thập bỏ sang Trung Quốc theo Minh giáo
(Mani giáo) và đổi thành họ Đậu. Năm 1833 Thập về nước, được một
Lại mục ở phủ Tổng đốc Thái Nguyên nhận làm con nuôi. Năm Minh Mạng
thứ 15 (1834) nhờ có chút công trong vụ dập tắt sự nổi dậy chống
triều đình của Tri châu Bảo Lạc Nông Văn Vân, nên Thập đã được triều
đình ban thưởng, cất nhắc. Khi được bổ nhiệm lên đạo Lạng Bình, Thập
được giới thiệu làm quen với Lãnh binh Lê Thất. Thất người Thuận
Hóa, xuất thân từ tên đốn củi, rồi làm cai mỏ cho triều đình nhà
Thanh. Sau này không rõ, bằng cách nào, và từ đâu Thất được bổ nhiệm
làm Lãnh binh thuộc phủ biên ải này. Bộ Lại nhiều lần đặt nghi vấn,
điều tra, nhưng chưa thể kết luận.
Trong ba tháng, Khuê dâng liền ba biểu tấu, nhưng buồn thay, hoàn
toàn không nhận được hồi âm từ phía triều đình. Thập và Thất buôn
bán thuốc phiện, hàng quốc cấm, và đánh, giết người ngày càng công
khai, trắng trợn. Sự lộng hành ấy, làm cho Khuê không còn đủ kiên
nhẫn chờ đợi, nên bèn gọi Bá vào bàn:
– Bọn Thập và Thất chắc chắn có đồng đảng đứng sau, không chỉ
trong phủ, đạo này, mà còn trong triều đình nữa. Do vậy, đến hôm nay,
ta vẫn chưa nhận được chiếu chỉ. Và dù có chiếu chỉ, chúng ta khó
có thể xử tội chúng ở đây, bởi vây cánh đồng đảng, cũng như không
ngoại trừ thế lực bên kia biên giới. Nên ta muốn ông chọn ra một số
người can đảm, võ nghệ tinh anh trong đám lính vệ, cùng tập luyện,
lựa thời cơ bắt hai tên này, rồi âm thầm đưa về phủ Thái Nguyên. Ta
có thể liên lạc với người bạn Tô Trân hiện đang lãnh chức Án sát sứ
ở đó. Làm việc này, tuy vừa lòng dân, nhưng trái với qui chế của
triều đình. Chắc chắn ta sẽ mang trọng tội. Mấy năm làm quan, ta cũng
tiết kiệm được khoản tiền, ông cầm lấy, xong việc đưa gia đình đến
một nơi nào đó sinh sống. Ông không phải là người của triều đình, sẽ
không bị truy cứu đến đường cùng đâu. Ta biết, đã làm khó cho ông,
nhưng quả thật không còn cách nào khác.
Lời của Khuê đã làm cho Bá thực sự xúc động:
– Sao bác lại nói vậy. Mấy năm qua, không chỉ vì việc công mà mỗ
tôi theo bác, nhục vinh cũng đã trải qua. Tình như thủ túc. Mỗ tôi sợ
chết, tính toán thiệt hơn thì đâu có theo bác. Việc này, bác đừng
để trong lòng. Chúng ta cùng làm, hậu quả cùng gánh. Tuy nhiên, bác
không đáng phải làm như vậy. Nếu bác cho phép, ngay đêm nay, mỗ tôi cho
mỗi thằng một dao. Chỉ có giời biết, đất biết. Đó như là một sự
trừng phạt tội ác mà bấy lâu nay chúng đã gây ra cho nhân dân, và đất
nước vậy…
– Không được… không được, chúng ta làm vậy, khác gì thảo khấu.
Chết thằng Thập, Thất này, sẽ có thằng Thập, Thất khác lên thay.
Bởi không vạch được tội, không xóa được tận gốc băng đảng của chúng.
Do vậy, bằng bất kỳ hình thức nào, chúng ta đưa được chúng ra công
đường xét xử, đó mới là sự trừng phạt thật sự. Cái giá phải trả,
ta đã xác định trước rồi.
– Vâng! Đã hiểu, mỗ tôi sẽ có cách bắt hai thằng giặc già, và
đồng đảng, mang về phủ Thái Nguyên cho bác…
Chờ khi Bá đã bắt được Thập và Thất đưa về Thái Nguyên an toàn,
Khuê mới viết lời giải thích sự việc cho tri phủ và phó Lãnh binh
Hoàng Văn Bình. Quan tri phủ là người nhu nhược, nên lặng im chờ phán
quyết của triều đình. Giai là kẻ cơ hội, với Thập và Thất chỉ bằng
mặt chứ không bằng lòng. Hơn nữa Giai là thuộc hạ cũ của Tướng quân
Doãn Uẩn, anh của Khuê, do vậy cũng án binh bất động.
Và đúng như dự đoán của Bá, chỉ có bọn âm binh, bè đảng kéo
xuống định giải cứu Thập và Thất. Nhưng Bá và lính vệ vây bắt sống
hết. Bọn âm binh già dái non hột này, chỉ một trận đòn của Bá khai
tuốt tuồn tuột những tội ác của Thập, Thất và băng đảng.
Được sự trợ giúp của Án sát sứ Thái Nguyên Tô Trân, Khuê mang
Thập, Thất và đồng đảng ra xét xử, có đầy đủ vật chứng và nhân
chứng. Không thể phủ nhận tội ác, nhưng vin cớ, Khuê chỉ có quyền
giám sát, không được quyền xét xử, khi chưa có chiếu chỉ của triều
đình, Thập và Thất chống lại phiên tòa. Khuê quát: Triều đình ở xa,
chiếu chỉ chậm trễ là chuyện thường. Các ngươi ăn lộc của dân, nhưng
cướp của, giết dân, buôn bán thuốc phiện, cấu kết với ngoại bang tàn
phá đất nước. Ta thay mặt triều đình giám sát vùng biên ải này,
không thể không bắt các ngươi trị tội. Chưa có chiếu của triều đình,
nhưng ta có chiếu của dân, làm theo ý dân. Khuê lập tức tuyên phạt
Thập, thất và những tên tay sai ngoại bang, trực tiếp giết người tội
chém đầu.
Được canh phòng khá cẩn mật, nhưng âm binh của Tổng đốc Lưỡng
Quảng nhiều lần vượt biên giới, giả dạng đột nhập nhà tù nhằm giải
cứu Thập và Thất. Tuy thất bại, nhưng chúng giết chết một số lính
vệ, làm Bá bị thương. Sợ có biến cố, do vậy, bất ngờ mùa thu năm
1842, Khuê cho chém ngay Thập và Thất, dù đã nhận được Thánh chỉ,
chờ Bộ hình thẩm tra lại.
Tuy tấu biểu của Khuê trình bày, giải thích rõ ràng, Thiệu Trị
vẫn nổi giận lệnh cho Bộ hình bắt Khuê về trị tội: Riêng tội kháng
chỉ, đủ để ta lấy đầu nó. Thiệu Trị hất tung cả chiếc bàn trước
mặt.
Bọn đại thần Doãn Uẩn, Nguyễn Tri Phương, Trương Đăng Quế xúm vào
can ngăn. Lúc sau Thiệu Trị mới nguôi giận, bảo: Đầu cho gửi tạm ở
đó, từ nay ta không muốn nhìn thấy mặt nó nữa. Nhưng đến cuối năm
1842 không hiểu thế nào, Thiệu Trị chỉ giáng Khuê xuống bốn cấp, bổ
nhiệm làm giáo thụ ở phủ Xuân Trường. Và Tô Trân điều về Kinh làm
Toản tu ở Quốc Sử Quán.
Dường như, những tháng cuối cùng của cuộc đời, Thiệu Trị càng có
những việc làm, quyết sách kỳ cục. Bức màn đêm phủ kín cả triều
đình. Khuê hoàn toàn chán nản, mất lòng tin. Vào mùa hè năm 1847,
Khuê dâng biểu từ quan.
Nghe tin, Doãn Khuê mở trường, học trò khắp nơi đến xin học. Buộc
Nguyễn Bá phải giúp Khuê dựng thêm nhà ở cho học trò. Trường Đại
Tập Thành Nam do Bá đặt tên được Khuê gật gù khen hay.
Sau Tết Nguyên Đán 1854, đám học trò chưa trở lại, chỉ còn Khuê và
Bá ngồi nhâm nhi bên mâm cơm cúng hóa vàng. Ngoài trời, cơn mưa phùn
như đang rây bột trải lên con đường làng. Mới về chiều, nhưng bóng tối
đã kéo đến rất gần. Bóp bép như có tiếng chân người đang vào ngõ.
Bá đang định đứng dậy, một nam nhân đã bước vào cửa. Khuê chưa nhận
ra, nam nhân ấy đã chắp tay:
– Thưa thày, con là Phạm Văn Hàm, thứ nam của Hoàng giáp Tam Đăng.
Năm mới thầy con sai con sang chúc tết, và gửi cho thày phong thư ạ.
Nghe Hoàng giáp Tam Đăng Phạm Văn Nghị, Khuê vội đứng dậy:
– Chà chà, mấy năm ta không gặp, con đã là một người đàn ông thực
sự rồi. Đường xa…đường xa, ngồi xuống ăn uống chút gì cho ấm cái
bụng đã.
Khuê với tay lấy đĩa đèn dầu, mở thư cắm cúi đọc, rồi ngẩng đầu
lên bảo:
– Hoàng giáp tuy là đồng khoa thi, nhưng là bạn của thày ta. Một
người có nhân cách lớn, ta kính trọng. Tết Thượng Nguyên này, Hoàng
giáp mời ta xuống Trại Sỹ Lâm, mục sở thị nơi cửa biển Đại Nha đang
được khai khẩn. Nếu muốn, ta có thể cùng Hoàng giáp lập ấp, mở mang
cửa biển này. Đây cũng là ước nguyện của ta từ lâu. Con về nói lời
đa tạ của ta đến Hoàng giáp. Tết Thượng Nguyên nhất định ta sẽ
xuống.
Bọn học trò Nguyễn Quang Bích [2], Phạm Huy Quang, Bùi Viện… muốn
được tự khiêng võng đưa thày xuống trại Sỹ Lâm. Nhưng Khuê bảo, ta sẽ
đi bộ, các con ở lại bảo ban nhau, chăm chỉ đèn sách. Ta sẽ quay về
sớm thôi. Nói rồi, Khuê chỉ dẫn theo Bá và thứ nam Doãn Vị, cùng
một số tráng đinh.
Nhìn trại Sỹ Lâm bước đầu Hoàng giáp Phạm Văn Nghị đã khai phá
xong, Khuê ưng lắm. Dẫn Khuê ra ấp Một của trại, Nghị bảo, ta đã viết
khế ước tặng cho ông phần đất phía đông này. Có thể nói, đây là khu
đất ít phèn, đẹp nhất của trại Sỹ Lâm. Khuê cảm động, vái tạ Nghị:
Tiểu đệ thật may mắn, phước đức nhận được ân huệ từ Hoàng giáp.
Để Bá tạm thời ở lại giúp Doãn Vị, Khuê quay về chiêu mộ dân. Hay
tin, điền chủ, gia đình học trò của Khuê cũng xuống tham gia khai
hoang, mở đất, mở trường khá đông. Và từ một cái làng Thư Điền, Khuê
khai phá, mở ra các làng Tây Thành, Chí Thiện khác, thuộc tổng Sĩ
Lâm, huyện Đại An, Phủ Nghĩa Hưng.
Năm 1861, Tự Đức thứ mười lăm, đất nước hai đầu giặc giã, chiến
tranh. Miền Nam, Pháp đánh chiếm các tỉnh miền Đông, ngoài Bắc giặc
trong nước cấu kết với phỉ Thái Bình thiên quốc nhà Thanh đánh phá Tây
Bắc, qua vùng ven biển Đông Bắc, xuống giáp gianh đồng bằng. Cùng đó,
khoa thi Hương ở Sơn Tây thiếu người có khả năng làm quan chủ khảo,
càng làm cho Tự Đức lo lắng hơn, nên hỏi Đại học sĩ Trương Đăng Quế:
– Ai có thể làm quan chủ khảo khoa thi Hương này?
Im lặng trong giây lát, rồi Quế bật nhớ ra:
– Thưa bệ hạ, còn một người tài năng, dũng trí không kém Đốc học
Nam Định Phạm Văn Nghị.
– Ai? Tự Đức chộp lấy hỏi.
– Đó là Doãn Khuê. Hiện nay Khuê đang dạy học và cùng Nghị khai
khẩn đất đai vùng cửa biển Đại Nha, phủ Nghĩa Hưng.
– Có phải Khuê đã từng làm Giám sát ngự sử thời Tiên đế và là
em cố Thượng thư Bộ Binh kiêm Đô ngự sử Doãn Uẩn.
– Dạ, thưa đúng vậy.
Như trút được gánh nặng, ngay trong ngày Tự Đức hạ chỉ, bổ Khuê
làm Đốc học Sơn Tây, kiêm quan chủ khảo khoa thi Hương.
Nhận chiếu chỉ, Khuê buộc phải để thứ nam Doãn Vị lo công việc
khai hoang, đèn sách giao cho bọn Nguyễn Quang Bích, Phạm Huy Quang, lên
đường nhậm chức. Khoa thi Hương vừa hoàn tất, bọn phỉ nhà Thanh (giặc
Thanh) đánh chiếm xuống tận các phủ Vĩnh Tường, Quốc Oai. Khuê liền
dâng biểu lên triều đình cho tuyển mộ các cử nhân, tú tài, thủ dõng, thí
sinh khoa thi Hương vừa qua cùng tham gia đánh giặc. Được sự đồng ý của
triều đình, các sĩ phu, tráng đinh tham gia rất đông đảo. Khuê chia binh
thành ba đạo. Đạo thứ nhất đích thân Khuê cùng Bá tiến đánh phủ
Vĩnh Tường. Đạo thứ nhì do Doãn Chi con cả của ông đánh chiếm lại
phủ Quốc Oai. Đạo thứ ba do thứ nam Doãn Giốc, và người cháu Doãn
Trứ truy kích bọn tàn quân đang đóng chiếm Hạ Hòa. Cùng lúc cả ba
đạo quân đánh tái chiếm, giặc Thanh chống cự không nổi, bỏ chạy. Khuê
ra lệnh truy kích đến cùng.
Lúc này, mặt trận Thái Nguyên cũng giao tranh ác liệt. Tri phủ
Doãn Chính (con Doãn Uẩn) cháu của Khuê đang bị giặc Thanh vây hãm
tại Phú Bình. Được tin, Khuê cấp báo cho Doãn Chi, và Doãn Giốc phải
san binh thành ba đạo. Đạo thứ ba do Doãn Trứ chỉ huy, thay ông tiếp
tục truy kích giặc. Còn đích thân Khuê và Bá lên Phú Bình giải cứu
Doãn Chính. Đến nơi, giặc Thanh vừa chiếm được Phú Bình. Khuê cho
phục binh ở ngoài. Chờ đến đêm giặc say sưa mừng vui chiến thắng,
không đề phòng, Bá dẫn quân cảm tử đánh thẳng vào trung quân. Tên chủ
tướng ngơ ngác, chưa kịp nhận biết quân nào, và từ đâu đến, đã bị
Bá chém bay đầu. Bị bất ngờ, và chủ tướng đã chết, nhưng giặc
chống cự quyết liệt. Bá múa đao vun vút lao vào. Lưỡi đao đi đến đâu
đầu giặc rụng đến đó. Giặc kinh sợ, tìm đường tháo chạy, nhưng bị
phục binh của Khuê ở ngoài giết và bắt sống hết. Nghe nói, sau trận
này bọn phỉ nhà Thanh nghe tên Nguyễn Bá đều vãi linh hồn.
Vào thành, Khuê mới hay, do bị vây hãm hết lương thực nhiều ngày,
không được tiếp tế, cứu binh, sức lực đã cạn kiệt Doãn Chính đã
nhảy xuống sông tuẫn tiết. Ngay trong đêm, Khuê đốt đuốc chạy xuôi theo
con nước tìm Chính. Tiếng khóc than, như lời tạ tội với Doãn Uẩn,
khi không cứu được Chính của Khuê vẳng lên trong đêm làm cho các nghĩa
sĩ ai cũng phải rơi lệ.
Lúc này, Tổng đốc Tam Tuyên Bùi Ái bị thương và mất, mọi sự việc
đều do Khuê gánh vác. Tự Đức xuống chiếu cho Khuê thụ chức Tổng đốc
Tam Tuyên và Bá lĩnh chức Lãnh binh. Nhưng Khuê và Bá dâng biểu, chỉ
nhận tạm thụ phong, hết chiến tranh sẽ về dạy học. Tháng chín năm
1862 Khuê lần lượt đánh chiếm lại bốn phủ, huyện Thanh Ba, Lâm Thao,
Yên Lập, Văn Chấn, và bắt sống, xử tử tại chỗ hai tướng giặc. Trong
khi đó hai cánh quân của Doãn Giốc và Doãn Trứ bị quân tiếp viện
của địch đánh chặn, cùng với bọn tàn binh quay lại vây hãm. Được
tin, Doãn Chi quay lại ứng cứu. Trong trận kịch chiến cuối cùng ở Tam
Tuyên ấy, tuy quân giặc bị tiêu diệt hoàn toàn, nhưng Doãn Giốc và
Doãn Trứ đã tử trận. Được tin này, Khuê lặng người. Khi ấy, Khuê đang
giúp Tổng thống Hải An quân vụ Nguyễn Tri Phương đưa quân từ Tây Bắc về
dẹp giặc ở đạo Đông Bắc. Đó là vào cuối tháng mười cùng năm 1862.
Vậy là, Tam Tuyên tạm ổn định, Khuê trả lại chức Tổng đốc, và Đốc
học cho triều đình trở về quê dạy học.
Nhưng năm sau Tự Đức xuống chiếu một lần nữa, buộc Khuê phải trở
lại chốn quan trường. Khi nhậm chức Chánh sứ vùng duyên hải Bắc Bộ,
kiêm Đốc học Định An, việc đầu tiên của Khuê dâng sớ lên Tự Đức đòi
chém đầu chánh sứ Phan Thanh Giản và phó sứ Lâm Duy Hiệp, hai kẻ ký Hiệp
ước Nhâm Tuất 1862. Với Khuê, chỉ có chém đầu hai người này, mới có
thể phá bỏ hiệp ước bán nước ấy. Và giảm đi sự căm phẫn của sĩ
phu, cũng như những cuộc chống đối biểu tình của các sĩ tử thi Hương
ở Hà Nội và Nam Định.
Nhận được sớ đòi chém hai quan đại thần, và hay tin các sĩ tử thi
Hương thành Nam của Khuê nổi loạn phản đối Hiệp ước Nhâm Tuất 1862,
Tự Đức nổi giận đòi bắt ngay khuê trị tội. Nhưng Đại học sĩ Trương
Đăng Quế can ngăn:
– Khuê là người tài, bộc trực, được giới nho sĩ, sĩ tử kính
trọng. Nếu bệ hạ bắt hắn trị tội, chẳng khác gì đổ dầu vào lửa
lúc này. Theo hạ thần, nhân lúc này, Bệ hạ triệu Khuê về kinh, không
những không trị tội mà còn thăng chức, giao cho hắn thêm công việc mở
thương cảng sắp tới. Bởi, công việc này, trong triều hiện nay, không ai
có thể làm tốt hơn Khuê. Có được như vậy, hắn chẳng tận tụy hết
lòng, còn thời gian nào để liên doanh với các huyện, phủ, hoặc tụ
tập đám sĩ tử đồng đơn kháng cáo nữa. Đó là, một công đôi việc
chẳng tốt hơn sao, thưa Bệ hạ?
Tự Đức sực tỉnh, nén giận, gật gù:
– Ngươi hãy giúp ta soạn chiếu, vời Khuê cùng với Đào Trí, Tổng đốc
Hà Nội, người có kinh nghiệm thủy thổ Nam Định, về kinh ngay.
Nhận được chiếu hồi Kinh, tuy hơi bất ngờ, nhưng Khuê rất bình
thản. Bá lo lắng, sợ sau chiếu chỉ có điều gì đó khuất tất chăng,
nên khuyên Khuê chưa nên về Kinh vội. Khuê bảo, việc ta làm là vì nước,
vì dân có gì mà phải sợ. Hơn nữa, Tự Đức cũng là vị Vua thẳng
thắn. Ngài muốn bắt tội ta thì thiếu gì cách, việc gì phải làm
vậy, để mang tiếng với người đời ư. Hôm đi, một số học trò muốn đi
cùng, nhưng Khuê chỉ cho một mình Bá theo…
Khi vào triều, Khuê thấy Nguyễn Tri Phương, Đào Trí, và bọn Trương
Đăng Quế, Trần Đình Túc, Nguyễn Huy Tề… đã ở đó. Khuê khấu đầu
chào, Tự Đức vui vẻ nói: Việc thông thương bằng đường biển rất
quan trọng và lâu dài. Do vậy, Đào Trí, Trần Đình Túc, Nguyễn Huy Tề
đã tấu trình, xác định rõ, việc mở thương cảng lớn tại vùng cửa
Trà Lý, thuộc các huyện Chân Định, Tiền Hải, tỉnh Nam Định. Dứt
câu, Tự Đức quay sang Khuê: Đại học sĩ Trương Đăng Quế và Tổng đốc
Đào Trí đã tiến cử Doãn Khuê thụ chức Doanh điền sứ cai quản việc
xây dựng thương cảng, ý ngươi thế nào? Khuê nói ngay: Thưa bệ hạ, vùng
cửa Hạ Lý dòng chảy hẹp, luôn thay đổi, lượng phù sa bồi lắng rất
lớn. Nếu xây dựng ở đó, hàng năm phải nạo vét lòng sông rất vất
vả, thương cảng không thể phát triển. Do vậy, không nên xây dựng ở đó.
Vậy, theo ngươi xây ở đâu thì thích hợp? Tự Đức cắt ngang lời Khuê.
Theo hạ thần, ta nên xây dựng ở vùng cửa sông Cấm, Ninh Hải thuộc
tỉnh Hải Dương. Nơi đây, lòng sông rộng, nước sâu, ít phù sa và gió
bão. Nó cũng gần cửa sông Bạch Đằng thuận lợi đường thủy thông
thương với Hà Nội và các tỉnh. Tự Đức trầm ngâm, lưỡng lự. Không
khí nặng nề, các đại thần đều im lặng. Đột nhiên, Tổng đốc Hải An
Nguyễn Tri Phương tâu bẩm: Thưa Bệ hạ, nhiều năm chinh chiến, và trông
coi vùng Duyên hải, sông Cấm cho đến nay, hạ thần thấy lời Doãn Khuê
rất chính xác. Sau Phương, có một số đại thần cùng đồng thuận ý
kiến của Khuê. Tuy đồng ý chuyển sang xây thương cảng ở cửa sông Cấm,
nhưng Tự Đức vẫn bảo Khuê, việc hệ trọng, xem xét lại, viết bản tấu
trình chi tiết, cụ thể. Và hỏi Khuê còn có yêu cầu gì không? Khuê
bảo, chỉ cần một người. Tự Đức cười, ngươi có thể chọn bất kỳ ai
ở đây. Không, thưa Bệ hạ người đó không ở đây. Vậy là ai, ở đâu? Thưa,
hắn là học trò cũ của thần. Một người đại tài, nhưng thi Hương, thi
Hội nhiều lần chỉ đỗ đến Cử nhân. Về đo lường, tính toán, thực địa
của người này, thần nghĩ, hiện nay Đại Nam ta chỉ có một. Hắn tên
Bùi Viện, sinh năm1839, người làng Trình Phố, tổng An Bồi, huyện Trực Định,
phủ Kiến Xương, tỉnh Nam Định. Tự Đức ngạc nhiên và vui mừng: Được, Bùi
Viện từ nay sẽ phụ tá ngươi, xong việc sẽ phong tước, ban thưởng.
Khi đang cùng Bùi Viện vận lộn ở sông Cấm, Ninh Hải dựng xây thương
cảng, Khuê được tin giặc Pháp từ Ninh Bình đánh sang Nam Định. Cả đời
đã nhiều lần cầm binh đánh giặc, nhưng lần này chiến trường ngay trên
quê hương, làm Khuê nóng rực trong người, dù tuổi cao, sức đã cạn.
Bàn giao lại công việc cho Bùi Viện, Khuê cùng Bá đi suốt đêm về Cao
Lộng. Sau khi báo tin cho con cả Doãn Chi đang là tri huyện Chân Định
và thứ nam Doãn Vị ở Thư Điền, phủ Nghĩa Hưng mang quân tiếp ứng,
Khuê kéo binh về hợp với Phạm Văn Nghị cùng Lãnh binh Nguyễn Văn Lợi
chặn đánh địch ở Độc Bộ. Rồi Khuê kéo binh về thủ thành Nam Định.
Cuối năm 1873 giặc tấn công dữ dội, thành Nam Định bị phá vỡ. Khuê
dẫn binh chạy về Đông Vinh, liên kết với Nguyễn Mậu Kiến ở Động
Trung. Và từ đây mặt trận tả sông Hồng là nơi chống Thực dân Pháp
quyết liệt nhất những năm cuối đời Khuê…
Và chuyện kể rằng, những ngày cuối năm 1878, người ta thường thấy
hai ông già Doãn Khuê và Nguyễn Bá dìu nhau đi trên con đường làng
Ngoại Lãng. Có điều kỳ lạ, hai cụ mất gần cùng ngày, chôn cất cùng
nơi. Nhưng ngày nay, dường như không ai nhắc đến Nguyễn Bá, kể cả các
nhà nghiên cứu sử học.
Leipzig ngày 30-9-2017
Đỗ Trường
[1] Và quả thật như vậy, sau này Dương Khuê đỗ tiến sĩ, khoa thi
1868, làm quan đến chức Thượng thư. Dương Khuê là nhà thơ, tác giả của
bài ca trù nổi tiếng: Gặp lại cô đầu cũ…hồng hồng, tuyết tuyết. Và
cũng là người bạn, để Nguyễn khuyến viết bài thơ: Khóc Dương Khuê.)
[2] Nguyễn Quang Bích (tức Ngô Quang Bích) đỗ Đệ nhị giáp tiến sĩ đình
nguyên (tức Hoàng giáp) năm 1868, làm quan tri phủ, nhà chống Pháp nổi
tiếng thế kỷ 19.