(Trường Tiểu Học Thạnh Mỹ Tây II-Thị Nghè)
Các bạn rất cũ. Lâu quá không gửi thư cho nhau, có lẽ cũng
do chúng mình ở xa nhau quá, tuổi mỗi ngày một nặng thêm nên lười, rồi lúc nhớ
lúc quên, cứ nói sẽ viết, tiếp theo là sẽ quên. Hôm nay bỗng nhớ đến các bạn,
và thấy cần phải viết để chia sẻ với các bạn một điều mà chúng ta đã và vẫn
chia chung. Cả hai tuần nay từ lúc bắt đầu chiếu phim về Chiến Tranh Việt Nam
trên truyền hình, tôi nhận được rất nhiều bài viết, nhiều phản ứng về bộ phim
này.
Chúng mình là bạn từ thời Tiểu Học 1954, theo cha mẹ chạy Cộng
Sản vào Nam. Đi ra từ chiến tranh, sống trong chiến tranh, rồi lại chạy ra khỏi
chiến tranh. Chặng đường hơn 20 năm thật quá dài, nhưng khi đã hết chiến tranh
(ít nhất là với chúng mình), sống rải rác trên địa cầu hơn 40 năm thanh bình, vẫn
chưa thoát ra khỏi hai chữ “chiến tranh”.
Đọc những bài viết nhận định về bộ phim 10 kỳ liên tiếp này.
Nhiều người phân tích rành rọt về Cộng Sản, về Quốc Gia, về Đồng Minh Mỹ rất
chi tiết, rất tỉ mỉ. Dù phân tích đó rất nông cạn hay rất thuyết phục, nhưng cuối
cùng còn lại hai chữ “Chiến Tranh”, dù nhìn bằng góc cạnh nào chăng nữa cũng vẫn
đau lòng.
Những con số người chết cho cuộc chiến này, con số trận đánh
hai bên, con số những trận bom rải thảm. Con số người chết trong “Trại Cải Tạo”,
chết “Vượt Biên Giới” chết “Vượt Biển” và Đồng Minh chết cho đất nước bạn. Có cố
nói thế nào, biện minh ra sao, thì cái phần đau đớn hậu quả đó không lấy bất cứ
“lý lẽ” gì mà cứu vãn được. Chỉ có thể kết luận là “rùng mình”
Cái hậu chiến tranh giống như khói hun vào phổi chúng ta,
không thể nào lấy ra được. Chúng ta sống với buồng phổi đó cho đến lúc chết.
Chiến tranh Nam - Bắc Việt Nam dù được suy diễn cách nào, dù
đặt tên cuộc chiến là gì ta cũng thấy rõ ràng là “Huynh Đệ Tương Tàn”. Những
người lính sau một trận chiến, chết nằm úp mặt, lật lên máu đỏ da vàng, nếu còn
thoi thóp sẽ nói cùng ngôn ngữ với ta. Cộng Sản hay Quốc Gia lúc đó chỉ còn trơ
ra một hình hài “Việt Nam” khốn khổ. Ta chỉ còn biết thốt lên:
“Trời ơi những xác thây la liệt
Con ai, chồng ai, anh em ai?” (Tô Thùy Yên)
Từ lúc nào chúng ta đã khóc cho chiến tranh và chúng ta sẽ lại
phải khóc vì chiến tranh vào lúc nào nữa, trong khi thế giới càng ngày càng hoảng
loạn, căng thẳng. Có thể chúng ta không còn cơ hội khóc nữa vì chúng ta đã quá
già nua và sắp ra khỏi đời sống, nhưng con, cháu, chắt chúng ta liệu có bình
yên mãi được không?
Tôi nhớ lại một bài Thơ khóc con của Rudyard Kipling, nhà
văn, nhà Thơ người Anh nổi tiếng với cuốn tiểu thuyết cho trẻ em, The Jungle
Book (1894), con trai ông, Thiếu úy John Kipling của quân đội Anh đã tử trận
trong Trận Loos, ở vùng Artois của Pháp trong Đệ I Thế Chiến và không tìm thấy
xác. Ông không khóc riêng cho con trai mình, mà cho tất cả những người con đã
hy sinh trong Đệ I Thế chiến (*)
That flesh we had nursed from the first in all cleanness
was given…
To be blanched or gay-painted by fumes – to be cindered
by fires –
To be senselessly tossed and retossed in stale mutilation
From crater to crater. For this we shall take expiation.
But who shall return us our children?
Da thịt con tinh khiết
Cha mẹ nuôi ấu thơ
Khói đã nhuộm xám đen
Bom đốt thành tro bụi
Xác con ném qua lại
Trên những hố những hầm
Xác con đã nổ tung
Chúng ta sẽ đền bù
Những điều đã xẩy ra
Nhưng ai sẽ trả lại
Con thân yêu cho ta (tmt dịch)
Người chồng chết, người vợ trẻ còn đàn con nhỏ để tìm niềm
an ủi trong vất vả hy sinh. Người con chết, cha mẹ không tìm ra điều gì thay thế
vào được.
Có người nói “Bộ phim Vietnam War chỉ cốt chống chế cho thể
diện của Mỹ hơn là sự trung thực cho cuộc chiến.”
Hãy đọc một bài Thơ về sự trung thực trong cuộc chiến này của
Kyle Schlicher (USMC 5/15/1968) Một người lính trong quân đội Đồng Minh Mỹ.
They Didn't Know
he lay there
under the sun
dried blood on his lips.
the heat was oppressive.
his clothes were dusty,
dark blotches on them.
i could see the ants
moving,
entering him
and
exiting him.
how i hate this place!
how i hate the people
who are responsible
for all this unbelievable madness.
how i hate myself
for volunteering to be here!
i watched the ants crawling
over the body.
i wanted to hate them too!
but
they didn't know
and
the hating
had to stop somewhere.
Chúng Chẳng Biết Gì Đâu
chàng nằm đó
dưới mặt trời
máu khô trên môi
sức nóng nung người
quần áo chàng bẩn thỉu
bầm đen từng mảng
tôi thấy những con kiến
chuyển động
chúng vào trong chàng
rồi
ra khỏi chàng
sao tôi ghét nơi này thế
sao tôi ghét mấy người này thế
mấy người có trách nhiệm
cho những điên cuồng không tưởng
sao tôi ghét cả chính tôi thế
sao lại tự nguyện tới đây
tôi nhìn những con kiến bò
qua lại trên xác chàng
tôi muốn ghét luôn chúng nữa
nhưng
chúng chẳng biết gì đâu
và
cái sự ghét này
phải chấm dứt ở một nơi nào đó.
Hai đoạn của hai bài thơ tiếp theo, của người lính miền Nam
và một của người miền Bắc.
Hình như cây súng con lạ lắm
Sao nó run lên khi đạn lên nòng
Tâm hồn nó như tâm hồn con vậy
Một kẻ nằm, kẻ đứng, xót xa không?
Trước mặt con: những ngọn đồi cát máu
Đêm thì thầm cùng những nấm xương
Ôi, trái tim con mãi tôn thờ Má
Đã dạy con hai tiếng yêu thương.
(Nguyễn dương Quang trong bài Đêm cuối năm viết cho Má)
Buổi chiều sau chiến tranh
Ngày trở về
anh đi lệch một bên
Một ống quần
phất phơ trong gió...
Bà mẹ nghèo lẩy bẩy
Ra ngõ đón con
Con dìu mẹ, mẹ dìu con
Hai dấu chấm khép chiều nắng lửa...! (Trần Sĩ
Tuấn)
Các bạn của tôi ơi! Ngày 23 tháng 10 này tôi sẽ nhận lời
mời của Thư Viện Seattle đến nghe bà Lynn Novick nói về công việc làm một cuốn
phim về chiến tranh thế nào. Tôi sẽ đọc một bài thơ về cảm nghĩ của mình khi
xem phim về chiến tranh (Theo yêu cầu của Thư Viện). Tôi sẽ không dự buổi bình
luận về cuộc chiến trong phim, đó không thuộc khả năng hiểu biết của tôi, vì
ngay cả Ken Burns và Lynn Novick những người hàng đầu về làm phim chiến
tranh đều thừa nhận “Cuộc chiến Việt Nam” là chủ đề khó khăn và phức tạp
nhất mà họ từng thực hiện khi có quá nhiều luồng quan điểm, quá nhiều cách nhìn
nhận từ các đối tượng khác nhau. Khi được hỏi vì sao lựa chiến tranh Việt Nam,
mở lại những hồi ức đau thương và tranh luận cay đắng không có hồi kết, hai đạo
diễn cho rằng “Việt Nam” vẫn là công việc còn dang dở của nước Mỹ. Không có ai
thực sự hiểu cuộc chiến đã xảy ra thế nào và những người trải qua nó phải chịu
đựng ra sao.
(Trích: Nghiencuuquocte.net)
Đến bao giờ nước Mỹ mới hết những công việc dang dở này
trên thế giới?
Những người bạn thời “Tiểu Học” của tôi. Những: Nam,
Giáo, Tâm, An, Hà 1, Hà 2, Bình, Hạnh, Giao ơi! Hãy yêu thương Việt Nam mình với
trái tim của thời tuổi dại, hãy cố quên đi những người thân yêu trong gia đình
mình, những người bạn của mình đã chết ở Bắc hay Nam, vì AK-47, vì B-40, hãy cố
tha thứ và thương yêu như trong một câu Thơ của người góa phụ trẻ miền Nam đã
viết:
Anh tặng em mùi máu
Trên áo trận sa trường
Máu anh và máu địch
Xin em cùng xót thương.(tmt)
Trần Mộng Tú
(*) Joshep Rudyard Kipling 1865-1936- Nobel Văn Chương
1907
9/30/2017