Tôi sinh ra và lớn lên trên dãi đất
nghèo miền Trung. Thành ngữ dân gian gọi là nơi “chó ăn đá, gà ăn sỏi”,
hiện thực hơn người ta thường nói đây là miền “nắng cháy da, mưa thúi đất”,
báo chí thì dùng biệt danh “Vùng hỏa tuyến”. Trong nhạc của ca sỹ Duy Khánh-
người đồng hương- có câu than thở “Quê hương em nghèo lắm ai ơi! Mùa Đông
thiếu áo, hè thời thiếu ăn…”. Đó chính là Quảng Trị.
Ấy thế mà nào tôi có được coi là dân
thị xã. Làng của tôi thuộc một vùng quê nằm ngoài rìa, dọc theo Quốc lộ I. Làng
có cái tên rất hay: Long Hưng nhưng dân chúng quanh năm chúi đầu trên những
thửa ruộng cằn khô, không biết lúc nào mới được là “Rồng vươn lên” như
tên gọi? Làng nghèo đến mức tên người cũng ít khi thêm được cái chữ lót như một
nhà văn từng nhận xét. Làng nổi tiếng vì thổ ngữ đặc biệt. Hễ chúng tôi
thốt ra câu nào là đã nghe nhận xét: “ A, dân Long Hưng.”
Dân Long Hưng chỉ có một niềm tự hào
là giỏi Toán. Dù nghèo nhưng hầu hết nam sinh của làng đều thi đậu vào ngôi
trường trung học công lập danh giá của thị xã: Trường Nguyễn Hoàng. Các giáo sư
phần đông là người Huế, hàng tuần đi xe taxi ra dạy. Họ thường khen chúng tôi
về sự thông minh. Đặc biệt là trong mục “Toán chạy”; đây là loại toán hầu
như chỉ dành cho học sinh giỏi. Mạ tôi thường lấy gương của một người làng là
Bác sỹ Văn Tần để răn dạy hai anh em chúng tôi cố gắng học hành.
Mặc cảm con nhà nghèo khiến tôi ít
khi trò chuyện với ai, đặc biệt với các bạn nữ trong lớp. Mỗi lần tôi nói câu
gì, tụi bạn hay trêu“Cóc mở miệng”. Điều đó càng làm tôi câm lặng hơn.
Con trai mười bảy, mười tám thường đỏm dáng. Đi học đã biết vuốt tóc láng mượt
bằng nước lạnh, miệng ngậm điếu thuốc Ruby Queen, viết thư tỏ tình với bạn gái.
Riêng tôi “nhà quê” trong chiếc áo ngã màu cháo lòng, quần xanh bạc phếch…
Lên đệ nhị cấp, chúng tôi bắt đầu lo
lắng với lệnh tổng động viên vừa ban bố. Phải cố mà thi đậu. “Rớt Tú tài anh
đi trung sĩ ”. Chiến tranh đã bao phủ cả quê hương. Đêm đêm nghe tiếng đại
bác rền vang, máy bay quân sự bay về phía Gio Linh, Cam Lộ rợp trời, nhà
nhà chuẩn bị những cái hầm trú ẩn bằng bao cát quân đội. Thỉnh thoảng đã có nhà
trúng đạn pháo kích của Việt Cộng, tiếng khóc than vang trời dậy đất.
Tôi may mắn đậu Tú tài hai không
phải vào Thủ Đức “thức đủ năm canh” như các bạn nam cùng lớp.
Nhưng tôi “out” khi cố chen chân vào Đại học sư phạm Huế. Đành phải ghi danh
học MPC ở Đại Học Khoa học. Đi dạy kèm gặp bà chủ ác nghiệt, tôi lên giảng
đường bữa đói bữa no. Ngày về làng xin tiền mua sách, tôi ứa nước mắt nhìn mạ
lần mò chiếc kim băng mở túi áo lôi ra những đồng bạc lẻ. Sau bao đêm trằn
trọc, tôi dặn dò thằng em lớp 11 cố học cho mạ yên tâm rồi quyết định thi vào
khóa 28 Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam vào năm 1971 theo lời khuyên của anh
Hoàng Tấn, K25, người Quảng Trị. Nguyên văn lời anh: “ Tất cả có chính phủ
lo. Ra trường, ngoài bằng tốt nghiệp (Võ) còn có thêm bằng Cử Nhân Khoa Học Ứng
Dụng (Văn) . Học 4 năm với chương trình đại học lại được xem như văn võ
song toàn. Đó cũng là một lựa chọn tốt cho người trai thời loạn muốn thỏa
chí tang bồng…”
Cuối tháng 12 năm 1971 tôi nhập
trường. Người Pháp tôn vinh Đà Lạt là Deuxieme Paris; có bản nhạc ca ngợi
“Ai lên xứ hoa đào”; văn chương hết lời tán dương những cô gái má đỏ môi
hồng. Nhưng qua mùa Tân Khóa Sinh, khi đã khoác lên mình bộ quân phục kaki vàng
với cầu vai alfa đỏ, được ra phố cuối tuần tôi cũng chẳng biết đi đâu ngoài mấy
vòng loanh quanh ở khu Hòa Bình, hay chui vào cine’ Ngọc Lan hoặc Ngọc Hiệp rồi
xuống mấy chục bậc cầu thang leo xe Dodge về lại trường. Thôi, những lần sau đành
ở lại phòng, làm bạn với mấy thằng cù lần, lôi Anh văn ra học vì thuộc
loại “dốt” ngoại ngữ và nhận biệt danh là nhóm “ Lờ quờ ”. Thằng Thế Hân
có biệt danh “Hân gà” vì thấy gái là mặt đỏ au và lúng túng như gà mắc tóc. Thằng
Kim Long, lai Miên, gốc Trà Vinh, luôn được đại đội phó “ưu ái” cho đi gác
Đài Tử Sĩ nhưng cứ cười tươi… Cả bọn không bao giờ có vinh dự được gọi tên ra
hội quán Huỳnh Kim Quang gặp người thân chứ đừng nói chi đến chuyện gặp Đào!
Trời không thương nhà nghèo, Quảng
Trị trở thành chiến địa ác liệt vào “mùa hè đỏ lửa” năm 1972. Mạ tôi và đứa em
may mắn vượt qua Đại Lộ Kinh Hoàng vào ở trại tạm cư Hòa Khánh- Đà Nẵng,
hằng tháng ăn gạo trợ cấp. Thôi thế là tôi không bao giờ còn được trở về căn
nhà tranh với bao nhiêu kỷ niệm buồn vui thời thơ ấu. Làng tôi, Ngã Ba Long
Hưng –được nhắc nhiều lần trong cuốn Mùa Hè đỏ lửa của nhà văn quân
đội Phan Nhật Nam- đã tan nát, điêu tàn! Mặc cảm chồng chất mặc cảm, tôi co
mình trong vỏ ốc, tháng tháng dành dụm chút tiền lương cấp trung sĩ ít ỏi, gởi
về phụ mạ nuôi em.
Tháng 11 năm 72, khóa 27 và 28
trường Võ Bị nhận lệnh đi công tác Chiến tranh chính trị miền Trung. Tôi được
phân công về Huế. Thành phố thơ mộng hiền hòa bên dòng sông Hương như sôi động
hẳn lên bởi hình ảnh hào hùng của các chàng trai cằm gập vuông góc, đi đứng oai
phong. Anh chàng Ngọc cùng đại đội vỗ vai tôi “Gái Huế dễ thương thật! Mày
có bạn nhiều giới thiệu cho tao một em”. Tôi cười méo xệch “Kiếm đâu ra!”.
Ấy thế mà tuần sau đã thấy Ngọc ngồi với một nàng trong quán chè Sầu, miệng mồm
như tép nhảy. Thằng Thanh, tóc hớt ba phân lộ ra mấy cái sẹo to tổ bố
cũng quen một em Đồng Khánh hẳn hoi. Chỉ có tôi lủi thủi ngồi cắt dán
mấy cái khẩu hiệu với thằng Tập. Thằng này đã có người yêu ở Củ Chi và tự hứa tuyệt
đối chung tình.
Thật sự tuổi thanh niên ai chẳng
rung động trước những bóng hồng. Thời học lớp 12, tim tôi đã từng hồi hộp với
một cô bạn cùng lớp. Em có mái tóc xõa ngang vai, hiền hòa và học giỏi. Nhưng
nhà em kín cổng thâm nghiêm và tôi chưa một lần hé môi. Tôi biết em đang học
ĐHSP Huế khoa Vạn Vật nhưng cũng không dám tìm gặp. Liệu em còn nhớ tôi, thằng
cù lần hôm nay đã mang quân phục nhưng vẫn mãi cù lần. Vậy là trong khi các bạn
vi vu cuối tuần với các nàng ở chè Cồn Hến, bánh bèo Tây Thượng, cà phê Góp
Gió… tôi ôm cây đàn guitar bị đứt dây ngồi nghêu ngao “Sao em không đến
chiều nay Thứ Bảy?”. Niên trưởng Hưng, K 27 tò mò nhìn tôi “Hiệp có bình
thường không?”. Dù sao tôi cũng không phải rơi vào tình trạng gởi thư xin
tiền nhà như mấy thằng bạn. Mạ tôi nghèo kiếm đâu ra tiền!!!
Về Trường ba tuần, chúng tôi lại
được lệnh đi tiếp đợt 2. Hiệp định Paris vừa ký kết, phải tăng cường công tác
CTCT. Lần này đại đội tôi được phân công về Quảng Nam –Đà Nẵng. Mấy thằng bạn
có Đào ở Huế méo mặt tưởng đâu phen này được “tái nạm” em yêu.
Máy bay C 130 hạ cánh xuống phi trường Hòa Khánh, tôi có cơ hội vào Trại tạm cư
thăm mạ, nhét cho thằng em ít tiền và mấy lời khuyên, rồi lên xe GMC vào Quảng
Nam.
Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng
Quảng Nam là Đại tá Lê Trí Tín. Ông xuất thân từ quân trường Đà Lạt, và trước
đây, ông cũng từng ở trong khối Quân sự vụ của Trường Võ Bị nên quan tâm
rất chu đáo đến các khóa đàn em. Chúng tôi được cung cấp ưu tiên lương thực,
thực phẩm rồi chia ra từng toán nhỏ về các Chi khu. Có toán lên tuốt luốt vùng
đồi núi Thường Đức, Quế Sơn; gần gần thì Đức Dục, Điện Bàn, Đại Lộc; đẻ bọc
điều thì ở ngay thị xã Hội An…Riêng nhóm tôi về Duy Xuyên.
Duy Xuyên là một vùng đất cách Đà
Nẵng khoảng 45 km phía Tây Nam, nằm dọc theo bờ Nam con sông Thu Bồn thơ mộng,
con sông đi vào thơ ca của người xứ Quảng. Tôi chưa một lần đến đây nhưng đã
thuộc mấy câu thơ của Tường Linh thời trung học:
Tôi nghĩ về một dòng sông
Dòng sông quê hương có đôi bờ đất mật
Có những tên làng tôi yêu mến nhất
Có triền xanh, gành xám , bãi vàng
Những hàng cừ xe gió nước reo vang
Những thác xiết, nhọc nhằn thuyền lên ngược
Nguồn hai ngã, lòng sông chung nguồn nước
Khúc cạn khúc sâu, phía lở phía bồi
Sông Thu Bồn thương nhớ của ta ơi!
(Dòng nhớ thương chảy mãi qua hồn)
Một quận nghèo nhưng hiền lành với
những căn nhà nhỏ nép mình sau vườn khoai sắn xanh ngắt, những ruộng dâu bạt
ngàn. Chúng tôi ở trong chi khu, hằng ngày phân tán thành những nhóm nhỏ làm
công tác dân vận ở các xã như Xuyên Thọ, Xuyên Châu, Xuyên Hòa, Xuyên Phú…
Thằng Sanh, nổi tiếng hào hoa, đi một vòng phố chợ rồi về nói với cả nhóm: “Mấy
cô nhan sắc trung bình trở lên đều là “hoa có chủ” của các anh công tác đợt 1
hết rồi, tao quay về mái nhà xưa thôi”. Nói xong hắn lúi húi viết thư hẹn
hò với em Thành Nội!
Nhớ lần ở Huế, nhóm tôi được thằng
Tiến mời tới nhà ăn giỗ. Cả một bàn dài có đến mấy chục món nhưng món nào cũng
bày chút chút trong những chiếc dĩa nhỏ xíu. Báo hại cả bọn lúc về phải ghé chợ
Đông Ba mua thêm chục mì gói. Thằng Quảng dân Bến Tre cằn nhằn:
– “Chịu không nổi kiểu cách của ‘Dân
các Mệ’. Cả bàn, tao quơ đũa một phát là sạch bách. Ăn vậy hèn chi gái Huế cái
eo nhỏ chút xíu trông thấy mà thương!”
Còn đây, người xứ Quảng mộc
mạc chơn chất như những món ăn của họ. Khoai lang Trà Đỏa củ to bằng cái đầu
con nít, vỏ trắng ruột vàng phải cắt năm xẻ bảy đem nấu, bột khoai thơm phức
nghẹn tới cổ họng. Ăn món gì cũng có cái bánh tráng kèm theo, không nướng thì
nhúng nước cuốn. Lần đầu tiên tôi biết món Mì Quảng, niềm tự hào của dân Quảng
Nam. Cách nấu không cầu kỳ như bún bò Huế nhưng cách ăn trông thật ngon với
những cây cải non, sợi mì trắng, miếng sườn heo, con tôm chiên vàng óng,
mẩu bánh tráng dòn tan trong miệng, tay cầm trái ớt xanh cắn cái bụp… Có lần
lãnh lương, cả bọn kéo nhau đi ăn đặc sản Bê Cầu Mống ở đầu cầu Câu Lâu thuộc
quận Điện Bàn, tôi ngớ người ra khi nghe chị chủ quán nói “Chừng nuớ bua
rùa. Đừng bỏa nữa mòa mẹn!” (Chừng đó vừa rồi. Đừng bỏ nữa mà mặn!). Dường
như tôi đang nghe lại cái giọng Long Hưng quê kiểng xứ mình!
Tuổi thanh niên thấy gái như nam
châm hút sắt. Qua hai tuần lại thấy các chàng SVSQ bắt đầu có cặp khi có màn
trình diễn văn nghệ với các cô giáo trường Phan Bội Châu. Anh chàng Sanh phát
hiện ra “Vẫn còn nhiều em coi ngộ lắm, mà là hoa chưa có chủ mới tuyệt!
”.
Thật sự, con gái vùng Điện Bàn, Duy
Xuyên khá dễ thương. Họ không tiểu thư như gái Huế. Đa số có một vẻ đẹp
khỏe mạnh, làn da trắng mát do vùng đất này xưa kia chuyên dệt lụa nuôi tằm. Họ
ăn nói mạnh bạo và khá tự nhiên trong giao tiếp nhưng với bản chất rụt rè của
mình, tôi chẳng kiếm được một em để dung dăng thị xã Hội An như các bạn.
Vào một ngày Thứ Bảy, nhóm tôi đi
đắp đất làm đường ở xã Xuyên Châu. Cuối tuần nên anh nào trông cũng vội vàng để
về văn nghệ văn gừng với các cô giáo. Gần 3 giờ, nhóm “Lờ quờ ” gồm tôi,
Thế Hân và Kim Long nhận bao giàn cho các bạn làm nốt đoạn cuối cùng. Ba thằng
con nhà ruộng đồng, lại không có em nên chúng tôi nhẩn nha cho đến xế
chiều. Thấy một căn nhà có cái cổng vào bị lún, ba thằng thấm nhuần công tác dân
vận làm luôn. Mọi việc hoàn tất, chúng tôi vào nhà xin rửa chân tay. Người
thiếu phụ, chủ nhà, khoảng trên năm mươi, nét mặt còn vương nét một thời xuân
sắc, không có vẻ mặn mà khi giao tiếp, chỉ chúng tôi ra giếng sau vườn.
Cái giếng được bao bọc bằng những
viên đá ong mang dấu ấn thời gian. Nước giếng trong vắt và mát lạnh. Một cây
ngọc lan tỏa bóng mát với những búp hoa còn xanh nhỏ nhắn như ngón tay út của
người thiếu nữ đẹp. Tôi đưa tay vít một nhánh thì bỗng có…trái khế cắn dỡ bay
vèo vào cánh tay. Ngước nhìn lên, cách đó khoảng năm mét, một cô gái đang vắt
vẻo trên cành khế cổ thụ. Tôi nghĩ thầm “Cô này mà bắn tỉa thì hết sẩy!”.
Không hiểu trời xui đất khiến thế nào mà hôm nay Cóc tôi mở miệng:
– Xin cái hoa, làm gì dữ vậy cô em?
– Nhưng nó đang xanh, hái thấy
thương!
– Vậy cô em “trả công” chúng
tôi cái gì đây?
Tưởng nói đùa cho vui, nhưng ai ngờ
cô ta nhảy xuống và đi tới chúng tôi với một túi khế trên tay. Cô khoảng 18, 19
tuổi, mái tóc dài, làn da trắng hồng. Kim Long buột miệng “ Ui! Chu cha…”
Chưa nói được câu nào thì từ trong
nhà có tiếng gọi:
-Hạnh, vào nhà ngay!
-Dạ…Cô gái lè lưỡi, nhét vào tay tôi túi khế nặng rồi chạy
biến.
Ba thằng ra về với “thành quả lao
động”.
Tối hôm ấy, cả nhóm được tráng miệng
với những trái khế vàng ươm, ngọt thanh.Thế Hân thắc mắc: “Sao bà mẹ coi bộ
hổng có cảm tình với bọn mình?”. Anh chàng Thu đào hoa góp chuyện: “Chắc
bả sợ con gái rơi vào tay tụi bây, lũ gian ác!”
Dù sao tôi cũng đã biết cô gái tên
Hạnh và…một cái nốt ruồi lớn ngay dưới chân mày bên trái. Có lẽ, biết cũng để
cho vui thế thôi. Cù lần như tôi nước gì!
* * *
Chiều Chủ Nhật, tôi từ Chi khu ra
cái quán nhỏ ở góc chợ thuê mấy cuốn truyện chưởng của Kim Dung về đọc cho qua
ngày đoạn tháng. Cô chủ tên Dung, nghe đâu cũng là “hoa có chủ” của một
anh K27. Đang lúi húi tìm thứ tự mấy cuốn Thiên Long Bát Bộ, bỗng nghe
một giọng nữ phát ra từ cửa quán:
–
Chị Dung, tìm cho em cuốn “Áo tiểu thư” của Duyên Anh. Răng chị…
Câu nói ngắt ngang nửa chừng khi cô
gái nhận ra có bóng người trai lạ đứng trong góc. Tôi nhìn ra. Đó chính
là cô gái có cái nốt ruồi trên chân mày ngày qua…
Sau này, khi quen nhau, Hạnh vẫn hay
nói đó là duyên kỳ ngộ. Em bảo nhà em không ai thích lính. Cũng đúng
thôi, nhà thơ Hữu Loan đã viết “Lấy chồng chiến binh, mấy người đi trở
lại” cơ mà. Tôi trêu “Ghét của nào trời trao của ấy!”. Em cúi mặt
buồn buồn.
Hạnh là con gái duy nhất của gia
đình.Tên em đơn giản là Trần thị Hạnh. Em kể Ba chết từ lúc mới sinh, mẹ ở vậy
nuôi em khôn lớn. Em vừa tốt nghiệp lớp cán sự y tế ngoài Đà Nẵng, về quê thăm
mẹ trong lúc chờ bổ nhiệm. Tôi thở phào. Em ra trường sớm mấy tháng, có khi
lũ bạn công tác đợt 1 đã dzớt mất rồi.
Tôi trở lại thăm má Hạnh mấy lần
theo lời anh chàng Sanh cố vấn “attack at home” nhưng lần nào cũng gặp một nét
mặt lạnh lùng. Má Hạnh tránh tiếp xúc hoặc chỉ trả lời nhát gừng những
câu hỏi chân tình của tôi. Nhìn bà, tôi liên tưởng đến nhân vật nữ Anh Cô căm
thù đàn ông vì bị Đoàn Nam Đế phụ tình trong cuốn Anh hùng xạ điêu của Kim
Dung. Có lần tôi còn thấy mắt Hạnh hoe hoe đỏ như vừa mới khóc xong.
Chúng tôi đành biến quán cho thuê
truyện của cô Dung thành nơi hò hẹn. Giai đoạn đầu chẳng biết nói chuyện chi,
cứ đem mấy cuốn truyện ra mà tán về các nhân vật hoặc chuyện nắng mưa…Ấy thế mà
vắng nhau một ngày đã thấy nhơ nhớ…
Nhưng có lẽ tình yêu làm cho người
ta thông minh ra. Nghe bạn bè, một chiều Thứ Bảy tôi bạo gan rủ nàng đi chơi
nhà thờ Trà Kiệu. Mượn chiếc Honda Dame của cô Dung, tôi chở Hạnh lên
đường.
Nhà thờ núi Trà Kiệu nằm trên ngọn
đồi Bửu Châu cao khoảng 60 mét thuộc xã Xuyên Kiệu. Đó là một ngôi nhà thờ cổ
được trùng tu từ thế kỷ XIX. Đứng ở tháp chuông, chúng tôi nhìn xuống và ngợp
trong màu xanh biêng biếc của cây lá dọc theo hai bờ của dòng sông Thu Bồn thơ
mộng. Hàng me tây cổ thụ che rợp mát khu vực nhà thờ và gần đó là một ngôi
trường tiểu học do các nữ tu đảm trách. Những chiếc áo choàng đen trong
bóng chiều tạo nên một vẻ đẹp nao lòng. Hạnh cúi đầu kính cẩn khi đi qua những
bức tượng tái hiện mười hai chặng đường Thánh giá của Chúa Giê Su.
Nàng chỉ cái giếng nước mà người xứ đạo phong là giếng nước Thánh. Ai chân tình
cầu nguyện khi uống sẽ toại nguyện với ước vọng của mình. Hai đứa cùng ngậm
ngụm nước mát. Hạnh nhắm hai mắt lại giây lâu. Tôi hỏi em cầu nguyện điều chi?
Em thầm thì “Bí mật!”.
Chúng tôi ngồi nghỉ mệt bên một
triền bắp ven sông. Hạnh nói với tôi cách đây khoảng 25 km là Thánh địa Mỹ Sơn,
Vương quốc của triều đại Champa cũ. Tiếc rằng chúng tôi không đến được vì lý do
mất an ninh. Ánh nắng chiều trải trên dòng sông Thu, gió mơn man như quạt hầu.
Dòm kỹ cái nốt ruồi của em coi thật ngộ. Nó hồng hồng và nổi như một hạt đậu
cuối chân mày. Em đỏ mặt xấu hổ khi thấy tôi cứ dòm chằm chằm vô mặt. Tôi kể
cho em nghe về làng quê của mình, về tuổi nhỏ chăn trâu cắt cỏ, về góc vườn mỗi
khi giận mạ thường ra ngồi gục mặt rồi ngủ thiếp lúc nào không hay…Hạnh chủ
động cầm tay tôi bóp chặt. Tôi nghe rõ hơi thở dồn dập của em. Và thằng con
trai 22 tuổi lần đầu tiên biết thế nào là câu hát của Phạm Duy phổ thơ Nguyễn
Tất Nhiên “Uống ly chanh đường, uống môi em ngọt…”
Chúng tôi đã…thật sự yêu nhau từ
giây phút đó. Có Hạnh tôi bớt cù lần hơn. Nhóm “Lờ quờ” mất cái đầu tàu.
Hai thằng bạn bắt tôi bao một chầu Mì Quảng ở Ngã ba Nam Phước trước khi
từ giã nhóm. Chuyện nhỏ đối với một gã trẻ tuổi đang say hương vị tình yêu!
Chúng tôi đã có những ngày thật thú
vị. Hạnh đưa tôi đi Hội An thăm lại ngôi trường Trần Quý Cáp thời nàng học
trung học. Hai đứa lên Chùa Cầu nhìn tượng con chó và con khỉ, lang thang trên
con đường nhỏ dọc sông Hoài ngắm những ngôi nhà lợp ngói âm dương. Tôi biết
thêm món ăn độc đáo xứ Hội như cao lầu, bánh tráng đập Cẩm Nam, chén chè “ chí
mà phù” của ông Tàu già trên phố Nguyễn Thái Học. Có một điều làm tôi cảm
động, dù hơi ngượng, là thỉnh thoảng khi trả tiền, cô chủ quán bảo “cô bạn anh
trả trước rồi”.
Mỗi lần như thế, Hạnh bảo – Để
mặc em, cho nó vui.
Nhưng có lẽ Hạnh thích nhất là khi
tôi tặng nàng tập thơ “Thuở làm thơ yêu em” của Trần Dạ Từ. Đến bây giờ
tôi vẫn còn nhớ rõ cái màu cà phê sữa của cuốn sách. Những câu thơ tài hoa như
dành riêng cho chúng tôi trong bài thơ Nụ hôn đầu:
“Lần đầu ta ghé môi
hôn
Những con ve nhỏ hết hồn kêu vang
Vườn xanh, cỏ biếc, trưa vàng
Nghìn cây phượng vĩ huy hoàng trổ
bông…”
Tôi ghi dòng chữ trên đầu trang: “Để
em đọc khi nhớ anh”. Hạnh bảo:
– Đây sẽ là cuốn sách gối đầu giường
của em. Mãi mãi.
Khi yêu Hạnh, thật sự tôi đã nghĩ
đến một mái ấm gia đình. Lăng nhăng không phải là bản chất của thằng tôi cù
lần. Chúng tôi còn hơn hai năm để nuôi dưỡng tình yêu. Nhưng thật khó khăn khi
tiếp cận với má nàng để bà hiểu tôi là người tử tế.
Suy nghĩ lâu lắm, Hạnh cắn môi bảo
tôi:
-Thứ Bảy này mình lên nhờ bà Ngoại.
Ngoại thương em lắm. Mà anh mặc đồ civil nhen.
Bà ngoại Hạnh ở Gò Nổi thuộc quận
Điện Bàn. Bà trên 70 nhưng còn khỏe mạnh, giọng nói sang sảng. Trên bàn thờ có
hình một ông mặc phẩm phục triều đình trông rất quắc thước. Hạnh bảo tôi đó là
ông Cố, một trong Ngũ phụng tề phi của xứ Quảng Nam, niềm hãnh diện của dòng họ
ngoại.
Bà đón tiếp cô cháu gái thật vồ vập:
– Cha mày. Mấy lâu đi mô mất mặt không thấy thăm bà?
Niềm vui của bà lan qua cả bạn của
cháu. Bà sai đứa cháu nhỏ múc nước lấy khăn cho tôi rửa mặt, leo dừa hái
trái “hai đứa”uống, ra vườn thử xem có trái mít nào trở tiếng thì chặt
xuống cho “tụi nó” ăn…Đúng là một bà ngoại xứ Quảng nồng hậu mà chơn
chất.
Bửa cơm trưa thật ngon miệng với
thịt luộc chấm mắm cái, rau cải nấu canh cá rô thêm chút gừng. Tôi nằm trên bộ
ngựa bằng gõ thiu thiu ngủ, hai bà cháu rì rầm to nhỏ ở phòng trong.
Chúng tôi ra về khi chiều đà nhạt
nắng. Cái nhìn của bà cụ đối với tôi chăm chú hơn nhưng không còn vẻ ồn ào như
ban sáng. Hạnh phụng phịu hờn dỗi và không chịu mang trái mít về làm quà như dự
định. Trên đường nàng im lặng nép sát người vào lưng tôi. Một linh cảm bất
an trong lòng. Gia đình nàng chê tôi điểm nào???
*
* *
Mười ngày liền tôi không gặp được
Hạnh. Nhờ vã cô Dung hai lần nhưng không ăn thua, má nàng giữ rịt trong nhà.
Lại nghe bạn bè xôn xao đợt công tác có thể sắp kết thúc nhường cho K 29,
lòng tôi như lửa đốt. Có đêm tôi liều mạng mượn chiếc Honda phóng về Xuyên
Châu. Ngang nhà nàng cửa đóng kín mít, ánh đèn nhỏ hắt ra leo lét. Kim Long
ngăn tôi: “Coi chừng có bữa anh Hai ăn súng của bọn du kích. Xứ này coi thế
nhưng không hiền đâu!”
Chiều thứ ba, đang ngồi đánh domino
với đồng đội thì anh chàng Thu đi về bảo tôi:
-Tao thấy má vợ của mày ngồi xe ôm
đi đâu về hướng Điện Bàn.
Cơ hội trời cho, tôi vất mấy con bài
cho Kim Long rồi vẫy xe đi Xuyên Châu…
Nhà vắng ngắt nhưng cửa vẫn mở. Tiếng
nước xối trong phòng tắm dưới nhà ngang. Để cho Hạnh khỏi ngượng ngùng, tôi
không lên tiếng. Tôi nhìn kỹ mấy bức hình trên vách. Hình bà má hồi còn trẻ bế
Hạnh trong lòng; hình Hạnh ôm con búp bê thời nhỏ; hình nàng trong chiếc áo
blue trắng đang thực tập ở bệnh viện, cái nốt ruồi có món tóc mai che ngang…
Phía bên kia là chiếc giường nhỏ có cái áo gối màu hồng thêu những bông hoa li
ti, trên gối còn vương vài sợi tóc dài. Chắc Hạnh vừa nằm ngủ trưa xong. Tôi
ngồi xuống cạnh giường, tự dưng có cái ý nghĩ thật lãng mạn là nhặt một vài sợi
tóc của nàng làm của riêng. Dưới gối cồm cộm một cuốn sách. Tôi lật lên. Đúng
là tập thơ của Trần Dạ Từ. Tôi nhớ câu nói của Hạnh hôm nào “Đây sẽ là cuốn
sách gối đầu giường của em”, lòng xao xuyến một thứ tình cảm ngọt dịu.
Tôi lật vài trang sách, một tờ giấy
nhỏ gấp tư kẹp ngay bài thơ “Mối tình đầu”. Quả thực là tôi không
nghi ngờ gì về tình cảm của Hạnh nhưng tôi vẫn tò mò giở ra. Nét chữ cứng cáp,
chân phương có mấy dòng: “Hạnh, Ba đã nghe bà ngoại nói chuyện. Con hãy chấm
dứt ngay mối quan hệ không lành mạnh đó. Có cơ hội chúng ta sẽ trao đổi
thêm. Trước mắt, chuẩn bị cho Ba ít thuốc kháng sinh. Sẽ có giao liên về lấy
trong tuần tới.”
Tôi choáng người. Ba Hạnh chưa chết
như nàng đã nói với tôi? Thứ ngôn ngữ này rõ ràng là loại ngôn ngữ của phía “bên
kia”. Có lẽ nào ba nàng là cán bộ Cộng Sản hoạt động nằm vùng? Có tiếng
động dưới nhà ngang. Tôi đặt cuốn sách dưới gối trở lại ngồi ở bàn giữa, cố
gắng giữ nét mặt thật bình tĩnh.
Hạnh xuất hiện trong bộ đồ hoa màu
tím nhạt. Em mừng rỡ “a” lên một tiếng rồi sà xuống bên cạnh tôi, thì thào “Em
nhớ anh quá!”. Mùi hương chanh và mùi tươi mát của da thịt con gái nồng nàn bốc
lên nhưng quả thật tôi không còn lòng dạ nào để rung động. Tôi đẩy nhẹ người
Hạnh ra. Nàng hơi khựng lại rồi hỏi tôi: “Anh đến lâu chưa? Sao anh biết má
vắng nhà?”. Tôi trả lời “Do tình cờ vậy thôi”.
Những cảm xúc trong tôi đã bị dội
một thùng nước lạnh. Đầu tôi rộn lên nhiều câu hỏi khó trả lời. Hạnh không giấu
sự vồ vập và hé môi chờ đợi một nụ hôn say đắm nhưng tôi chỉ chạm phớt vào môi.
Nụ hôn lần này sao nghe vị đắng chát. Tôi có cảm tưởng bị lừa dối, thậm chí hơi
sợ hãi. Có lý nào cô ấy đang giăng bẫy tôi, một chàng Sinh viên Võ Bị, một Sĩ
Quan quân lực VNCH tương lai ?
Người hàng xóm qua chơi kéo tôi
thoát khỏi sự khó xử. Lấy cớ phải về họp gấp, tôi từ giã Hạnh trong nét mặt
phụng phịu của nàng. Tôi đang cần thời gian để suy nghĩ.
Đêm hôm ấy tôi trằn trọc mãi. Gói
Capstan gần hết dù tôi không phải là thằng nghiện thuốc lá. Tôi đã hiểu ra thái
độ lạnh nhạt của má và bà ngoại nàng. Tôi tự vấn xem có khi nào Hạnh hỏi mình
về lĩnh vực quân sự chưa? Có khi nào mình sơ suất tiết lộ điều gì chăng. Rõ
ràng tôi yêu Hạnh nhưng phương châm của trường Mẹ đã khắc sâu “Tổ Quốc-Danh
Dự-Trách Nhiệm”. Tôi thiếp đi với điều tâm niệm thứ tám trong Mười
Điều Tâm Niệm của SVSQ/TVBQGVN: “Không có gì là không thể làm được đối với
SVSQ”.
Tuần sau đó tôi nằm mẹp trong Chi
khu. Hai lần có lời nhắn của cô Dung ra quán sách nhưng một lần tôi cáo ốm và
một lần kêu bận công tác. Tôi không đủ can đảm để gặp Hạnh. Tôi sợ mình sẽ bị
lung lay bởi đôi mắt ướt và cái nốt ruồi như hạt đậu đỏ cuối chân mày.
Rồi cũng đến ngày từ giã Duy Xuyên.
Hạnh gởi qua Kim Long cho tôi một túi nhỏ gồm những mứt bánh thổ sản, sáu chiếc
mouchoir có hai chữ H lồng nhau và lá thư chỉ có một dòng “Em yêu anh mãi
mãi”.Tôi nhếch môi cười cay đắng, đem mớ quà cho bạn bè liên hoan, sáu cái
khăn tay tôi để lại trên cái ghế bố ngủ đêm ở Chi khu và xé bức thư thành những
mảnh nhỏ.
Ngày leo lên chiếc GMC ra phi trường
quân sự Đà Nẵng, đưa mắt nhìn quanh, tôi nhận ra Hạnh đứng nép sau một cây
phượng lớn. Em nhìn tôi, môi mấp máy điều gì không rõ. Thôi đành. Vĩnh biệt mối
tình đầu oái oăm!
*
* *
Về lại trường, chúng tôi chúi mũi
vào học Văn hóa bù lại cho chuỗi ngày công tác. Sự bân rộn làm tôi không nghĩ
ngợi nhưng khi đêm về tôi luôn nhớ đến Hạnh và những cái hôn mềm môi ướt rượt. Tôi
nhận gác thay cho đồng đội ở Tiền đồn hoặc Đài tử sĩ mà không chút phân vân.
Quên, quên và phải quên.
Nhưng bất ngờ thay, tôi trở thành
người nổi tiếng của Đại đội vì những lá thư dồn dập bay về. Nét chữ màu tím
mảnh mai của Hạnh! Một tuần tôi nhận đúng bảy lá! Một tháng đủ ba mươi chiếc
phong bì! Tay đàn em K30 mỗi lần nhét thư vào phòng dù cố gắng nghiêm trang
nhưng không giấu nổi nụ cười tủm tỉm.
Tôi không mở bất kỳ lá thư nào. Tôi
kiếm một cái túi nilon và gom nó lại. Rồi cô ấy cũng sẽ hết kiên nhẫn.
Tháng sau, tôi có một lá thư với nét
chữ lạ. Tôi mở phong bì. Dòng chữ ngắn của cô Dung: “Sao anh Hiệp không viết
thư cho Hạnh?”. Tôi bỏ chung vào gói thư, không trả lời. Thời gian qua…
Đã gần cuối năm thứ ba. Tôi vẫn là
một anh trai tân. Thật đáng thương hại khi trong đêm trao nhẫn truyền thống,
tôi cầm lấy chiếc nhẫn tự lồng vào ngón tay mình. Tôi tiếp tục làm nhóm trưởng
nhóm “Lờ quờ”, không quan tâm đến sự mối mai của bạn bè với các em gái Bùi Thị
Xuân hoặc với những cô sinh viên Đại Học Chính Trị Kinh Doanh Đà Lạt danh giá.
Một chiều thứ Bảy, có tiếng của Sinh
viên trực nhật trên loa phóng thanh gọi tôi ra hội quán Huỳnh Kim Quang gặp
người thân. Không thể là mẹ tôi, người suốt đời chưa bao giờ nghĩ mình được
ngồi máy bay, dù chỉ một lần. Không thể là em tôi đang chúi đầu trên giảng
đường Đại học ở xứ Huế xa xôi. Chỉ có thể là Hạnh? Lúc này tôi đã chuyển đại
đội. Tôi chạy tìm Kim Long hiền lành cộng thêm anh chàng Thu hào hoa nhiều
chiêu trốn gái ra hội quán tìm hiểu và cứu giúp. Lòng tôi như đánh lô
tô. Ba mươi phút sau, Thu trở lại cười rộng miệng “Xong rồi. Tao bảo mày đã
hỏi vợ ở quê!”. Kim Long đi sau mặt buồn xo bảo tôi: “Anh Hai ác quá. Em
khóc nhiều lắm. Tội quá trời luôn!”.
Đêm hôm ấy, tôi đốt hết tập thư của
Hạnh.Trong mắt bạn bè cùng đi công tác Duy Xuyên, nhất là Thành Sang, Sinh viên
Sĩ Quan phụ trách câu lạc bộ Huỳnh Kim Quang, tôi là thằng Don Juan. Sang bảo
“Thấy con nhỏ thất thểu ra về, tao muốn đấm vào mặt mày một cái”. Cũng
đành!
*
* *
Tôi sẽ không nói nhiều về thời gian
hơn hai năm đi tù, thân phận không bằng một con vật. Mạ tôi đã hồi cư cất túp
lều trên nền đất cũ Long Hưng, em trai tôi bỏ học cầm cái bay đi làm thợ hồ.
Tôi thành “con bà Phước” sống nhờ vào các niên trưởng và các chiến hữu
có thân nhân thăm nuôi. Ngày cầm giấy ra trại, niên trưởng Huỳnh công Kỉnh, K25
còn phải cho tôi tiền mua vé tàu. Về làng xưa vào ngày cuối năm lúc
trời đã chạng vạng, mạ ôm chầm lấy tôi rồi nghẹn ngào bảo “Vào Nam đi con.
Không sống nổi ở đất ni mô. Thay đổi hết rồi. Sâu bọ lên làm người rồi!”. Tôi
ở được với mạ một đêm, cầm trong tay cái địa chỉ của người làng tận Sài Gòn, ăn
hai bữa cơm trộn bắp rồi lại ra đi…
Trên chuyến xe Bắc Nam ọp ẹp, tôi đi
qua vùng đất Quảng Nam đầy ắp kỷ niệm xưa…Hòa Khánh, Hòa Cầm, Cẩm Lệ, Vĩnh
Điện, Duy Xuyên…Chắc bây giờ Hạnh đang ở trên đà danh vọng, có khi làm bà Cán
Bộ cũng nên. Tôi cũng chẳng ân hận gì. Tôi với nàng rõ ràng là hai đường
thẳng song song.
Tôi cũng chẳng muốn nhắc lại tháng
ngày ngược xuôi kiếm sống trên đất Sài Gòn. Người làng cũ đã bán nhà đi kinh tế
mới. Tôi nằm vơ vất ở bến xe Miền Đông ba đêm rồi may mắn gặp lại Ngọc, thằng
bạn cùng đại đội. Hắn giúp tôi gặp nhóm bạn cũ đang thay nhau đạp xích lô từng
ngày; có khi lại mang vác hàng cho mấy bà bán phụ tùng xe đạp ở chợ Trời; có
khi lang thang không biết đêm nay mình sẽ ăn đâu, ngủ đâu. Đúng như câu
thơ của Lý Bạch “Xử thế nhược đại mộng!”. Cuộc đời quả là một giấc mộng
lớn. Mới ngày nào chúng tôi còn là những chàng trai hào hoa ấp ủ nhiều hoài
bão. Tôi nghe tin anh Hoàng Tấn đã bị bắn chết vì phản kháng ở Đơn Dương- Đà
Lạt. Bạn bè cũ có thằng vượt biên thoát, thằng mất tích, thằng còn ở trong các
trại giam, thằng vào rừng tìm lực lượng kháng chiến…
Rồi cuộc đời đưa đẩy tôi lưu lạc qua
đất Campuchia bằng xe đò ở Tân Châu-Hồng Ngự. Tôi làm nghề cắt tóc dạo ở
Phnompenh, bỏ mối thuốc cho một ông Trùm buôn lậu thuốc Tây của Xí nghiệp Quốc
doanh Việt Nam kiếm cơm hàng ngày, thậm chí có khi còn làm y tá chích thuốc dạo
cho bệnh nhân. Ơn trời, chưa nghe ai chết! Tôi giao tiếp với người Cam ở
các chợ Schabarbauu, chợ Chắc Nghệ… Đôi khi thất chí, muốn lấy đại một cô Miên
quấn xà rông, có mấy cái răng vàng 24 karat sáng chóe chuyên ăn mắm bò hóc cho
xong đời!
Tình cờ tôi quen anh Tài, một Việt
Kiều Miên về nước năm 1972 lúc người Việt bị cáp duồn. Anh lên lại Nam
Vang làm ăn và có ý định vượt biên qua Thái Lan. Anh cần một tay sử
dụng súng sẵn sàng bắn vào Công an hoặc hải tặc. “Một liều ba bảy cũng liều”,
tôi nhận công việc này.
Chúng tôi lên Kompongsom mua một
chiếc ghe cũ bề ngang 2m dài 7m được tân trang, sửa lại lốc máy và khởi hành
vào một đêm tháng Tám từ Vịnh Tân Hao. Trên ghe có sáu người lớn và hai con
nít. Ghe không dám đi gần bờ vì sợ lính biên phòng của Miên. May mắn thay, gần
tới KoKong thì trời đổ mưa lớn che khuất tầm nhìn của các trạm gác. Lênh đênh
trên biển 4 ngày chúng tôi gặp những chiếc tàu treo cờ Thái và ghe đi đúng
hướng cập vào tận một hải cảng. Tôi chưa phải sử dụng cây M16!
Lúc quyết định theo anh Tài tôi có ý
nghĩ nếu chuyến đi không thành công thì biển sẽ là mồ chôn cuộc đời đã tận đáy
xã hội của mình. Tôi chẳng còn sợ gì cái chết. Tôi cũng dự định nếu đến
được Thái Lan thì sẽ ngữa mặt lên trời cười ba tiếng bù lại hơn 10 năm tủi nhục
sau ngày Miền Nam sụp đổ. Nhưng tôi không làm được điều này vì chỉ kịp xách cái
bao đi theo người lính Thái về trại tạm trú Leam Ngộp.
Sau ba tuần ăn, ngủ, nghỉ, chúng tôi
chuyển lên trại chính là Panat Nikhom. Nghe nói chỉ hai tháng sau, trại tạm cư
đóng cửa không còn chấp nhận người tị nạn Việt Nam.Và ở đây, tôi đã quen Minh
Hạnh, vợ của tôi bây giờ.
Qua bao nhiêu gian khổ, tôi không còn giữ được bất cứ một thứ giấy tờ nào. Tôi
chỉ còn nhớ số quân của mình. Nhưng may mắn thay, khi được Cao ủy Liên Hiệp
Quốc phỏng vấn, tôi gặp Thiếu tá niên trưởng Tôn Thất Diên K10, Trưởng khoa Anh
Văn của Trường Võ Bị, đang làm phiên dịch cho phái đoàn. Thầy đã tận tình giúp
đỡ tôi. Chao ôi là ân tình của trường Mẹ! Tôi được nhập cư vào đất Mỹ. Trong
tháng ngày chờ đợi và học nghề ở Phi Luật Tân, bạn bè K28 cũng đã yểm trợ
cho tôi một ít tài chánh trong tình nghĩa đồng môn, bạn bè cùng khóa…
Như bao người đến Mỹ muộn màng, nên
vợ chồng phải hùng hục kiếm sống. Một người ôm 2,3 jobs và thay đổi công việc
liên tục từ hầu bàn, rửa bát, làm vườn, dọn tuyết, sơn nhà, giữ trẻ…đêm về còn
phải đi học ESL. Bên nhà báo tin mạ mất, tôi cũng chẳng thể trở về. Thôi thì
buổi chiều ly biệt cuối năm đó, tôi cũng đã nhủ thầm “Lạy mẹ, con đi”…
Tôi cũng không hiểu sao vợ tôi lại
có cái tên trùng với Hạnh Duy Xuyên? Lại sinh cùng năm ký hiệp định Geneve
1954. Minh Hạnh người Vĩnh Long và hiền lành như cây trái miệt vườn sông Hậu.
Cô ấy chưa bao giờ hỏi tôi về quá khứ và cũng không biết gì về Trường VBQGVN
với những chàng trai quân phục dạo phố worsted, Jaspe, cầu vai alfa đỏ… Chúng
tôi từng bước ổn định cuộc sống với hai con gái chăm ngoan.
Sau những nhọc nhằn, giờ đây tôi đã
có những phút giây thư giãn. Tôi bắt đầu liên lạc, thư qua tin lại với bạn bè
xưa. K 28 có đâu khoảng 50 người trên đất Mỹ. Bạn bè hầu hết đã quá 60, lâu lâu
lại nghe tin buồn một thằng về “Vùng V”. Ôi! Đời người như bóng câu qua cửa sổ.
Năm ngoái, tôi về Houston, Texas
tham dự Đại hội Võ Bị lần thứ 19. Thật cảm động khi gặp lại những
gương mặt “gian ác” thuở nào. Chúng tôi hò hét, cười đùa y như những chàng trai
mới lớn. Nhắc lại kỷ niệm xưa có thằng rươm rướm nước mắt dù tóc trên đầu đã
ngã màu bạc trắng.
Hôm đến nhà hàng Kim Sơn dự dạ tiệc,
ngang qua một số chị em Hội Phụ nữ Lâm Viên, tôi chợt nghe tiếng gọi:
– Anh Hiệp…Có phải anh Hiệp không???
Tôi dừng chân. Trước mặt tôi là một
người đàn bà còn vẻ duyên dáng trong chiếc áo dài xanh truyền thống…Nhưng tôi
không thế nào nhớ nổi đó là ai.
Người đàn bà mỉm cười: -Trông anh
không thay đổi mấy. Em nhận ra ngay. Dung Duy Xuyên đây! Anh còn nhớ không?
-Ồ, cô Dung Duy Xuyên, người góp phần mai mối cho mối
tình đầu của tôi ở Quảng Nam. Chúng tôi mừng rỡ. “Tha hương ngộ cố tri ”,
hạnh phúc nào bằng! Chúng tôi bồi hồi nhắc lại chuyện hơn 40 năm về trước, thời
tôi là một anh SVSQ cù lần và Dung với cái quán cho thuê sách ở góc chợ…Dung đã
lấy vị Niên trưởng K27 khi anh đi “tù cải tạo” về và hai vợ chồng qua Mỹ theo
diện HO năm 1992.
Dung chợt nghiêm mặt hỏi tôi:
– Anh có nhớ gì về Hạnh không?. Tôi cười cười:
– Sao? Cô ấy làm bà Bí thư Tỉnh ủy
chưa? Có bao nhiêu biệt thự rồi?
-Anh không biết thật sao? Đàn ông
các anh thật vô tâm…Nó tội lắm.
Dung kể cho tôi nghe. Quả thực như
tôi nghĩ, ba Hạnh không chết như trong lý lịch đã khai. Ông tập kết ra Bắc khi
Hạnh còn nằm trong bụng mẹ và trở về Nam từ những năm 70. Ông móc nối với gia
đình để được tiếp tế và hoạt động trên đất Quảng Nam. Đó cũng chính là lý do mà
cả bà ngoại và má Hạnh ngăn cản không cho Hạnh giao tiếp với tôi, một người
lính VNCH. Sau ngày tôi trở về trường không lời từ giã, Hạnh đau khổ lắm. Không
nhận được thư hồi âm, cô trốn nhà lặn lội vào Đà Lạt. Trước thái độ cự tuyệt
lạnh lùng và dứt khoát của tôi, cô về sống lầm lủi ở Xuyên Phước, phụ trách
phòng Hộ sinh Xã.
Ngày miền Nam mất, ba Hạnh công khai
xuất hiện với cương vị một “cán bộ Cách Mạng” cao cấp trong sự mừng rỡ
của người mẹ chờ đợi đằng đẳng 20 năm ròng. Nhưng ngày vui ngắn ngủi
chẳng được bao lâu. Sự thủy chung của bà đã bị trả giá khá phũ phàng. Chỉ bốn
tháng sau, một người đàn bà miền Bắc xuất hiện với những đứa con sau lưng. Ba
Hạnh lúng túng giải thích, nhưng mọi chuyện đã quá rõ ràng. Má Hạnh không có
con trai. Căn nhà từ đường có cây ngọc lan, có cái giếng đá ong đành để lại cho
gia đình mới. Hai mẹ con trở về Điện Bàn sống với bà Ngoại trong ngôi nhà
tôi đã một lần đến thăm.
Hạnh từ chối đặc quyền đặc lợi dành
cho “con em chính sách” đi học Bác sỹ ở Hà Nội. Mẹ Hạnh suy sụp hẳn đi và
mất sau một cơn đột quỵ. Trước khi mất, bà cầm tay Hạnh ứa nước mắt như một lời
xin lỗi muộn màng. Mãn tang mẹ, Hạnh quyết định đi tu Thiên Chúa giáo dòng
Phước Môn. Và hiện giờ nàng đang là một nữ tu phụ trách trường trẻ em mồ côi
gần Nhà thờ Núi Trà Kiệu!
Tôi ngồi lặng.Trong đầu tôi dần hiện
ra hình ảnh cô gái có khuôn mặt trắng mát, cái nốt ruồi như hạt đậu đỏ cuối
chân mày, một buổi chiều tháng Ba,ngôi nhà thờ cổ, ngụm nước giếng mát lạnh và
…nụ hôn đầu. “Lần đầu ta ghé môi hôn. Những con ve nhỏ hết hồn kêu vang…”
Tôi biết mình sẽ có nhiều đêm mất
ngủ. Hạnh ơi!…
Hương Thủy