1.
Nơi ấy, con
bé con trở thành thiếu nữ. Qua những tháng ngày đứt đoạn. Rồi thành đàn bà.
Nơi ấy xa rồi
và người đàn bà trẻ con nhớ mãi. Nhớ. Và biết rằng mình sẽ không tìm về. Nơi chốn
là để đi xa quay về trong hồi ức. Nếu tìm về bằng bước mỏi, nơi chốn có còn
thân thuộc nữa không?
Nơi ấy ngày xưa
thơm mùi sen ổi là một ngõ vắng dẫn thẳng vào khu tập thể gồm phần lớn gia đình
văn hóa mới, có chứng nhận đóng dấu phát hàng năm. Một cái cổng đồ sộ bằng sắt
hàn hoa lá cành thường xuyên được gia cố, cánh nhỏ mở, ra vào tự do không kiểm
soát, cánh lớn luôn khóa chặt giống như mọi cánh cổng liên quan tới những nơi
quyền chức từ bấy đến giờ. Cư dân trong khu thì ra vào qua cánh cổng nhỏ luôn
luôn mở. Đã có lần một ông cán bộ cao cấp có tiêu chuẩn Volga hứng chí cho anh
lái xe nghỉ, tự mình ngồi sau tay lái đưa vợ tới thăm một người bà con sống ở
đó. Anh thường trực cung kính nép bên cánh cổng nhỏ mời bà vợ oai phong lẫm lẫm
vào, còn ông chồng cao cấp của bà thì được đá mắt hừm hừm kèm lời dặn: 'Anh ngồi
ngoài trông xe chờ đồng chí đây không nhỡ trẻ con nó tắt mắt thì chúng tôi
không chịu trách nhiệm.' Cuộc viếng thăm đó đã trở thành một huyền thoại của
ngõ, được kể tới tận bây giờ, khi mà cánh cổng cũ đã được tháo bỏ (có lệnh hay
tự động thì cư dân không một ai biết). Ngày gặp mặt cán bộ công nhân hưu trí,
ông thường trực cũ mắt đã đục đục, bộ còm lê si đa mua đâu đó trên mạn Quốc Tử
Giám, giật giật mấy ngón tay ông bạn già hỏi thăm về ông khách cốp dạo nào. 'Khổ.
Nào tôi có biết. Thấy bà ấy bảo gì ông ấy cũng nghe, lại nữa là ông ấy tự lái
xe... May gặp ông ấy không để bụng chứ hôm ấy thì tôi hoảng quá... ông ấy mất rồi
à... Khổ...'
*
Huyền thoại dĩ
nhiên để nghe mà nửa tin nửa ngờ. Bọn trẻ bây giờ phóng xe ào ào vào ra cái ngõ
chật hàng ngày theo châm ngôn 'đi xe xịn là để người tránh chứ đâu phải để
tránh người' không hoài hơi tìm hiểu những huyền thoại kiểu như thế, cũng như
những điều kiện tinh thần vật chất làm nảy sinh huyền thoại, chẳng hạn sự tồn tại
(không biết để làm gì) của một cái cổng có thật và một ông thường trực có thật
một thời. Cũng có thật một thời: vườn hoa giữa khu tập thể, tiếng bóng chuyền
vang rất xa những chiều hè đầy nắng, những bông sen với mùi hương có thể làm
người ta đêm về bay lên được trong bóng tối dày đặc đầy hăm dọa bởi tiếng còi
báo động quen thuộc mà bao giờ cũng đột ngột.
Không có ai
từ nơi đó thúc nhau 'đi đi đi đi'. Không có ai từ nơi đó gọi nhau 'về đi về
đi'. Người ra ra vào vào cánh cổng vô hình xưa, thân yêu thì hồ hởi chào nhau,
hỏi giá mớ rau con cá vừa mua. Mà ghét nhau, vừa cãi chửi nhau thì cũng cố làm
sao để 'con mặt ... kia ... thằng mặt ... kia' biết nỗi khinh bỉ
đang chực bục ra, nhưng nếu có bục ra ở đây thì cũng không bị lên án là kẻ chấp
nhặt và gây sự...
Người đàn
bà trẻ con đã đi đi về về bao nhiêu năm qua cái ngõ nhỏ đầy ứ chuyện vặt vãnh của
thế gian này. Bên kia đường, trấn ngay trước cửa một nhà hộ sinh, cây đa già tỏa
bóng xuống những bà ộ ệ đi vào và khép nép đi ra, nào khăn nào nón, đùm đùm gói
gói, mặt mũi vừa võ vàng vừa bủng beo, nhưng mắt thì cứ sáng rực. Tia sáng đó
thường chỉ thấy ở mắt người vừa sống lại. Không phải lúc nào họ cũng hớn ha hớn
hở cái vẻ đàn bà ấy. Có những người đi vào một mình, đi ra một mình, mặt cúi gầm,
bước dấn về phía phố và tia nhìn của họ không hòa được vào ánh ngày rất rực rỡ
nơi này, khoan thủng mặt đất lầm lỳ, làm tim người đàn bà trẻ con buốt nhói.
Khi đó Ngân thường thu mình nhìn lên vòm đa cổ thụ, lắng nghe tiếng gió, giống
như tiếng thở dài an ủi mà người đời có thể cho nhau.
Đã một lần,
Ngân đã nhìn, đã ngóng một người con gái từ nơi ấy. Người con gái gầy guộc, mặt
vàng như nghệ, ôm một bọc nhỏ cúi đầu bước ra khỏi cổng nhà hộ sinh. Cây đa già
chao cả vòm lá trên đầu gọi gió. Tiếng gió lá rì rào, như một hơi thở nhẹ, êm dịu,
bất thường vào cái ngày tháng bảy vừa sáng đã hầm hập. Cô gái ngửa mặt. Đôi mắt
cô ứ đầy nước và cô mỉm cười. Từ bên đường bước vội sang một cô gái khác. Họ
trao nhau cái bọc, từ đó thoát ra tiếng oe oe non dại. Họ dìu nhau đi vào ngõ,
đầu ngẩng cao, bất chấp những đôi mắt từ các hàng quán hai bên ngõ chú mục. Có
một bà nạ dòng từ trong đó lao ra giằng lấy cái bọc đùm đứa bé, chửi bới cô gái
ầm ỹ. Một bà khác cũng lao ra. Hai người đàn bà trẻ chỉ né người, bình thản đi
tiếp. Tại sao lúc đó người đàn bà trẻ con lại nghĩ rằng con đường dẫn từ cái cổng
chỗ mình đang đứng sang cái cổng bên đường rất dài, dài sang tới kiếp sau của
mình và của họ.
*
Sống hết nửa
đời, người đàn bà trẻ con vẫn không tin hẳn được vào những điều linh thiêng vốn
mờ mịt với con người. Cũng vì thế mà Ngân thường chả mấy khi để ý tới mùi hương
khói xộc sực nức quanh gốc đa già. Xứ sở này vốn chuộng những điều bí hiểm. Nếu
không có thì người ta sẽ tự tạo. Nên đền miễu bị triệt từ năm này qua năm khác
mà còn nguyên đó. 'Thần cây đa ma cây gạo.' Bao nhiêu chiều hè đi rông ngoài
phố, bọn Ngân đã lẻn ra sau gốc đa, tụt quần tè tồ tồ, rồi sau đó sợ mất mật
khi bị bọn lớn hơn khuyên bảo một cách đầy nghiêm trọng. Nhưng ngay cả
trong giấc mơ dễ bị hù dọa của con trẻ khi đó Ngân cũng chưa từng yết kiến vị
thần đã lấy thân cây đa già làm nơi trú ngụ. Mà ma, có thật sao? Chỉ nhớ lâu lắm
lắm rồi, năm sáu kế hoạch năm năm rồi, một đêm kia có người đàn bà mang đến đặt
giữa rễ cái rễ con của cây đa già một bọc nhỏ chỉ còn hơi âm ấm và hoàn toàn
câm lặng. Nếu tính thời khắc theo giờ làm việc của rất đông người khi đó thì đấy
là giữa ca ba. Những người quét đường còn đang rê chổi đoạn đầu phố, phải tảng
sáng hoặc muộn hơn họ mới tới được nơi này. Người đàn bà ra đi không dùng dằng.
Nhưng chị ta đã khóc, khóc nhiều lắm, trước và sau khi từ bỏ cơ quan mà chị ta
đã làm việc mấy năm trời, khóc khi một mình lăn lộn bên rệ đê làng Thanh Nhàn,
cái làng mà dân cư của nó khi đó toàn những kẻ cả đời không biết tới chữ thanh
nhàn, khóc lúc tỉnh dậy thấy bên cạnh mình là đứa bé vẫn dính với mình bằng một
sợi thịt da định mệnh. Chị ta sẽ còn phải khóc nhiều nữa, khi đã trở thành một
bà lão bệ vệ và lắm của chìm, rất được ông chồng đang lên như diều thì bị hất về
hưu sớm và những đứa con ngoan ngoãn giỏi làm ăn kính yêu. Nhưng đấy là chuyện
của bây giờ. Còn lúc đó...
Ngân vừa
nói chuyện ma. Đấy là một sự kiện trọng đại của cư dân trong và quanh quanh cái
ngõ Ngân sống. Phải, nếu có thì con ma nhỏ đó nay cũng đã thành một ma luống tuổi.
Đứa bé đó cứ lạnh buốt dần đi giữa những rễ cái và rễ con của cây đa già. Tảng
sáng, lúc bà lão bán xôi thường ngồi sát tường nhà hộ sinh phát hiện ra thì đứa
bé chỉ còn là một hình người bé bỏng bầm tím. Cái linh hồn bé nhỏ đó nấn ná hồi
lâu quanh mấy cái tã cái chăn cũ cũ rồi bay lên lẩn vào vòm lá, nhìn xuống đám
người đang lao xao thương cảm và chì chiết, buồn bã thở dài. Đấy là một tiếng
thở dài kỳ dị, rất kỳ dị, không chứa ẩn một chút nào sự thoả mãn bé thơ. Đau đớn.
Rồi nó bay đi. Không bao giờ nó trở về.
Nhưng mà từ
đó dưới gốc đa bắt đầu một cuộc sống khác. Bà lão bán xôi đặt nơi thằng bé bị lỗi
giờ sinh một bát hương. Những buổi sáng tiếp theo bà đều cắm vào đó một nén
hương và đặt bên cạnh một bát xôi. Bát xôi đó, khi đã hết hàng, bà sẽ nhẩn nha
gảy gảy tàn than và ngồi nhai chậm rãi cho đến hết trước khi cất gánh lên vai về
nhà. Có vẻ như từ hôm đó bà thường bán hết hàng sớm. Không biết vì sao, một sớm
kia bà thôi bán xôi, chuyển sang bán vàng hương, cũng ở chỗ đó, và bảo rằng
thánh khiến bà. Thánh, theo cách giải thích rối mù mà hết sức đơn giản của bà,
chính là đứa bé, nay đã được sung vào đội ngũ những ông hoàng.
Bà lão sai
một thằng cháu đóng cái hòm gỗ, sơn đúng màu sơn quan tài loại ba mậu dịch bán
căn cứ vào giấy chứng tử, chất đầy ở một cái phố nhỏ gần gần đó. Thằng cháu
phát huy trí tuệ cho xứng với đồng bạc tương đương năm bát phở gà của bà, đóng
đinh treo cái hòm lên thân cây, chỗ có cái chạc ba đầu tiên, thỉnh bát hương đã
ấm chân vào đó rồi dùng vôi ăn cắp ở công trường gần nhà quét một vệt trắng lốp
từ đó xuống tới gốc. Thật không ngờ rằng chỉ một cái hòm đỏ nhỉnh nhỉnh hơn tổ
chim bồ câu như thế đủ để đánh thức lại cả một niềm tin tưởng ngỡ đã chết từ
lâu lắm trong lòng dân chúng. Người ta đổ xô tới khấn vái, bát hương đặt cao
quá không cắm được thì họ cắm hương thẳng vào mặt đất, giữa rễ cái rễ con. Những
bà chửa đi đẻ thắp hương trước lúc còn chưa khóc mếu vì đau. Người nhà họ hớt hải
chạy ra thắp hương khi những cơn đau kia đã tới mức bất bình thường. Những bà
bán hàng trong cái chợ gần đó đều đặn khấn vái nhoay nhoáy trước lúc mở hàng.
Những ông mặc thế sự xoay vần, cứ tiếp tục các lễ nghi cúng quảy để xin thánh
thần đừng rời bỏ đất nước này mà đi hết. Người ta xin phù hộ và người ta lễ tạ,
đông nhất là vào rằm mồng một, chen chúc nhau, huých mông thụi ngực nhau, lườm
nguýt nhau trong khoảng cách từ gốc cây cho tới bờ tường nhà hộ sinh. Hoàn toàn
công khai, bởi ngôi nhà sát nhà hộ sinh khi đó là một xưởng chế biến mì sợi và
mỗi sáng bà chủ xưởng cũng rất thành tâm vái gốc đa đều đều. Sau này, khi hết
chiến tranh, bột mì viện trợ không còn và xưởng chế biến mì sợi phải đóng cửa,
nhà xưởng trở thành trụ sở công an phường thì mọi sự cũng có khác đi. Nhưng còn
lâu mới tới khoảng thời gian đó...
*
Một cách ngẫu
nhiên, người đàn bà trẻ con phát hiện ra mình luôn luôn khai không đúng địa chỉ.
Cứ như trời xui, tất cả cư dân trong ngõ ai cũng như ai đều một mực nói mình ở
Cây đa nhà bò. Nghĩa là bên này đường. Nghĩa là ở trong nhà hộ sinh. Hình như
Ngân đã đỏ hết mức có thể đỏ khuôn mặt mình khi đọc trong cái cười của anh bạn
mới quen một sự nghi ngờ đùa cợt không xứng đáng. Đấy chính là dấu hiệu đầu
tiên cho thấy mối quan hệ của họ không thể khai thông được, mặc dù cả hai đều
trẻ, đều vân vân và nói tóm lại là đẹp đôi. Vào những năm tháng ấy không thể có
chuyện một cô gái chưa chồng điềm nhiên đi qua gốc đa bước vào cổng nhà hộ sinh
nếu không có một lý do chính đáng liên quan tới một người khác có lý do chính
đáng để vào ra nơi đó: một bà chị ruột của mình hoặc của bạn, một bà chị họ, một
cô em, hay bà mẹ (ví dụ thế) đi đẻ.
Thực ra thì
cả khu tập thể của Ngân có cùng một số nhà, như mọi số nhà khác. Đấy là một
trong những khu tập thể đầu tiên được xây dựng sau ngày hoà bình lập lại ở Hà Nội.
Không phải là một khu dân cư chung chung mà là khu tập thể của một nhà máy. Ba
dãy nhà cao tầng cách nhau những khoảng sân rộng thênh thang và những vườn hoa
to như một góc công viên. Tất cả các căn phòng đầu tầng đều rộng gấp đôi các
căn phòng khác. Theo như cách người ta hình dung về một cuộc sống chung đầy lý
thú thì đó sẽ là nơi sinh hoạt văn hóa của cư dân trong tầng, đọc sách chẳng hạn,
đánh bóng bàn chẳng hạn. Trong những tiểu thuyết Liên Xô được hào hứng dịch và
đọc thời ấy thì căn phòng đó sẽ được gọi là Góc đỏ. Những cái cống lộ thiên chạy
xung quanh mỗi ngôi nhà bao giờ cũng khô rang và không một cọng rác vào ngày nắng
ráo. Ngày mưa, nước theo đó chảy ồ ồ xuống cống cái. Không bao giờ khu tập thể
bị ngập, ngay cả lúc đầu kia thành phố dân chúng bì bõm lội trong nước dâng như
lũ trên phố. Những cái ghế cho trọng tài ngồi thổi còi cầm chịch mỗi trận đấu
bóng giao hữu giữa cư dân trong khu hay giữa đội bóng của nhà máy với các đội
bóng khác trong thành phố luôn được gia cố. Hầu hết mọi nhà đều sống gần như
cùng một nhịp ăn, làm, chơi. Cũng có đôi ba gia đình có một nhịp sống khác khiến
mọi người vừa nghi ngại vừa ganh tị. Nhưng họ là thiểu số, một thiểu số hãnh diện
song vẫn phải tìm mọi cách che giấu mình.
*
Cô gái mới vượt cạn
một mình kia không thuộc thế hệ những đứa trẻ đầu tiên có mặt trong khu tập thể.
Những đứa trẻ đó, sinh sau ngày hòa bình lập lại, lúc bố mẹ đang phấn chấn vì
căn phòng tập thể mới được phân và tất cả có một đặc điểm chung: thường mang những
cái tên trùng lặp và người ta phải phân biệt lũ trẻ bằng cách gọi ghép tên người
sinh thành ra chúng. Rất nhiều Quyết; Chiến; Thắng; Hòa; Bình; Hồng; Hà; Quang;
Minh; Nam; Trường; Sơn... Những cái tên không hề luôm nhuôm, còn nhuốm chút gì
đó quê quê, song buổi chiều khi các ông bố bà mẹ cao giọng gọi con về tắm táp
cơm nước là thấy đã hừng hực tinh thần thời đại.
Người đàn bà thuộc
thế hệ trẻ con đó, thế hệ đã từng chứng kiến mà không hề biết cái phút quyết định
sinh tử của cuộc đời cô gái vừa vượt cạn. Lúc cô mới chỉ là một mầm sống...
*
2.
Đêm đã thở
một hơi dài mát mẻ vào buổi chiều hè ít gió. Phố lên đèn. Những bóng đèn không
có chụp lung lay trên những sợi dây điện chăng dọc ngang thành phố như một tấm
mạng nhện khổng lồ. Thế nhưng khu tập thể vẫn âm thầm tối. Vẫn chưa có điện. Những
người đàn bà đang chầu hẫu chờ đợi bên mấy cái máy nước công cộng nước chảy bé
như đầu đũa rên rỉ. Thỉnh thoảng lại có tiếng ré lên của một bà nào đấy khi bị
mấy ông tắm gần đó dội bắn nước vào. Bà gầy nhăng nhẳng than thở:
- Nóng bức thế
này mà nhà ăn hôm nay không làm cho chảo nước rau muống luộc cho mát ruột. Cơm
chiều mấy đứa nhỏ tha về, nhìn thấy bát canh bí đỏ đã bứ cả cổ. Chan húp trệu
trạo được vài ba miếng là buông đũa.
Bóng tối chụp lấy
mấy người đàn bà. Tiếng một cô tre trẻ:
- Em dặn con bé đặt
nồi chè đỗ đen. Mà quên không đóng lò mùn cưa trước. Cháu nó tự làm, lỏng tay,
nồi chè chưa nhừ lò đã sụp. Nó không biết tương ngay đường vào, thế là đỗ bị lại.
Còn lạng đường ướt mua vội vàng hôm rồi sợ hết hạn. Đỗ một nơi đường một nẻo. Bỏ
thương vương tội... cũng cố húp cho khỏi phí của trời.
- Còn
không? Nhà này còn khúc đá. Tôi ủ mùn cưa chưa chảy hết đâu. Bảo nó sang lấy về
mà ăn chè. Mùa này chỉ nước chanh hay đỗ đen đá là chơi được. Nóng thế này ăn
gì cũng như nhai trấu.
- Không ăn
được thì phải nằm. Nằm một lúc chiếu sũng mồ hôi. Bọn trẻ con thì thích lăn
trên sàn đá. Nhưng mà chỉ mát được vài ba phút, xong rồi là có thoát được mồ
hôi đi đâu đâu. Em bảo chúng nó rải cái chiếu mà không đứa nào chịu nghe...
Lại tiếng bà gầy
nhăng nhẳng:
- Ừ, nhà này cũng thế. Chúng nó lăn khắp nhà chẳng màn chẳng chiếu. May mà nóng
thế này muỗi cũng sơ tán đi đâu tiệt cả. Sáng dậy bước chỗ nào cũng rin rít bàn
chân vì mồ hôi. Ngồi quạt cho con rã cả tay. Vừa đặt lưng nằm thì chồng lại...
*
Tiếng cười
vừa phá ra bị ngắt nửa chừng bởi tiếng trẻ con bỏ dở cuộc chơi trốn tìm, ùa ra
từ những miệng hầm công cộng chưa được lấp, chạy rình rịch, hố hố há há: 'Ra
xem bà điên hát. Bà Tam bị điên chúng mày ơi'. Lũ đàn bà buông những cái chậu đầy
ụ quần áo đương giặt dở, nhìn nhau trong bóng tối mờ mờ, vặn lưng đứng dậy
buông tất cả xoong nồi xô chậu rảo chân theo lũ trẻ về phía cổng. Đám đàn ông
quăng gầu, độc quần đùi ướt huỳnh huỵch rẽ đám đàn bà xô nhau chạy trước. Phía ấy,
phía cây đa già, vẳng lại một điệu ngâm, rồi làn thảm, rồi sa mạc chênh, rồi lại
cả 'Đường cày đảm đang' (*) và quan họ. Loạn xà ngầu. Rõ là cuộc biểu diễn của
người hóa dại. Người đàn bà điên vắt vẻo trên chót vót, cười khanh khách, chới
với gọi xuống: 'Này chị em ơi...'. Điện bật sáng đột ngột. Những người
đàn bà vội vã băng ngang phố, tụ lại dưới gốc đa già rướn cổ nhìn, tò mò, kinh
ngạc và âu lo. 'Đúng là chị Tam. Sao lại thế này trời ơi.' Tiếng người đàn bà
trẻ. Tiếng người đàn bà sồn sồn: 'Vừa hồi chiều cô ấy còn đứng chia cơm ở nhà
ăn tập thể cơ mà'. Những tiếng xì xào nửa thương cảm nửa ơ hờ lan trong đám người
dở quen dở lạ đang phình dần ra dưới gốc cây. ''Thiếu vi ta min A đấy mà. Tôi
nói đố có sai. Bây giờ có ông nào trèo được lên sờ nhẹ vào người bà ấy một cái
là yên cả.' Tiếng cười ùng ục vang lên như tiếng nước mới đùn ra khỏi ống sau một
thời gian dài bị mất. 'Thì ông thử trèo lên. Nói thế là đầy mình kinh nghiệm rồi.'
'...Mẹ mấy ông này. Nói thật lại tưởng là đùa nhả. Hồi tôi ở bộ đội, đàn bà con
gái bị đầy. Tự dưng khanh khách cười nửa ngày không dứt. Tự dưng khóc rũ rượi
như bị ma làm. Nằm co quắp cứng đơ. Cứ ông chính trị viên vào đặt tay lên người
một cái là thở bình thường, ngủ dậy lại đâm đầu đào bới gỡ bom phá đá như
điên...' Đám người cứ đông dần lên, nhưng dần dần lặng phắc. Chỉ thỉnh thoảng mới
có tiếng thì thào: 'Đừng làm cô ấy sợ nhỡ nhào xuống thì chết'. Một cô gái trẻ
nói với lên như khóc: 'Xuống đi chị Tam ơi. Về nhà đi tắm đi... em hứng cho chị
hai xô nước đầy rồi. Về nhà hát. Về em quạt tóc khô cho. Về nhà đi mai còn đi
làm...' Người đàn bà vẫn khanh khách cười vẫn vẽo vọt hát từ cái chạc ba cao
chót vót, tóc đổ dài bay rờn rợn trong cơn gió đêm vừa mới nổi. Bài hát về một
cây trúc xinh đứng một mình vẫn xinh. Bài hát về bèo dạt mây trôi và những nỗi
lòng dang dở. '...Đôi ta thương nhớ í i ... biết bao giờ... lại nhớ tới người...
ra sông lại nhớ tới người chứ xuống sông... xuống sông gánh nước.. í i...' Đám
đông chợt mê đi. Chưa bao giờ họ nghe người đàn bà nhỡ thì này hát. Sâu
lắng. Vời vợi. Đượm một nỗi gì giống như là hạnh phúc. Và cảm giác ấy thành
quái gở khi người đàn bà thốt nhiên ngưng giữa lời ca, khóc khóc cười cười.
Không ai để ý người đàn ông vừa tới cùng đồng chí trưởng công an khối.
- Nào bà
con ta giải tán. Giải tán! Khẩn trương! Về ngủ mai còn đi làm. Mấy đứa nhóc
này... đằng sau quay... chạy!... Nào bà con mình rẽ ra cho chúng tôi làm việc...
*
Đám đông ồn
ào trở lại. Người đàn bà hoá dở lại hát váng lên. Trẻ con cứ như cóc nhảy ra rồi
lại nhảy vào. Cái giọng Nghệ của anh công an nói bình thường nghe cũng ra khẩn
cấp mà chẳng có tác động gì. Thế mà người đàn ông vừa cất tiếng là mọi người xì
xào nhỏ dần rồi theo nhau rời gốc cây. Người đàn bà trên cành cao cũng ngần ngừ
im tiếng.
Người đàn
ông nói giọng Nam bộ nghe nhỏ nhẹ. Mọi người ai cũng biết ông. Độc thân. Phó
giám đốc nhà máy. Ở một mình một phòng nhỏ sửa lại từ cái nhà tắm ở tầng một.
Dân tập kết mà không bia rượu, không ăn mắm sống. Nhiều khách và nghe nói vợ
con còn trong kia. Mấy anh cán bộ tổ chức hành chính, ông bác sĩ rể của nhà
máy, mấy người đàn ông năng nổ và đồng chí công an xúm vào nhau, vung tay vung
chân rồi đồng loạt quay sang ông Thản;
- Làm thế
nào bây giờ anh? Trèo lên thì trèo được. Nhưng sợ nhỡ ra chị ấy hoảng nhảy thẳng
xuống đất thì...
Anh công an
hộ khẩu khum hai bàn tay làm loa hướng lên người đàn bà dở tính:
- Chị Tam
ơi xuống đi, xuống rồi có chuyện gì thì đề đạt với các đồng chí có trách nhiệm.
Xuống đi chị... Có gì mà phẫn...
Anh cán bộ
tổ chức của nhà máy gạt ngang:
- Sao đồng
chí lại nói vậy. Ai làm gì mà chị ấy phẫn. Chị Tam xuống ngay. Có gì thì phản
ánh chúng tôi giải quyết!
Người đàn
bà điên đung đưa đôi chân, vuốt mớ tóc dài về đằng trước, khe khẽ cười, khe khẽ
khóc, rồi lại hát váng lên. Tiếng hát giờ khản đặc. Ông bác sĩ đứng nghiêng người
nhìn xuống bàn chân lắng nghe...
*
Ông bác sĩ
đến gần ông Thản:
- Anh Thản
này! Tôi nghe như chị này giả dại đấy thôi. Nhưng cũng là vì đầu óc căng thẳng
lắm. Không biết chuyện gì. Thường ngày ở cơ quan anh chị ấy làm gì... Làm nhà
ăn à? Hay là có chuyện chấm mút gì bị vỡ lở...
Người đàn
bà điên đã chuyền cành xuống gần chỗ hai người đàn ông đứng, bất chợt cười phè
phè, và lại tiếp tục vẽo vọt những lời ca vờn quyến thê thảm. Ông Thản lắng
nghe, cố đè nén xuống đáy lòng một nỗi xót thương sâu xa. Ông không biết vì sao
người đàn bà lại dở ra như vậy. Chỉ mới chiều nay chị ta còn đứng chia cơm
trong nhà ăn. Chị ta bao giờ cũng ý tứ xới cho ông một gà mèn cơm vơi vơi,
nhưng lại gia thêm thức ăn hay chút nước thịt kho vào cái nắp gà mèn. Chị ta
không mấy lúc bắt chuyện với ai. Nhưng chăm làm đúng kiểu một cô nhà quê vừa được
thoát li. Suốt mấy năm rồi chị ta là chiến sĩ thi đua của nhà máy. Cũng cảnh
cơm tập thể như ông. Có lần bên bể nước, ông thấy chị ta nhặt mớ rau và vo một
rá gạo con, cười ngượng nghịu lúc mọi người trêu chọc về nỗi người làm bếp ăn tập
thể lại chê cơm tập thể.
- Dạ...
em.. nhà có ông anh họ...
- Thế không
phải là ông anh ruột à? Anh liền ruột ấy mà. Nghe phong phanh cô có... Này, cứ
tìm cha nào xa vợ mà tấn công áp sát. Tiếc gì cái mác chiến sĩ thi đua. Gỡ gạc
lấy đứa con cho cửa nhà đỡ quạnh em ạ. Mới lại phòng khi về già...
Bà có tiếng
bỗ bã nhất cười hơ hơ nửa châm chọc nửa thành tâm khuyên bảo... Khi đó ông Thản
đã lặng lẽ xách xô nước rút dù. Lòng ông đau nhói. 'Có hẳn đàn bà cứ phải tầm
ruồng đàn ông chỉ để kiếm một đứa con?' Về phòng, ông Thản buông phịch xô nước
ngoài cửa, ngồi chết lặng như một gốc cây khô. Ông nhớ đôi môi mềm ấy, làn da
nóng ấy, đôi mắt ấy. Hừng hực và lấp lánh trong bóng mờ căn phòng không bao giờ
tối hẳn bởi ánh sáng của ngọn đèn đầu đường hắt chéo vào. Người đàn bà ấy ông
đã bao năm theo đuổi, đã cưới về, đã có với ông hai mặt con trước ngày ông ra
đi, đã chỉ nhìn ông ứa nước mắt. Vợ chồng ông buổi đó không nói lời hẹn thề. Nhưng
mà ông tin cậy vào những năm chung sống. Sự ngu ngốc của đàn ông! Nhưng có hẳn
là như thế! Khi mà khoảng thời gian chia xa đã không phải là hai năm, đã là mười
hai năm...
*
...Những
người đàn ông đứng bối rối và bất lực dưới gốc đa. Ông Thản lên tiếng, quả quyết
và điềm đạm:
- Thôi các
anh cứ về ngủ mai còn công việc, để tôi đứng đây chờ chị ấy xuống.
Anh công an
hộ khẩu trẻ mừng rỡ vì được giải thoát ra khỏi công việc bó tay bó chân này,
nhưng cũng có phần lúng túng:
- Vậy thì
hay rồi. Tôi về qua đồn một chốc rồi lại chạy ra. Mà có điều gì gấp rút thì đồng
chí chạy qua chỗ tôi...
Phố vắng dần. Vào
khuya. Ông xích lô vẫn chực khách trước cổng nhà hộ sinh cũng đã vắt mình lên
yên kẽo kẹt đạp đi. Ông Thản đứng lặng lẽ dưới gốc cây, tiếc đã không hỏi ông
xích lô hút nhờ một điếu thuốc lào cho bớt cơn thèm một hơi thuốc lá bất chợt
khô ran lồng ngực. Gió đêm rờn rợn quẩn trong vòm lá. Người đàn bà điên im lặng,
lầm lũi tuột dần xuống. Ông Thản lặng lẽ giơ tay. Người đàn bà đổ nhào vào ngực
ông, nức một hơi khan, âm thanh khản đặc:
- Em khổ
quá.
Không biết
vì sao ông Thản lại nói như mình biết cả:
- Đừng dại
dột em ạ. Em không tội tình gì....'
*
- Anh bảo
em làm sao bây giờ? Không chồng mà chửa. Nhục nhã thân em đã đành. Còn mang tiếng
cả nhà máy. Biết làm sao bây giờ.
- Đừng oán
hận người ta cô ạ. Có phải là lúc ấy cô cũng đã hạnh phúc rồi không? Đừng băn
khoăn miệng tiếng người đời. Trẻ con không có tội gì. Mà nếu cô quyết... thì
tôi sẽ trao đổi với ban phụ nữ nhà máy xem có cách nào... Chỉ có điều ta phải
cùng nghĩ cho kĩ. Biết đâu đứa trẻ không phải là nguồn cơn khổ sở...
Người
đàn bà đổi thế ngồi, vén gọn mái tóc rồi chậm chạp búi lại:
- Anh nói
phải. Nếu em bỏ cháu, miệng tiếng người đời em cũng vẫn không ngăn được. Đã chắc
gì để mà trông đợi vào duyên muộn. Chỉ có điều em sợ... Nhà máy sẽ không kỷ luật
em chứ anh? Anh nói hộ em một câu. Tội nghiệp. Giờ mà em bị đuổi... Đã thoát ly
rồi mà phải đâm đầu về quê, ruộng đất vườn tược không, nhục thân em đã đành, cả
nhà em nhục. Sinh cháu ra để cháu bị sỉ vả bêu riếu từ trong nhà ra ngoài làng,
thà rằng em lại trèo lên cây đâm đầu xuống...
Người đàn
bà cố trấn áp nỗi sợ trước cái nhục thứ hai, nếu tính cách trục mầm sống ấy ra
khỏi thân mình. Sẽ còn phải lâu lắm kể từ ngày ấy những phụ nữ lỡ làng như chị
mới có thể tự do đi vào phòng sinh đẻ có kế hoạch ở các bệnh viện phụ sản, đóng
tiền, nhận một cái tích kê, rồi mấy tiếng sau yên tâm ra về trong cảm giác vừa
nhẹ nhõm vừa đau đớn vừa cắn rứt. Không có một tờ giấy cam đoan của một người
chồng cho phép chị làm điều ấy, chị sẽ phải xin giấy chứng nhận ở cơ quan, sẽ
phải chịu đựng đủ kiểu nhìn như muốn lột da rút xương của những người quen người
lạ. Chị đã từng biết điều đó, không hẳn là người trong cuộc. Nhưng tuyệt nhiên
không phải là kẻ đứng ngoài. Mãi mãi chị không quên nổi buổi chiều ấy, buổi chiều
chị vừa tròn mười tám tuổi, buổi chiều chị rơi tõm vào trong nỗi đau đớn không
cùng tận của đời đàn bà.
3.
- Ối giời
chị Phận. Tưởng chị hôm nay đi chợ Thá. Em đang dở tay làm cỏ. Chị vào nhà... U
em trong buồng. U ơi, chị Phận đến chơi đây này...
Người đàn
bà kéo nón, múc nắng tạt mặt. Đuôi mắt dài giấu cái nhìn rừng rực và làn môi nhợt
nhạt. Thời mỏng mày hay hạt, thời má đỏ môi hồng, thời ngồi trên hè chằm nón thỉnh
thoảng nhìn ra sân nắng cười một mình của chị đã tàn héo từ lâu, từ lúc tiễn chồng
đi B rồi suýt chết vì đẻ non ngay buổi tối xã làm lễ báo tử một loạt chín anh
trai làng. Từ ngày đó, Phận quần quật làm, thôi không chằm nón nữa mà đi buôn
nón những ngày việc đồng áng vãn. Chị hay qua nhà Tam, nhìn con em họ vai cứ
tròn dần, má cứ ửng dần, tóc cứ bóng dần, thở dài bảo bà Nhị:
- Thím đừng
bắt nó lấy chồng sớm. Chả giai làng thì giai thiên hạ. Hiếm gì. Như cháu đây,
nói thím đừng cười, đến cái hơi chồng có muốn nhớ cũng không nhớ nổi. Thì thím
bảo cưới được có mấy ngày. Người làng người nước cả. Bố mẹ cháu nhận lời thì
cháu cũng gật. Biết gì đâu. Chúng cháu chả được như chú thím...'
Bà Nhị cười.
Bà cũng cảnh vợ liệt sĩ từ khi còn trẻ. Cũng bao đêm nghiến răng nằm không dám
mộng, không dám đặt bàn tay lên chính thịt da mình, từ chập tối đã thu vén con
dao bầu đặt đầu giường. Nào phải để phòng ai. Phòng chính mình thôi. Nhưng bà
biết mình khổ ít hơn người cháu họ của chồng. Ông bà mê nhau thật. Lại nữa bà
không vướng bận gì nhiều với gia đình nhà chồng. Ông Nhị con độc, các cụ qua đời
sớm cả. Đến tuổi này, nghe cô cháu họ của chồng than vãn, bà Nhị mới giật mình.
Giá không thương nhau đến vậy, giá không từng mê nhau đến vậy, đến nỗi sự vui vẻ
trang nghiêm goá phụ của bà đã làm nhụt tất cả ý chí tán tỉnh của đàn ông thì
chẳng biết bà có giữ mình khó hơn không?
*
... Bà Nhị
cầm con dao bài rọc lá trầu mà tay cứ run bần bật:
- Việc đến
thế rồi hả cháu. Mày định sao bây giờ. Mà sao dại thế, đã chồng đã con rồi,
cũng phải biết giữ thân. Nhẽ nào... Ai lại để tới tận giờ mới tính. Vỡ chuyện
ra thì mày chỉ có nước chết với nhà nó.
- Cháu chả
sợ thím ạ. Ông Trác ông ấy đang ngồi ghế chủ tịch xã, đố dám làm ầm lên. Xấu mặt
cháu thì hổ mặt ông ấy thôi mà. Ông ấy rên ầm ầm. Những là tôi tưởng thím lòng
gang dạ sắt thờ chồng. Bao nhiêu đàn bà góa đàn bà ế, được cái danh vợ liệt sĩ
là hơn thiên hạ đủ đường. Cháu mới bảo thế này, thế thì bác gái có lẽ cũng mong
cái danh ấy lắm. Sao ngày ấy bác đẩy nhà em nhập ngũ ở nhà làm ông xã đội trưởng
quèn. Bây giờ bác làm phó chủ tịch xã rồi, to chuyện rồi, em mới đến thưa chuyện
với bác. Chứ bác vẫn chỉ là ông xã đội, em chẳng dám. Bà vợ ông Trác phủi đít đứng
dậy bảo cháu gái đĩ già mồm. Thím xem, cơm no bò cưỡi người ta chửi thiên hạ dễ
thế đấy.
- Thế thằng
Trác bảo sao?
- Ông ấy đi
ngay ra ủy ban, cấp giấy cho cháu đi phá. Cháu đã định liều... Lớn bé gì thì nó
cũng là người... Cháu sợ mang tội với giời thím ạ. Nhưng ông ấy nói như van
thím ơi thím làm thế chết tôi chết cả họ nhà này không ai ngẩng mặt lên được
thím nghe tôi thì thôi tôi coi thím vẫn là người trong nhà trong cửa...Cháu ngồi
cười thím ạ. Thím xem thời buổi... Giời xa cũng không dám sợ hơn sợ người gần...Chả
hiểu ông ấy đả thông bà vợ thế nào mà bà ấy mang ra cho cháu gần trăm bạc với
hai thúng gạo nếp với lủng củng những gì gì nữa cháu cũng chả nhòm. Cháu bảo phắt
bà ấy mang về.
- Mày định
thế thật hả Phận. Cháu ơi người chửa cửa mả. Không dưng động dao động kéo vào
người. Mà cái thằng mặt dày ấy là thằng nào?
Chị Phận cười
nhợt nhạt:
- Thằng nào
mà chả như thằng nào hả thím. Thằng nào lúc ấy mà chả luồn chả cúi chả như trâu
húc mả. Thím bảo thời buổi loạn này, thằng nào ở nhà không đui què mẻ sứt chân
tay thì bụng dạ cũng toàn rắn rết. Lúc ấy cháu chỉ nắm độc cái ý của nó thôi
mà. Có khác gì nhau đâu.
*
...Tam
không nghe được câu chuyện buồn thảm của mẹ và chị. Bà Nhị gọi cô gái vào, chẳng
nói gì nhiều, chỉ dặn dò:
- Chị Phận
phải đi bệnh viện. Mày để tất cả đấy cho u. Đi thu xếp quần áo theo chị lên viện
xem có đỡ gì được nhau không. Cầm lấy chục bạc này, vài hôm nữa làm xong cỏ vườn
thì u lên nếu chị em chưa về được. Có lọ vừng u mới giã hôm kia cũng cầm luôn
theo. Mà chị có thèm ăn gì cũng không được mua bán lung tung, chỉ được cơm với
thịt rang, cùng lắm thì mua cái bánh giò.
Người con gái
vô tư:
- U buồn cười,
người ốm mà lại bắt ăn kiêng thế thì nóng ruột chết. Cũng phải tấm mía múi bưởi
chứ lại, rồi bát canh khúc cá. Em sẽ mua cho chị. Em có tiền riêng, không cần
tiền u em. Mà chị bị bệnh gì phải đi viện gấp thế, sao em chả nghe nói trước
gì.
Bà Nhị nạt
'mày biết cái gì' rồi quay sang cô cháu, nghẹn lời:
- Phải giữ
mình con ạ. Sao tao lo quá, lo còn hơn hồi mày đẻ con Ngần. Cố chịu đau chịu đớn
kiêng khem cho kĩ rồi về chừa đi cháu ạ.
Phận cúi mặt,
nghẹn ngào:
- Thôi nói
làm gì trước hả bà. Con đi chuyến này, chả nghĩ đến mình, chỉ những thương con
Ngần. Nó quặt quẹo từ ngày mới đẻ. Đã nhà quê, đã mồ côi, lại không xốc vác,
mai sau biết làm gì đút miệng.
Tam là người
duy nhất trong ba người phụ nữ không nghĩ rằng những lời đó sao mà sái. Nhưng cả
bà mẹ và người chị họ cũng không hề nghĩ rằng chỉ hôm sau đã phải để tang nhau.
4.
Ông Thản ôm
người đàn bà đang run bần bật trong cơn nức nở khan, buồn bã. Ông không nghĩ tới
việc trách cứ Tam. Có thể làm điều ấy được chăng khi trong trí ông lần lượt diễu
lại những con chữ tai ác. Những con chữ làm ông đau đớn vì nỗi bất lực của mình
khi nghĩ tới hai đứa con gái còn nhỏ dại và người vợ đã bỏ nhà đi. Vợ ông có khổ
sở như thế này không? Có tủi hổ như thế này không? Có tuyệt vọng như thế này
không? Đối diện với nỗi đau khổ của Tam, ông chợt hiểu ra rằng ông không được
quyền căm hận. Nỗi đau khổ cùng cực suốt mấy tháng qua đã làm ông lầm tưởng.
Còn lại trong ông, nguyên vẹn, vẫn là những yêu thương ấy, những yêu thương sâu
nặng, sâu nặng đến độ trở thành đảm bảo cho lòng chung thủy nơi ông.
Thế cho nên
ông Thản đã không ngần ngại buông bát cơm chiều vào thẳng nhà hộ sinh thăm Tam
vừa qua cơn đẻ khó. Chị thư ký công đoàn nhà ăn e dè:
- Thì anh cứ
ăn cho xong bữa hẵng nào. Trong ấy giờ có chị tổ trưởng phụ nữ rồi. Lẽ ra phải
báo cho phòng hành chính. Nhưng giờ này thì còn có ai ở nhà máy nữa đâu. Vả lại
không hiểu sao cô Tam cứ một mực xin được gặp anh... Cô ấy nói gở lắm...'
*
Ngân không
bao giờ thấu được nỗi đau đớn của người đàn bà tội nghiệp ấy. Mà liệu có ai tận
tường điều đó ngoài chính bản thân người trong cuộc đang khổ sở thu vén đời
mình. Chị ta nằm như dán vào cái giường trải tấm chiếu không còn biết màu gì của
nhà hộ sinh. Khuôn mặt mà tất cả đường nét đều vạc xuống gầy guộc qua cơn mất
máu vì đẻ khó bừng bừng đỏ trong cơn sốt. Trên cái tủ con đặt sát giường Tam,
chỏng chơ nải chuối và hộp sữa. Chị tổ trưởng phụ nữ nhà ăn - người vẫn thường
đứng bếp với Tam - sốt ruột đứng đổi chân ở đầu giường, dáng vẻ vừa thương hại
vừa dè bỉu, diễn đạt trọn vẹn lòng tốt bất đắc dĩ với mấy sản phụ tươi tỉnh
cùng phòng. Chị ta thấy ông Thản, tươi cười:
- May quá,
phó giám đốc có đây rồi. Bác sĩ vừa lại phòng báo chuẩn bị chuyển cô ấy lên viện
C anh ạ. Giờ cô ấy mới ngủ có vẻ yên yên. Trước cứ mê, khóc gọi ai mãi...
Người đàn
bà ngừng lại, thăm dò:
- Với lại cứ
gọi anh...
Ông Thản
bình tĩnh:
- Được rồi,
chị về qua nhà chị thư kí công đoàn nói tôi nhắn công đoàn xem thế nào trích quỹ
trợ cấp đột xuất cho cô Tam, mức cao nhất. Cô ấy chưa lo được cho đứa nhỏ. Mà
thế này thì chưa biết nằm tới bao giờ...
- Cô ấy may mắn
quá, được phó giám đốc quan tâm trực tiếp thế này...
Không có một
chút ác ý nào, dường như thế, ẩn sau câu nói. Nhưng hình như mọi lời đồn thổi
tai vạ thiên hạ vung vãi làm cho người đời điêu đứng đều bắt đầu như thế chăng?
Không như thế, người ta sẽ không thể chịu đựng nổi ngày sống khó nhọc, buồn
chán mà tưng bừng của những năm tháng ấy. Không ai biết, trong cơn sốt khô rốc,
Tam đã gặp lại người chị họ chết đã bao lâu rồi. Đã nhìn thấy mình trong tấm
thân dường như mỏng hẳn đi của Phận sau cơn băng huyết, không động cựa giữa căn
phòng bệnh viện huyện âm u cơn gió đồng chiều. Đã thấy lại mình, mười tám tuổi,
đưa ngang cánh tay gạt nước mắt ròng ròng, lếch thếch xách gói đồ hai chị em
hôm trước tha đi, chạy theo hai người đàn ông bà con hàng huyện đã thuê giúp để
võng xác Phận về. Cô gái mười tám tuổi chẳng biết tục lệ làng nước là gì, đã
suýt làm cả làng náo loạn...
*
Chiều ấy bà
Nhị không hiểu làm sao mà cứ như giẫm phải tổ kiến. Bụng dạ tơ vò. Bà không nói
được với ai về nỗi sợ thất đảm đang nghiến lấy tâm can mình. Nắng chiều còn như
chan lửa, bà đùng đùng đội nón, vác sào ra thu rơm đang phơi lại, rồi chạy ra
chạy vào, luấn quấn với đàn gà và đám thúng mủng, bụng bảo dạ phải nấu nướng rồi
sáng mai đùm lên với hai chị em nó.
Buổi tối.
Trăng quầng. Bức bối. Bà Nhị chặn cửa chuồng gà xong, ra ngõ, nép dậu cúc tần,
thấp thỏm nhìn ngược về phía đầu làng. Thì Tam về tới, giọng khản đặc:
- Mẹ ơi,
con đưa chị Phận về. Bây giờ võng chị ấy vào đâu?
- Giời ơi!
Chị ấy chết rồi ư? - Bà Nhị nghe hai hàm răng lách cách trong miệng như vào những
ngày rét ngọt đi làm bùn cấy cần, hay sang đò sớm đem nón mới chằm đi chợ xa -
Nó đâu?
- Chúng
cháu đứng đây bà ạ.
Tiếng đàn
ông đục đục. Hai bóng người nhô ra khỏi hàng rào ô rô nhà bên, trải dài trong
trăng mờ cùng cái võng treo giữa hai đầu đòn xóc, phủ tấm chiếu im lìm. Bà Nhị
run giọng, nói như rên:
- Các ông
làm phúc... Giời ơi... Đây không phải là nhà chị ấy. Nhà chị ấy chỉ có độc con
bé cháu hơn mười tuổi. Con tôi không biết... Tam ơi, con nhờ hai bác võng chị
trở lại chỗ cây gạo đầu làng. U đi báo cho bên nhà chị ấy. Giời ơi... ối Phận
ơi...
Bà Nhị khóc
suốt đêm ấy, khóc khi mắng thẳng mặt thằng cháu chồng phó chủ tịch xã và con vợ
chỏng lỏn của nó, khóc khi lẩy bẩy liệm đứa cháu dưới gốc đa đầu làng và chôn
nó trong đêm, khóc khi ôm đứa con dại của Phận vào lòng cố dỗ cho nó ngủ. Nhưng
sáng ra thì bà không khóc được nữa khi nhìn mặt con gái. Mặt Tam trắng như người
nằm ổ, nhưng cô không có cái vẻ yếu lướt tự hào của họ. Cô như người đi lạc,
dúi vào đâu ngủ đỗ, rồi đột nhiên bừng tỉnh. Bà Nhị biết thế là vĩnh viễn con
mình không còn có thể vô tư. Chỉ một sớm một chiều, cô đã chạm tới nỗi đau đâm
suốt đời đàn bà, thuở đó.
Nhưng Tam,
dù thế, không tự miễn dịch được cho mình. Nếu những người đàn bà biết bước lùi
trước những khao khát hạnh phúc của mình, có lẽ họ đã không đau khổ nhiều như
thế. Nhưng như thế, thế giới này còn gì?
Lê
Minh Hà
(Trích từ Gió
Tự Thời Khuất Mặt)