1.
Ở Sài Gòn, vào đầu những năm 60, ba mẹ tôi dọn nhà về khu Đồng Ông Cộ, gần
chợ Bà Chiểu. Cứ khoảng nửa đêm về sáng, đô thành còn say ngủ, chợt nghe êm ả
làm sao tiếng xe ngựa lốc cốc chở rau, chở hoa vào chợ. Hay vào các mùa Tết
nguyên đán, cứ sau ngày 23 đưa ông Táo về trời là có chợ Tết ban đêm họp tại
khu vực xung quanh Lăng Ông, sát bên tòa tỉnh trưởng Gia Định.
Những đêm chợ Tết xa xưa ấy, tôi nhớ mặt hàng Tết năm nào cũng mứt, trà,
rượu, bánh, kẹo…, cũng như không bao giờ vắng mặt kem đánh răng “anh Bảy Chà”,
xà bông Cô Ba và dầu cù-là Mac Phsu. Có điều là bên cạnh những đồ Tết theo
truyền thống ấy, luôn luôn có một loại hàng thực phẩm rẻ tiền, thậm chí là tầm
thường vì quá quen thuộc hằng ngày, cũng khiêm tốn xuất hiện trong chợ Tết – đó
là các loại rau cải. Khi vào chợ, chỉ bước đến gần gần các sạp bán rau cải thôi
là đã ngửi được mùi thơm dễ chịu, ngọt ngào của mấy thứ rau thơm, xà lách, tần
ô, dền ớt, dền đỏ, cải thảo, cải ngọt, cải bẹ xanh, bồ ngót.v.v…, mà xưa nay
giới tiểu thương gọi chung là đồ hàng bông.
Không rõ do nguồn ký ức thầm kín nào mà giờ này, đã hơn nửa thế kỷ trôi qua,
mùi thơm của rau xanh vẫn luôn luôn sống khỏe trong cái tật hiếu cảm của tôi.
Thơm nhất, thơm ngát đến thèm ăn ngay là rau húng quế vì loại rau thơm này
khiến tôi liên tưởng ngay đến một món khoái khẩu – tô phở tái nghi ngút khói,
ngon tuyệt vời! Cao sang hơn và làm đẹp hơn cho chợ Tết là các loại hoa đầy màu
sắc tươi tắn, như: vạn thọ, thược dược, cúc vàng, mãn đình hồng… Và từ những năm
tháng ấy, tôi mới được biết là ở vùng Gò Vấp, đất Gia Định tôi ở, từ xa xưa đã
có nghề làm vườn, trồng rau vốn nuôi sống nhiều gia đình nông dân ở khu vực
ngoại ô Sài Gòn.
2.
Sau biến cố 30-4, đâu khoảng những năm cuối thập niên 70, nhiều lần tôi đạp
xe về khu vực nghĩa trang Vạn Thọ, thuộc phường 11 quận Gò Vấp ngày nay để thăm
mảnh vườn của vợ chồng Tư Nhíu. Chúng tôi đã kết bạn khi cả hai, một là sĩ quan
ngụy học tập cải tạo mới về, một là thanh niên thất nghiệp, đều được địa
phương “gợi ý” cho lên đường đi đào kênh, đắp đê, làm lúa đất phèn, trồng bo bo
đất gò… ở một nông trường nằm ở vùng Củ Chi. Rồi nông trường làm ăn hoàn toàn
thất bại, giải thể năm 1979, chúng tôi được xuất ngũ về nhà.
Tôi còn nhớ thời 1979, có một con đường mòn cỏ mọc xác xơ, ngoằn nghoèo chạy
giữa nghĩa trang, hai bên là hàng ngàn ngôi mộ cũ kỹ nằm im lìm dưới ánh nắng.
Ra khỏi nghĩa trang, nhìn xuyên qua những khóm tre là thấy những vạt đất thẳng
thớm, trong số đó có miếng đất xéo xéo của Tư Nhíu, được ươn, trồng đủ loại rau
cải xanh. Có vài chủ đất còn nuôi thêm con bò, con heo và gà, vịt thả vườn.
Lần nào cũng vậy, vừa thấy bóng tôi ngoài hàng rào là lập tức Tư cười hể hả,
ngưng ngay công việc đang làm trong vườn hay réo vợ ra làm thế để bày độ
nhậu lai rai dưới gốc cây chuối ở mé vườn. Thật ra thì bọn tôi không phong lưu,
sung sướng cái thân gì cho lắm. Lần nào cũng cái chiếu rách trải đại dưới đất
đầy lá mục, cũng mổi nhậu cóc, ổi, đậu phộng nấu… Nhưng độc đáo ở đây là chỉ
cách cái chiếu nhậu vài mét là sù sụ mấy ụ phân rác đang được chủ vườn phủ kín
cho hoai dưới nắng trời, luôn luôn ban tặng cho dân nhà vườn cái mùi
hôi nồng nặc và cả mấy “sư đoàn” ruồi, giòi. Được cái là sau thời gian “đi học”
về, cái em sinh viên trắng trẻo rồi anh giáo sư đạo mạo ngày nào đã được “giác
ngộ” bởi thời thế, không còn sợ hãi, thối lui trước cảnh ngồi dưới đất ăn uống
sát bên đống rác, tay không bốc đồ ăn nữa.
Vừa phẩy tay đuổi con ruồi xanh lì lợm đậu trên miệng chén mắm ruốc, tôi vừa
hỏi Tư về một loại phân bón rau còn thấy ớn hơn phân rác hay phân chuồng (phân
trâu, bò) nữa, mà trong trại cải tạo Trảng Lớn (Tây Ninh) tôi đã từng phải sử
dụng (gọi là xử lý phân) theo lịnh cán bộ quản giáo để bón cho rau
muống trồng trên đất với liều lượng lúc nào cũng dư xài vì được lấy thoải mái
từ nhà xí hai ngăn trong trại:
– Nè, cậu có dùng phân bác không đó?
– Anh nói phân bác gì?
– Thì… phân người đó! Mấy tờ báo về nông nghiệp ở ngoài Bắc dùng chữ này.
– À…, hổng phải đâu, tui nghe nói kêu đúng là phân bắc chớ hổng
phải phân bác – chắc chữ này bị nói trại đi. Ở ngoài Bắc chắc là kẹt,
thiếu phân tro dữ lắm nên bà con mới phải xài tới thứ phân này để bón rau, chớ
xưa nay trong Nam mình, như ở đây nè, đâu có ai xài thứ đó. Tui nghe nói là chỉ
có một thời, cũng xưa lắm rồi, đâu ở miệt Phú Lâm, mấy ông Tàu, hay đội cái nón
lá bự bành ki, trồng cải ná, tức cải rổ đó, có lấy thứ đó
phơi nhiều nắng cho khô, rồi giã ra trộn với nước đái, gánh đi tưới. Chà, xài
phân… đặc biệt như vậy thì cây cải chắc là bự, ngọt hết chỗ nói hả?
Dân làm vườn như Tư vốn phải chịu quen với đủ thứ không hề sạch sẽ, thơm tho
gì. Mùi mồ hôi luôn luôn hôi nồng trên người Tư do lao động thường xuyên ngoài
vườn, ngoài nắng với công việc làm hoài không hết. Dọn đất, lên luống, ươn cây
con, rải phân, dọn cỏ, tưới nước, nhổ rau… Chỉ riêng việc tưới thôi mỗi ngày
phải ba bận sáng-trưa-tối. Có lần bị trộm lẻn vô nhà lấy mất cái máy bơm “một
ngựa”, vợ chồng Tư rất khốn đốn. Mùa mưa thì thỉnh thoảng hơi khỏe là có thể bỏ
tưới giấc trưa. Nhưng ngược lại, chính 6 tháng mùa mưa lại làm năng suất rau giảm,
có khi giảm tới phân nửa, vì rau rất dễ hư úng, nhất là đối với loại rau mỏng
lá như xà lách. Dân trồng rau xem mùa mưa là mùa nghịch, thường phải giảm bớt
số lượng rau ươn trồng vì dễ “thua”. Về 6 tháng mùa nắng thì cũng không phải
hoàn toàn thuận lợi, dù thời gian này có dịp Tết nguyên đán để trồng hoa
– dân Nam rặc như vợ chồng Tư nhất định kêu là trồng bông, bán được
tiền hơn rau. Về công chăm sóc thì hoa đòi hỏi người trồng phải chịu khó, chăm
chút hơn trồng rau, đậu. Nhưng đó chỉ là chuyện nhỏ.
Khè một tiếng sau hớp rượu, Tư – dân làm vườn cố cựu mấy đời – mới phân tích
thật rành rẽ:
– Nói nào ngay, để đất trồng rau thì rất mau ăn. Cải ngọt, cải bẹ chỉ cỡ 20
ngày là nhổ bán được rồi. Xà lách thì chăm khó hơn nhưng cũng chỉ 25 ngày, nó
lại chịu lạnh nên mùa gần Tết, trời mát, xà lách rất đẹp, đem bán thiệt ngon.
Còn nếu mình dành đất trồng bông thì cỡ 6 tháng mới bán được. Chừng
tháng 6 ta là phải lo xuống giống mới kịp. Rồi ươn ra chậu, rồi 15 ngày sau lo
cơi ngọn… Và tuy bông nó không ăn phân, tro nhiều hơn rau, nhưng mình
là người trồng, cũng phải ăn cơm để sống, chớ hổng lẽ nhịn đói trong 6 tháng
trồng bông? Tiền vốn mua các giống bông cũng nặng và phải lựa
giống thiệt kỹ, nếu không, lỡ gặp hột ra cây điếc thì thua là cái
chắc.
Đang lai rai, trò chuyện thì chợt một anh hàng xóm của Tư, không chờ tụi tôi
chào hỏi, mời mọc gì, tự tiện vạch hàng rào bông bụp bước qua nhập cuộc.Trò
chuyện mới sơ sịa, xây tua được mới vài vòng thì anh ta chê mồi nhậu
tệ quá và mời tụi tôi qua nhà anh, nghĩa là cũng vạch hàng rào chui qua đất
anh. Lần này chiếu nhậu được trải dưới một giàn đậu cô-ve còn anh chủ thì chạy
vô bếp làm liền một món mà anh hô là hết sức đặc biệt. Té ra chỉ là đậu cô-ve
non vừa hái ngay trên giàn, rửa sơ rồi xào tóp mỡ. Nhưng không ngờ cái món đơn
giản, tầm thường này lại nhậu rất bắt vì ngon miệng lạ thường.
Đang thời cả nước phải ăn độn cơm với khoai, với bắp, bạn bè nghèo chúng tôi
gặp nhau chỉ có bấy nhiêu đó tạm gọi là vui, là hạnh phúc. Cũng cái thời người
dân Sài Gòn bắt đầu biết mùi ăn độn, bà Quốc Việt, vốn là chuyên gia về ẩm
thực, nguyên hiệu trưởng một trường nữ công – gia chánh nổi tiếng, đã lên ti-vi
dạy cho bà con cách chế biến rau muống thành nhiều món ăn khác nhau mà bà ta
cam đoan là đều ngon hay lạ miệng. Lần đó, một chiến hữu của tôi tại
chợ trời thuốc tây Tân Định, anh chuyên gọi “tôn vinh” rau muống là sâm dây,
đã than thở: “Trời ạ, sau cái vụ rau-muống-bảy-món này, chắc là quí ma-đàm Quốc
Việt sẽ dạy tiếp cho quốc dân, đồng bào về món khoai mì, tức là sâm đất
đó mấy cha, thành khoai-mì-mười-món quá! Chịu hết nổi! Thôi chắc tui vượt biên
quá! Mấy cha chịu nổi mà ở lại thì ráng ăn sâm dây với lại sâm đất
cho nó bổ khỏe, còn bổ hơn sâm Cao Ly, sâm Hoa Kỳ nữa lận kìa!”.
3.
Ai “chịu nổi” hay “không chịu nổi” gì thì cuộc sống vẫn thản nhiên trôi đi
theo ngày tháng. Sau mấy năm liền không có dịp gặp nhau vì tôi rời Sài Gòn,
xuống kiếm sống ở quê vợ là Vũng Tàu, tôi trở lại khu nghĩa trang Vạn Thọ thăm
nhà Tư Nhíu thì thấy lạ hoắc, lạ huơ. Nghe nói bà Vạn Thọ, chủ nghĩa trang đã hiến
đất cho nhà nước tự hồi nào và nơi này đã được giải tỏa trắng để qui hoạch
thành Làng Hoa Gò Vấp. Từ một con hẻm cũ chạy bên cạnh làng hoa, người ta phóng
một con đường mới, đặt tên là “Lê Văn Thọ”, hỏi ra mới biết tên “Thọ” này chẳng
dính líu gì tới gia tộc bà Vạn Thọ – người hiến đất để làm làng hoa và con
đường mới này – mà là tên một liệt sĩ nào đó. Còn cái đường mòn chạy giữa
nghĩa địa ngày trước nay đã được cán nhựa và có tên đàng hoàng là đường Cây
Trâm, hai bên đường là cả dãy phố khá sầm uất, nhộn nhịp.
Có điều là, chính trên con đường đóng vai xương sống của làng hoa này
lại khó tìm ra các loài hoa. Chỉ thấy toàn nhà hàng, quán nhậu, quán cà phê,
quán karaoké, tiệm bán điện thoại di động.v.v… Họa hiếm là hai, ba chỗ bán cây
kiểng, hoa chậu hay bày bán các loại tượng đá, tượng xi-măng.
Thời 1979, khi đi trên đường, nhìn qua những hàng tre là thấy ngay những vạt
đất trồng rau nằm cạnh những căn nhà lá hay nhà vách ván như nhà Tư Nhíu. Nay
tre trúc, nhà lá, nhà gỗ gì cũng biến mất mà chỉ có toàn là nhà gạch, nhà lầu
hai, ba tầng trên vĩa hè lát gạch con sâu. Phải bước ra phía sau căn nhà
trệt mới xây của vợ chồng Tư Nhíu mới thấy mảnh vườn cũ. Đất của họ bị giải tỏa
một phần cho con đường nhựa và chỉ còn lại khoảng 1000m2 trồng rau. Tư cùng
những nhà vườn lân cận vẫn trồng những loại rau truyền thống Gò Vấp, như mồng
tơi, dền, rau thơm, xà lách, cải ngọt, cải ná, cải bẹ.v.v… và một ít
xu hào, cải bắp, hành ngò. Nhưng đã Tư nói ngay:
– Đất trồng ở vùng này giảm đến 70 – 80%. Số bà con còn theo nghề chỉ còn
khoảng một nửa. Bỏ nghề cũng phải vì giá đất lên liền liền, đem đất phân lô bán
kiếm tiền, chuyển qua nghề khác khỏe hơn.
– Cậu vẫn có trồng hoa Tết?
-Thì cũng ráng…. Cũng vẫn mấy thứ bông truyền thống thôi, như thược
dược, hướng dương, cúc mâm xôi, sống đời.v.v…Mấy năm qua có thêm vạn thọ Pháp,
bông lớn. Nhưng bông Gò Vấp đang không cạnh tranh nổi với bông
Cái Bè chở ghe lên Sài Gòn, nhiều và rẻ hơn.
Thời đó, cỡ 1 – 2 giờ khuya vợ chồng Tư đã lo nhổ rau, cột bó, để đến 4 giờ
sáng chở đi bán. Do số lượng rau nhỏ nhoi không đáng để Tư chở xuống tận chợ hàng
bông Bà Chiểu, họp từ giữa đêm về sáng ngay trên hè phố mà chỉ chở ra tới
“chợ” rau ngã tư Lê Văn Thọ – Phạm Văn Chiêu, cách nhà chừng 1 cây số. Nhưng
phải coi chừng… Cứ khoảng 4 giờ sáng, dân trồng rau trong vùng tụ tập về ngã tư
nhỏ hẹp này để buôn bán với đầu nậu cùng người bán lẽ. “Chợ” chỉ họp đến hững
sáng là tàn nhưng trong bóng tối chập choạng, xe 2 bánh chở rau thường đậu lấn
mặt đường, người mua cứ tỉnh bơ chuyển rau từ xe người bán qua xe mình, mặc kệ
cho kẹt xe. Đến cỡ 5 giờ sáng thì xe cộ nhiều hơn, nào là xe bus, xe hàng, xe
chở công nhân… Trúng đoàn xe đám ma thì càng dễ kẹt xe hơn. Đã từng có vụ ẩu đã
giữa một anh lơ xe bus với một anh chở rau, rồi anh lơ chạy đi “méc” công an
phường. Nhưng công an có xuất hiện thì cũng giống như ai đó khuấy động một bãi
ruồi đậu. Công an đi rồi thì ai nấy, người bán rau cũng như người mua rau, lại
tiếp tục trở lại chỗ cũ…
4.
Tôi từng đặt câu hỏi ngậm ngùi với bạn mình, rằng thấy tương lai của nghề
trồng rau vùng này như thế nào. Tư Nhíu, người đàn ông mà mấy đời gia tộc bên
mình cũng như bên vợ đều đã sống bằng cái nghề lam lũ này, đã rầu rĩ trả lời:
– Đất trồng rau ở đây càng ngày càng teo tóp, nhường chỗ cho nhà cửa mọc
lên. Dân kéo về ở càng đông thì vườn rau mình càng bị bao vây, cô lập. Rồi có
ngày sẽ bị thưa kiện về tội làm ô nhiễm môi trường. Hiện nay, nhà tui đâu còn
ruồi như hồi trước nữa là do tui rất ít ủ phân rác hay phải đi mua phân đã hoai
rồi cho không còn mùi. Nhưng mùi urê, mùi thuốc trừ sâu, mùi gì cũng bị hàng
xóm ở sát bên vườn la lối. Hiện nay, tụi tui thức khuya thức hôm, bám vô 1000
mét vuông vườn kia để mỗi tháng, trừ hết chi phí phân giống, điện đóm thì cũng
còn dư ra được cỡ ba, bốn triệu để đong gạo, đóng tiền học cho mấy đứa nhỏ.
Nhưng chắc một hai năm nữa tui phải đổi nghề thôi. Chừng đó cũng có lẽ không
còn ai giữ đất trồng rau, trồng bông ở vùng này nữa đâu. Còn cái làng
hoa mà hổng có hoa kia thì khỏi nói…”.
Đã một thời rộn rịp, tấp nập chợ búa nhưng càng ngày càng thưa thớt hẳn đi,
rau xanh và hoa của Gò Vấp, Hốc Môn, Bình Chánh từng góp phần cung cấp cho vùng
Sài Gòn, bên cạnh hàng của Tiền Giang, Đồng Nai, Lâm Đồng. Sau 30-4, còn có
thêm hàng rau, hoa từ Hà Nội vào và cũng sau 1975, hoa Đà Lạt muôn màu muôn vẻ
dần hồi tràn ngập thị trường thành phố Sài Gòn với giá hạ hơn trước 1975 rất
nhiều. Rốt cuộc, đồ hàng bông và hoa của Gò Vấp, Hóc Môn bị lấn át
mạnh mẽ nên ngày càng ít ra chợ và đất vườn trồng rau – như câu chuyện của Tư
Nhíu, ngày càng ít đi.
Phải nói, tình hình chuyển biến trên thị trường là kiểu ‘cung ứng nhiều, giá
cả hạ’ thì ít nhiều gì cũng là thay đổi thuận lợi cho cuộc sống mọi người.
Nhưng riêng tôi, trong thâm tâm vẫn có một nỗi buồn, nỗi tiếc nhớ man mác vì
chẳng bao lâu nữa sẽ lụn tàn hết những vườn xanh nhỏ bé, yên tĩnh, khuất lánh ở
một vùng ngoại ô thành phố này.
Phạm Nga