Tôi không coi phim The Vietnam War
của PBS. Vài người bạn rủ đi dự buổi chiếu giới thiệu ở một đài PBS địa phương,
tôi suy nghĩ và cuối cùng không đi.
Nhưng điều đó không có nghĩa tôi
chống lại việc coi phim Vietnam War. Thế hệ trẻ sinh ra và lớn lên sau cuộc
chiến, nhất là các em ở trong nước có cơ hội nhìn vài góc cạnh mà đảng CS từng
che giấu.
Dù không gian rất hẹp, thời
lượng rất ngắn, hình ảnh thiếu khách quan cũng giúp cho các em suy nghĩ, nghi
ngờ các khẩu hiệu tuyên truyền của đảng và tự mình tìm hiểu thêm. Đường còn
dài, một bộ phim 18 giờ không nhất thời có thể làm thay đổi một nhận thức đã bị
nhiều năm nhào nặn trong nền giáo dục một chiều nhưng đâu đó trong ý thức của
các em sẽ vang lên một vài câu hỏi mà trước đó các em chưa từng nghĩ đến.
Một trong những khẩu hiệu quen thuộc
mà các em thường nghe, cuộc chiến Việt Nam là cuộc chiến “chống thực dân mới đế
quốc Mỹ”. Suốt hơn nửa thế kỷ, “thực dân mới đế quốc Mỹ” đồng nghĩa với
tất cả xấu xa, tội ác trên đời, nhưng bao nhiêu em sinh viên, học sinh Việt Nam
thật sự hiểu khẩu hiệu đó có nghĩa gì?
Tinh thần của Hiến chương Đại Tây
Dương do TT Franklin Roosevelt soạn thảo kêu gọi tôn trọng quyền tự quyết dân
tộc được thay bằng chủ thuyết Truman với các biện pháp cứng rắn nhằm ngăn chận
sự bành trướng của chủ nghĩa CS.
Nam Hàn, Nhật Bản, Hy Lạp, Thổ Nhĩ
Kỳ, Tây Đức và hàng loạt các nước Châu Âu khác nằm trong ảnh hưởng của chủ
thuyết Truman sau Thế chiến Thứ Hai và ngày nay chẳng những không bị “thực dân
mới hóa” mà đều trở thành cường quốc kinh tế.
Có gì sai trong chủ trương của TT
Truman nhằm ngăn chận Trung Cộng chiếm đoạt và đồng hóa cả Việt Nam?
Một người có nhận thức chính trị căn
bản và biết căm phẫn khi một phần lãnh thổ chiến lược về kinh tế và quân sự của
Việt Nam đang bị Trung Cộng chiếm đoạt đều hiểu chính sách của TT Harry Truman
là cần thiết.
Tuổi trẻ Việt Nam đến tuổi biết đọc
đều chỉ đọc những câu trả lời có sẵn, đây là lúc để các em đặt câu hỏi cho mình
và sau đó đặt ra cho đảng CSVN.
Tôi không xem vì tôi tin mình đã
đọc, hiểu và tiếp xúc đủ với cách nhìn về cuộc chiến Việt Nam qua lăng kính của
Mỹ.
Các bình luận từ phía truyền thông
Mỹ cũng như các phản ứng từ cộng đồng Việt Nam sau đó cho thấy quyết định không
xem phim của mình là đúng.
Tôi không muốn ám chỉ trực tiếp đến
những người làm phim nhưng rõ ràng phần đông những người Mỹ hoạt động tích cực
sau chiến tranh Việt Nam là những người trước đây cũng tích cực trong các phong
trào phản chiến. Tương tự, những người Mỹ đã và đang nỗ lực để “hòa giải” với
kẻ thù, “hàn gắn” những vết thương do chiến tranh gây ra cũng là những người
trước đây hoạt động tích cực trong các phong trào phản chiến Mỹ.
Nhớ lại vào hai mùa hè năm 1999 và
năm 2000, tôi được Tổ Chức Cộng Đồng Việt Nam Massachusetts đề cử cùng một số
nhà văn ở hải ngoại tham dự các buổi hội luận về chiến tranh và hậu quả xã hội
tại University of Massachusetts at Boston. Qua những buổi thảo luận đó tôi có
cơ hội lắng nghe quan điểm của nhiều nhà văn, nhà thơ Mỹ. Phần đông trong số họ
là những người có quan điểm phản chiến và đã từng sinh hoạt trong các phong
trào phản chiến tại Mỹ trước năm 1975. Tâm lý phản chiến, vì thế, cũng phản ảnh
sâu đậm trong thơ văn của họ.
Một đặc điểm của tâm lý phản chiến
là chọn đứng về phía kẻ thù thay vì phía bạn. Những người phản chiến luôn ca
ngợi hòa bình, tình nhân ái, lòng bao dung, tinh thần hòa giải nhưng thường
dành cảm tình cho những kẻ gây ra tội ác hơn là cho phía nạn nhân.
Khi nghiên cứu về chiến tranh Việt
Nam họ chỉ dựa trên hai quan điểm, quan điểm của người Mỹ và quan điểm của nhà
cầm quyền Cộng Sản Việt Nam, trong khi đó, gần như hoàn toàn bỏ quên quan điểm
thứ ba, cũng không kém phần quan trọng, đó là quan điểm từ phía Việt Nam Cộng
Hòa. Thái độ đó phản ảnh mặc cảm bại trận, thiếu khách quan về điều kiện chính
trị xã hội tại Việt Nam và thiếu đạo đức đối với những người đã một thời cùng
chiến đấu với họ.
Khi mời các nhà thơ, nhà văn mang
được nhà cầm quyền Cộng Sản chỉ định hay cho phép sang tham dự hàng năm, họ
không biết rằng, những ngưòi họ thật sự cần hòa giải là những thương phế binh
đang vá xe nuôi một bầy con ở góc đường Hà Nội, là những “cô gái Trường Sơn”
ngồi khóc tuổi thanh xuân không bao giờ trở lại trong căn nhà tập thể chật hẹp
ở Thanh Hóa, Hải Phòng.
Khi chọn đứng về phía những người
bên kia chiến tuyến, họ hoàn toàn không quan tâm đến những người đã từng nằm
chung trong một căn hầm, dựa lưng nhau trên từng bao cát, cõng họ vượt qua vùng
lửa đạn, sớt chia họ họ từng giọt nước. Có bao giờ họ hỏi những người đó bây
giờ ở đâu, còn sống hay đã chết? Gác qua một bên các mục tiêu chính trị,
ai đúng ai sai, nếu không có những người lính VNCH đó, liệu họ còn sống để lên
máy bay về với gia đình chăng?
Buổi chiều mùa hè năm 1999 tại
Boston, những người phản chiến Mỹ ngạc nhiêu khi tôi giới thiệu những người
đang ngồi trước mặt họ trong căn phòng ở đại học UMASS-Boston là những
người đã nhiều năm bị đày đọa trong những nhà tù CS, và cũng là những người
từng sát cánh bên họ trong những đoạn đường sinh tử.
Khi nghiên cứu một cuộc chiến cũng
giống như những bồi thẩm đoàn đang tìm hiểu một tội ác, tiếng nói quan trọng
nhất ảnh hưởng đến quyết định của bồi thẩm đoàn, ảnh hưởng đến phán xét của bồi
thẩm đoàn, không phải là tiếng nói của bị can, cũng không phải do lời kết tội
hùng hồn của biện lý mà là từ nỗi đau, sự thiệt hại và bằng chứng từ phía nạn
nhân. Nạn nhân của chiến tranh Việt Nam là ai nếu không phải chính nhân dân
Việt Nam, nhất là nhân dân miền Nam Việt Nam bởi vì nơi đó là trận địa.
Phong trào phản chiến ở Mỹ trước
1975 cũng lan rộng sang các nước Châu Âu. Lãnh tụ các phong trào phản chiến
Châu Âu ca ngợi Cộng Sản Việt Nam bằng giọng điệu gần như rập khuôn theo bộ máy
tuyên truyền CS. Một nhà thơ Châu Âu nào đó từng mơ ước sáng mai thức dậy trở
thành người Việt Nam và câu nói đó đã được phát tới phát lui mỗi sáng trên các
loa đầu phố.
Hành động nhân đạo bao giờ cũng cần
được khuyến khích nhưng hành động đó phải phát xuất từ tình người chân thật
thay vì từ mặc cảm cá nhân hay ganh tỵ quốc gia như các phong trào phản chiến
châu Âu đối với chính quyền Mỹ.
Thái độ của những người phản chiến
Châu Âu đối với chiến tranh tại Việt Nam trước đây không khác gì đối với chiến
tranh tại Iraq mới đây.
Chính những phong trào được mệnh
danh hòa bình này đã vận động người sang Iraq làm thành những vòng chắn người
(Human shields) để bảo vệ cho chế độ Saddam Hussein khi liên quân Anh Mỹ chuẩn
bị dội bom Baghdad. Các lãnh tụ hòa bình, phản chiến đó ở đâu khi tên đồ tể
Saddam Hussein và tập đoàn tàn sát hàng trăm ngàn người dân Kurds, kể cả trẻ em
vừa mới ra đời, bằng những phương tiện vô cùng phi nhân như hơi ngạt và vũ khí
vi khuẩn.
Chiến tranh tại Việt Nam là một cuộc
chiến đầy ngộ nhận và được nhìn từ những lăng kính khác nhau. Bộ phim Vietnam
War của PBS cũng thế. Bộ phim lần này có thể khác với bộ phim ba chục năm trước
nhờ kỹ thuật và tiếp cận với các nguồn thông tin, nhưng về quan điểm, vẫn còn
quá sớm để giới sử học Mỹ có cái nhìn sâu xa, khách quan và toàn diện về cuộc
chiến. Ai cũng có thể viết, có thể nhìn về một cuộc chiến tranh nhưng
lịch sử đích thực của một dân tộc, trong trường hợp này là Việt Nam, cuối cùng,
vẫn phải do chính dân tộc Việt Nam viết.
Trần Trung Đạo