Lời người dịch:
Truyện ngắn sau đây trích trong tập truyện “A
Twist in The Tale” của Jeffrey Archer, nhà văn Anh. Được sự cho phép của
tác giả (qua thư riêng ngày 3 tháng 12, 1997), và sự đồng thuận của
nhà Harper Collins Publishers (thư ngày 2-2-1998), chúng tôi hân
hạnh dịch để cống hiến quí độc giả một câu chuyện lý thú.
Một điều lý thú không kém câu chuyện sắp kể là một tác giả
ở phương Tây và một tác giả ở phương Đông đã gặp nhau qua nhân vật của mỗi người:
nhân vật của Jeffrey Archer trong truyện này và nhân vật của Nguyễn Tuân trong
“Chén Trà Trong Sương Sớm” đã nâng tửu đạo và trà đạo của mình lên mức tuyệt kỹ.
HKL.
LẦN ĐẦU TIÊN tôi gặp Sefton Hamilton là vào cuối tháng Tám năm
ngoái khi vợ chồng tôi dùng cơm với vợ chồng Henry và Suzanne Kennedy tại nhà họ
ở Warwick Square.
Hamilton nằm trong số những người đàn ông bất hạnh thừa hưởng
những gia tài kếch sù chứ chẳng có gì khác. Anh ta dễ làm chúng tôi tin rằng
anh ít thì giờ đọc sách báo và chẳng có thì giờ đi xem kịch hay nghe nhạc. Tuy
nhiên, điều đó không cấm anh ta lên tiếng trong mọi đề tài từ Shaw đến
Pavarotti, từ Gorbachev đến Picasso. Chẳng hạn, anh ta thắc mắc kẻ thất nghiệp
phải than phiền gì khi tiền trợ cấp của họ chỉ có kém chút đỉnh mức lương anh
ta đang trả cho nhân công làm việc trong dinh cơ của mình. Anh ta bảo họ chỉ
dùng tiền đánh đề và uống rượu.
Trò uống rượu đã đưa đẩy tôi quen biết một người khách nữa
trong bàn tiệc đêm đó. Freddie Barker, chủ tịch Hiệp Hội Rượu Chát, ngồi đối diện
vợ tôi, và không giống Hamilton, ít khi thốt một lời. Henry đã trấn an tôi qua
điện thoại rằng Barker không những đã đưa Hiệp Hội trở lại vị thế tài chính trước
kia mà còn là một tay sành sõi trong lĩnh vực ông ta. Tôi hy vọng góp nhặt được
đôi điều bổ ích. Mỗi lần Barker có dịp chen vào giữa câu chuyện, ông ta đều chứng
tỏ một độ hiểu biết về đề tài đang nói đủ để tôi tin rằng nếu Hamilton chỉ im lặng
đủ lâu để có thì giờ nói thì chắc ông ta sẽ làm cho mọi người say mê với địa hạt
của mình.
Trong khi chủ nhân dọn ra món bánh nướng dòn xốp để khai vị
thì Henry đi quanh bàn rót rượu vào ly của từng người.
Barker nâng ly lên mũi ngửi mùi rượu một cách sành điệu. “Thật
thích hợp trong năm thứ hai trăm là mình đang uống một thứ rượu chát trắng Úc của
niên đại đó. Tôi tin chắc chẳng bao lâu danh tiếng rượu trắng của họ sẽ khiến
người Pháp công nhận.”
“Người Úc ấy à?” Hamilton vừa đặt ly rượu xuống vừa hỏi lại
với vẻ mặt khó tin. “Làm sao một nước uống bia như hũ chìm lại có thể bắt đầu
hiểu công việc đầu tiên về sản xuất một thứ rượu chỉ tạm uống được?”
“Tôi nghĩ ông sẽ thấy,” Barker nói, “rằng người Úc ...”
“Đúng hai trăm năm thật,” Hamilton tiếp tục. “Chúng ta hãy
xem, họ chỉ cử hành lễ hai trăm năm tạm thích.” Không ai cười cả, trừ Hamilton.
“Nếu được quyền làm, tôi sẽ tống khứ tất cả phạm nhân của chúng ta sang xứ đó.”
Chẳng ai nghi ngờ anh ta.
Hamilton nhấm rượu từng ngụm nhỏ một cách dò dẫm, như
một kẻ sợ sẽ bị ngộ độc, rồi bắt đầu giải thích tại sao theo quan điểm mình các
quan tòa lại quá nương tay với những tội phạm lặt vặt. Tôi tập trung tâm trí
vào thức ăn hơn là nghe ông bạn ngồi cạnh cứ không ngừng cho tuông ra quan điểm
của mình.
Tôi vốn mê món thịt bò Wellington, và Suzanne có thể làm món
bánh ngọt cắt không vỡ vụn và món thịt mềm đến nỗi vừa ăn xong vòng đầu khách
đã nghĩ ngay đến Oliver Twist. Chắc chắn là điều đó đã giúp tôi chịu đựng sự
khoác lác của Hamilton. Barker khó khăn lắm mới chuyển được cho Henry lời khen
của ông ta về phẩm chất của rượu chát đỏ, chen vào khoảng ngừng giữa các ý kiến
của Hamilton về cơ hội Paddy Ashdown phục hồi Đảng Cấp Tiến và về vai trò tương
lai của Arthur Scargill trong phong trào công đoàn làm cho mọi người không có dịp
trả lời.
“Tôi không cho các cộng sự viên của tôi gia nhập công đoàn nào
cả,” Hamilton tuyên bố thế, và nốc cạn ly rượu. “Tôi điều hành một hãng kín cổng
cao tường.” Lại một lần nữa anh ta tự cười tán thưởng lời khôi hài của mình và
đưa chiếc ly trống không của mình lên cao làm như là sẽ có một phép lạ châm rượu
vào ly. Thực ra Henry châm rượu vào ly với một thái độ làm Hamilton phải ngượng
– nhưng anh ta không thấy. Trong một thoáng im lặng tiếp theo, vợ tôi góp ý rằng
có lẽ phong trào công đoàn phát sinh là để đáp ứng nhu cầu thực sự của xã hội.
“Chẳng ra cái nghĩa lý gì cả, thưa bà,” Hamilton đáp. “Không
phải tôi nói xấu họ, chứ các công đoàn từ lâu nay chính là yếu tố quan trọng
duy nhất làm suy đồi nước Anh như chúng ta biết. Họ chẳng quan tâm tới lợi ích
của một ai ngoài chính họ. Bà chỉ cần nhìn vào Ron Todd và toàn bộ sự thất bại
của chương trình Ford cũng hiểu được.”
Suzanne bắt đầu dọn dẹp chén đĩa trên bàn và tôi thấy nàng
nhân cơ hội đó khẽ khều Henry khiến anh ta lẹ làng đổi sang đề tài khác.
Lát sau, món bánh trứng nướng nhân trái cây lóng lánh một lớp
nước sốt đặc ngoài bì được dọn ra. Nếu phải cắt ra từng mảng cái công trình
sáng tạo kia thì thật tội nghiệp, thế nhưng Suzanne cẩn thận chia làm sáu khẩu
phần hậu hĩ như một người vú em chăm lo bữa ăn cho các em bé dưới sự đảm trách
của mình trong khi Henry khui chai rượu ngọt Sauternes của năm 1981. Barker gần
như liếm môi thèm thuồng.
“Và còn điều này nữa,” Hamilton nói, “vị Thủ Tướng đã đưa
vào nội các của mình nhiều nhân vật bảo thủ quá làm tôi không thích.”
“Ông muốn thay thế họ bằng những người nào?” Barker hỏi một
cách vô tình.
Đại Đế Herod chắc cũng không thấy khó khăn mấy trong việc
thuyết phục danh sách những vị Hamilton ủng hộ rằng sự tàn sát những người vô tội
chỉ là sự nối dài của chương trình giữ trẻ.
Thêm một lần nữa tôi lại thấy thích thú trong nỗ lực làm bếp
của Suzanne, nhất là nàng đã nuông chìu tôi: phó mát được dành cho món cuối
cùng. Ngay khi tôi vừa nhấm lưỡi vào là tôi biết nó đã được gửi mua từ nông trại
của anh em nhà Alvis ở Keynsham; chúng ta ai cũng có một ngón sành, và ngón
sành của tôi là phó mát.
Để đi kèm với phó mát, Henry đã đãi rượu chát ngọt màu thẫm,
một màn sẽ trở thành trung tâm điểm của buổi tiệc đêm đó. “Sandeman 1970,” anh
ta nói như nhắn riêng với Barker khi vừa rót những giọt đầu tiên vào ly của nhà
chuyên viên nếm rượu.
“Đúng, dĩ nhiên,” Barker nói và nâng ly rượu đưa sát mũi, “gặp
bất cứ ở đâu tôi cũng nhận ra nó. Độ nồng ấm của Sandeman điển hình đây mà
hương vị thì thật đậm đà. Anh Henry, tôi hy vọng anh đã để dành vài chai. Anh
còn mê nó hơn nữa lúc về già.”
“Ông nghĩ mình là tay sành sõi về rượu, phải không ạ?”
Hamilton lên tiếng, câu hỏi đầu tiên của anh ta suốt từ đầu buổi tối tới giờ.
“Không hẳn thế,” Barker nói, “nhưng tôi ...”
“Các ông là một đám nói phét, rất nhiều trong số các ông,”
Hamilton xen vào. “Các ông hít thử rồi các ông đưa cao ly đảo một vòng, các ông
nếm thử rồi các ông khạc nhổ, đoạn các ông phun ra cả một bài thuyết giảng hoa
mỹ, tràng giang đại hải, và hy vọng chúng tôi nuốt vào hết. Hương vị với độ nồng
ấm, của đáng tội. Ông không dễ gì lừa bịp tôi đâu.”
“Không ai cố gắng lừa bịp ông cả,” Barker nói với vẻ bị
khích động.
“Ông đã khéo léo suốt buổi tối áp đặt lên chúng tôi một bài
diễn thuyết,” Hamilton đáp trả, “với điệp khúc ‘đúng, dĩ nhiên, gặp bất cứ ở
đâu tôi cũng nhận ra nó.’ Vừa phải thôi chứ, thừa nhận đi.”
“Tôi không có ý nói ...” Barker đáp.
“Tôi sẽ chứng minh, nếu ông muốn,” Hamilton nói.
Cả năm chúng tôi trố mắt nhìn người khách khiếm nhã, và lần
đầu tiên trong buổi tối đó tôi tự hỏi điều gì sẽ tiếp theo đây.
Hamilton nói tiếp, “Tôi nghe người ta nói nhà Sefton Hall tự
hào có một hầm rượu nằm trong số những hầm rượu tuyệt hảo của nước Anh. Nó được
truyền lại từ đời ông nội và đời cha tôi, tuy thú thực tôi không có thì giờ để
kế tục truyền thống đó.” Barker gật đầu tỏ vẻ tin tưởng. “Nhưng người quản gia
của tôi thì biết chính xác tôi thích rượu gì. Vì thế, tôi xin được mời ông lại
nhà tôi dùng cơm trưa vào Thứ Bảy tiếp theo sau tuần này, lúc đó tôi sẽ trình bốn
thứ rượu xưa thượng hảo hạng để ông thẩm định. Và tôi đề nghị một cuộc cá độ,”
anh ta vừa nói thêm vừa nhìn thẳng Barker. “Năm trăm bảng Anh ăn năm mươi bảng
Anh cho một chai – chắc ông thấy hấp dẫn – mà ông sẽ không nói được tên một
chai nào cả.” Anh ta nhìn vị chủ tịch xuất sắc của Hiệp Hội Rượu Chát với vẻ
thách thức.
“Số tiền lớn quá nên tôi không thể ...”
“Ê, không dám chấp nhận thử thách sao, Barker? Vậy thì, thưa
ông, ông là một kẻ hèn nhát và nói phét.”
Sau một thoáng bối rối, Barker đáp, “Vâng, thể theo ý muốn của
ông. Dường như không còn lựa chọn nào khác, tôi đành chấp nhận thử thách của
ông.”
Một nụ cười thỏa mãn hiện trên gương mặt người kia. “Anh phải
đến làm nhân chứng, Henry,” anh ta quay sang nói với gia chủ. “Và tại sao
không đem theo ông bạn tác giả này nữa?” anh ta chỉ tôi và nói thêm. “Lúc đó
ông ấy sẽ tìm thấy chất liệu viết lách để thay đổi đề tài.”
Với cung cách của Hamilton rõ ràng là tình cảm của các bà vợ
chúng tôi chẳng phải là điều cần quan tâm. Mary ném cho tôi một nụ cười méo xệch.
Henry nhìn tôi ái ngại, nhưng tôi cảm thấy bằng lòng làm
quan sát viên một tấn tuồng sắp mở màn. Tôi gật đầu ưng thuận.
“Tốt,” Hamilton nói và đứng day, mẩu khăn còn dính ở cổ áo
mình. “Tôi mong gặp cả ba người tại Sefton Hall vào Thứ Bảy sau tuần tới. Mười
hai giờ rưỡi nhé?” Anh ta cúi đầu chào Suzanne.
“Tôi e không đến dự được,” nàng nói, để xua tan mọi nghi vấn
mình có thể bị ghép vào lời mời đó. “Vào Thứ Bảy tôi luôn luôn phải đến dùng
cơm trưa với mẹ tôi.”
Hamilton đưa tay lên để tỏ dấu hiệu rằng điều đó không có gì
phiền hà anh ta cả.
Sau khi Hamilton đi rồi chúng tôi ngồi im lặng một lúc, rồi
Henry lên tiếng. “Tôi xin lỗi về sự việc Hamilton,” anh mở đầu. “Mẹ của anh ta
và cô tôi là chỗ bạn bè cũ và đã mấy lần bà ta xin tôi hãy mời anh ta qua nhà
dùng cơm cho vui. Hình như chẳng có ma nào chịu mời mọc anh.”
“Đừng lo,” sau cùng Barker nói. “Tôi sẽ gắng hết khả năng
mình để không phụ lòng anh. Và để đáp lại tấm lòng hiếu khách tuyệt vời này, có
lẽ xin hai anh dành cho tôi buổi tối Thứ Bảy.” Ông ta giải thích, “có một tiệm
ăn gần tòa nhà Sefton Hall mà tôi hằng muốn viếng nhưng chưa có dịp: nhà hàng
Hamilton Arms. Thực đơn, bảo đảm rất nhiều món, nhưng rượu thì ...” ông ta ngập
ngừng, “theo các tay chuyên viên đánh giá là tuyệt hảo.”
Henry và tôi xem lại sổ lịch trình của mình và hân hoan nhận
lời mời.
Tôi nghĩ nhiều về Sefton Hamilton trong mười ngày sau đó và
chờ đợi bữa tiệc trưa với một tâm trạng lẫn lộn lo sợ và trông mong. Buổi sáng
Thứ Bảy, với Henry làm tài xế, cả ba chúng tôi xuống Sefton Park và chúng tôi đến
nơi sau mười hai giờ rưỡi một tí. Thực ra chúng tôi đi xuyên qua cái cổng sắt đồ
sộ đúng mười hai giờ rưỡi, nhưng tiến đến cửa lúc mười hai giờ ba mươi bảy
phút.
Trước khi chúng tôi kịp đưa tay gõ thì cánh cửa bằng gỗ sồi
to tướng đã được một anh chàng cao lớn, phong cách sang, mặc áo đuôi tôm, thắt
cà vạt đen, mở ra. Anh ta tự giới thiệu là Adams, quản gia. Đoạn anh ta đưa
chúng tôi vào phòng khách, tại đây một lò sưởi lớn đốt bằng củi đang chào đón
chúng tôi. Phía trên lò sưởi treo bức ảnh một người đàn ông vẻ mặt khó đăm đăm
mà tôi đoán là ông nội của Sefton Hamilton. Trên tường ở các phía khác treo một
miếng thảm lớn với họa hình trận đánh Waterloo và một bức tranh sơn dầu khổng lồ
mô tả trận chiến Crimea. Đó đây trong phòng toàn đồ gỗ xưa và một bức tượng
điêu khắc phô bày một lực sĩ Hy Lạp đang ném đĩa. Nhìn quanh phòng tôi thấy chỉ
chiếc điện thoại là đồ vật thuộc thế kỷ hiện tại.
Sefton Hamilton bước vào phòng như một con chim sơn ca lạc
vào một thành phố duyên hải chẳng có gì thích thú. Anh ta liền đứng quay lưng
vào ngọn lửa, cản cả nguồn hơi nóng mà chúng tôi đáng lẽ đang được hưởng.
“Whisky!” anh ta cất giọng san sản vừa lúc Adams lại xuất hiện.
“Barker nhé?”
“Tôi không uống,” Barker đáp, khẽ nhếch mép cười.
“À,” Hamilton nói, “muốn giữ vị giác trong độ bén nhạy nhất,
phải không?”
Barker không trả lời. Trước khi bước vào bàn tiệc, chúng tôi
được biết khu điền sản rộng bảy nghìn mẫu và có vài trong số những vùng săn bắn
tuyệt vời nhất nằm ngoài Tô Cách Lan. Dinh thự này có một trăm mười hai phòng,
trong đó có vài phòng Hamilton chưa lần nào bước vào từ hồi nhỏ tới giờ. Điều
sau cùng anh ta cho chúng tôi biết là mái nhà trải rộng một mẫu rưỡi, một con số
thống kê mà tôi sẽ còn giữ trong trí lâu dài vì nó cùng kích thước với khu vườn
của tôi.
Đồng hồ trong chiếc khung dài ở góc phòng gõ một tiếng. “Giờ
cuộc thi bắt đầu,” Hamilton tuyên bố, và dấn bước ra khỏi phòng như một vị tướng
nghiễm nhiên cho rằng binh sĩ sẽ theo sau mình răm rắp. Chúng tôi theo sau, đi
hết hành lang dài ba mươi yards đến phòng ăn. Cả bốn chúng tôi ngồi quanh chiếc
bàn bằng gỗ sồi từ thế kỷ thứ mười bảy có thể dung nạp đến hai mươi người.
Điểm trang thêm cho phần trung tâm của chiếc bàn là hai chai
rượu kiểu cách thời đại các vua George có bộ phận đóng mở khi rót, và hai chai
rượu kiểu thường không nhãn hiệu. Chai thường thứ nhất đựng một thứ rượu trắng
trong suốt, chai kiểu thứ nhất chứa rượu đỏ, chai thường thứ nhì đựng rượu trắng
đục hơn, và chai kiểu thứ nhì đựng rượu màu đỏ bầm. Trước bốn chai rượu là bốn
tấm cạc trắng. Cạnh mỗi cạc là một xấp mỏng gồm những tờ giấy bạc năm mươi Anh
kim.
Hamilton ngồi tại một ghế dựa lớn ở đầu bàn trong khi Barker
và tôi ngồi đối mặt nhau ở khoảng giữa bàn, đối diện mấy chai rượu, còn lại
Henry phải chiếm chỗ cuối cùng ở đầu bàn bên kia.
Viên quản gia đứng cách một bước đằng sau ghế ông chủ. Y khẽ
gật đầu tức thì bốn gã gia nhân xuất hiện, bưng đồ phục vụ cho vòng đầu. Một
đĩa thập cẩm cá với tôm và rau cải xào được đặt trước mỗi thực khách. Khi ông
chủ gật đầu Adams mới nâng chai rượu thường đầu tiên lên khui và bắt đầu rót
vào ly của Barker. Đợi cho viên quản gia đi một vòng quanh bàn rót rượu vào ba
ly kia xong Barker mới bắt đầu nghi thức của mình.
Trước hết ông ta nâng ly vừa đảo một vòng vừa xem xét cẩn thận.
Đoạn ông ta hít hơi rượu vào. Ông ta ngập ngừng và một thoáng ngạc nhiên hiện
trên nét mặt ông ta. Ông ta nhấm một chút rượu.
“Um,” cuối cùng ông ta thốt lên. “Thú thực, một thử thách
đây.” Ông ta lại nhấm nữa cho chắc. Đoạn ông ta ngước lên và mỉm một nụ cười tự
mãn. Hamilton trố mắt nhìn ông ta, miệng hơi há, mặc dù im lặng một cách khác
thường.
Barker nhấm rượu một lần nữa. “Montagny Tête de Cuvée 1985,”
ông ta tuyên bố với tự tin của một chuyên viên, “do Louis Latour đóng chai.” Mọi
cặp mắt chúng tôi đều dồn về phía Hamilton lúc này không dằn được cái nhếch mép
cười đắc thắng; nhưng gương mặt viên quản gia thì tương phản lại, đổi sang màu
xám tro.
“Ông nói đúng,” Hamilton đáp. “Do Latour đóng chai. Nhưng
nói thế cũng giống như khéo bảo chúng tôi rằng Heinz đóng chai sốt cà chua.
Nhưng vì bố tôi mất năm 1984 nên tôi biết chắc ông đã lầm rồi, thưa ông.” Anh
ta ngoái nhìn người quản gia của mình để xác nhận lời nói. Vẻ mặt của Adams vẫn
khó hiểu. Barker lật tấm cạc. Lời ghi: “Chevalier Montrachet Les Demorselles
1981.” Ông ta nhìn đăm đăm tấm cạc, rõ ràng không tin nổi mắt mình.
“Thua một, còn ba ván nữa,” Hamilton tuyên bố, không nhận thấy
phản ứng của Barker. Gia nhân lại xuất hiện, dẹp các đĩa cá để thay bằng món gà
gô luộc một lát sau đó. Trong khi các thức đi kèm món chim được dọn ra, Barker
không nói một lời. Ông ta chỉ nhìn vào ba chai rượu kia, thậm chí không nghe
gia chủ báo cho Henry biết những ai sẽ là khách trong dịp khai diễn mùa săn bắn
vào tuần sau. Tôi nhớ lại những tên tuổi đó tương ứng với hầu hết những người
mà Hamilton đề nghị cho nội các lý tưởng của mình.
Barker nhấm nháp qua loa món gà gô luộc trong lúc chờ Adams
rót rượu từ chai kiểu thứ nhất. Ông ta ăn chưa hết đĩa rau xào thập cẩm sau trận
thua mở màn, chỉ thỉnh thoảng uống một ngụm nước nhỏ.
“Vì tôi và Adams đã bỏ ra một khoảng thì giờ đáng kể sáng
nay để chọn rượu cho cuộc thử thách nhỏ này, chúng ta hãy hy vọng lần này ông sẽ
tiến hơn,” Hamilton nói, và không giấu được vẻ thỏa mãn. Lại một lần nữa Barker
bắt đầu đưa ly rượu lên đảo một vòng. Hình như lần này ông ta mất thì giờ nhiều
hơn, hít hơi rượu mấy lần trước khi đưa lên môi nếm, và cuối cùng nhấp một ngụm
nhỏ.
Trên mặt ông hiện lên nụ cười cho thấy đã nhận ra rượu gì,
và ông không do dự. “Château la Louvière 1978.”
“Thưa ông, lần này ông nói đúng năm, nhưng ông đã sỉ nhục loại
rượu.”
Barker lập tức lật tấm cạc lên và đọc lớn với vẻ khó tin:
Château Lafite 1978. Cỡ tôi mà còn biết đó là một trong những loại rượu đỏ cao
cấp nhất mà người ta hằng mong được nếm thử. Barker chìm vào một khoảng im lặng
sâu thẳm và tiếp tục nhâm nhi từng miếng nhỏ thức ăn. Với Hamilton, dường như sự
thích thú uống rượu cũng ngang hàng với nỗi hân hoan mới nửa trận đã ghi bàn thắng.
“Một trăm Anh kim về phần tôi, ông Chủ Tịch Hiệp Hội Rượu Chát không có gì cả,”
anh ta nhắc chúng tôi thế. Cảm thấy bối rối, Henry và tôi cố gắng giữ cuộc đàm
thoại liên tục cho đến khi thức ăn của vòng ba được dọn ra – một món bánh phồng
chanh còn kém xa những món của Suzanne về trình bày hay về kỹ thuật nấu nướng.
“Chúng ta có thể bước sang màn thi thứ ba được chưa?”
Hamilton hỏi gọn lỏn.
Một lần nữa, Adams cầm chai rượu lên và bắt đầu rót. Tôi ngạc
nhiên thấy y làm rơi ra ngoài một tí rượu khi rót vào ly của Barker.
“Vụng về,” Hamilton sũa lên
“Tôi xin lỗi,” Adams nói. Y dùng khăn lau sạch chỗ rượu đổ
trên mặt bàn gỗ. Khi làm động tác đó y nhìn Barker với cái nhìn tuyệt vọng mà
theo cảm nhận của tôi không dính dáng gì tới việc làm đổ rượu. Tuy vậy y vẫn lặng
thinh trong khi tiếp tục đi quanh bàn rót rượu.
Lại một lần nữa Barker thực hành nghi thức của ông ta từ đầu
đến cuối, đảo ly, hít hơi rượu, và sau cùng nếm rượu. Lần này ông ta lại còn tốn
nhiều thì giờ hơn nữa. Hamilton trở nên sốt ruột và dùng mấy ngón tay dùi đục của
anh ta gõ nhịp trên chiếc bàn to tướng xưa từ thời vua James ở thế kỷ mười bảy.
“Đó là một chai Sauternes,” Barker nói.
“Một kẻ khờ nào cũng nói được với ông như thế,” Hamilton
đáp. “Tôi muốn biết năm và xuất xứ của nó.”
Người khách do dự.
“Château Guiraud 1976,” ông ta nói đều giọng.
“Ít ra ông cũng trước sau như một,” Hamilton đáp. “Ông luôn
luôn đoán sai.”
Barker lật tấm cạc lên.
“Château d’Yquem 1980,” ông ta nói với vẻ mặt không tin. Đó
là một loại rượu từ trước tới giờ tôi chỉ thấy liệt kê ở cuối danh sách trong
các nhà hàng đắt tiền và chưa hề được nếm thử. Điều làm tôi ngỡ ngàng quá chừng
là có lý nào Barker lại đi lầm lẫn về loại rượu thuộc hàng nữ chúa của rượu.
Barker vội quay sang Hamilton định phản đối nhưng ắt hẳn đã
bắt gặp Adams đang đứng đằng sau chủ, cả tấm thân cao hai thước của y đang run
rẩy, đúng ngay lúc tôi cũng nhìn thấy. Ước gì Hamilton bỏ đi lúc đó để tôi có
thể hỏi Adams vì cớ gì y run sợ như vậy, nhưng ông chủ của dinh thự Sefton Hall
lúc bấy giờ đang hăng say rượt đuổi con mồi.
Trong khi đó Barker nhìn người quản gia thêm một lúc nữa, và
vì thấy y lúng túng bèn cúi nhìn xuống, không góp một lời vào cuộc đàm thoại
trong bàn cho đến khi rượu chát đỏ được khui khoảng hai mươi phút sau đó.
“Dịp cuối để ông tránh một sự nhục nhã hoàn toàn,” Hamilton
nói.
Một khay trưng bày phó mát nhiều loại được bưng đi quanh bàn
để khách chọn loại mình ưa thích – tôi kết món phó mát Cheddar mà tôi có thể
nói được với Hamilton rằng không phải sản xuất ở Somerset. Trong khi đó thì người
quản gia, lúc này mặt mày trắng bệt như tờ giấy, rót rượu cho khách. Tôi tự hỏi
không biết y có sắp ngất xỉu không, nhưng rồi y cũng rót xong bốn ly rượu và trở
về đứng cách một bước đằng sau ghế ông chủ. Nhìn trước mặt, Hamilton chẳng ghi
nhận điều gì.
Barker uống ly rượu chát đỏ, chẳng buồn làm các nghi thức
vào đề như mấy lần trước.
“Taylor,” ông ta lên tiếng.
“Đồng ý,” Hamilton nói. “Nhưng trên thế giới chỉ có ba nhà
cung cấp rượu chát đỏ với phẩm chất ra hồn, nên niên đại sản xuất mới là điều
đáng nói – mà ông trong địa vị vẻ vang hẳn phải biết, ông Barker ạ.”
Freddie Barker gật đầu đồng ý. “Một nghìn chín trăm bảy mươi
lăm,” ông nói, giọng vững chắc, rồi lật nhanh tấm cạt.
“Taylor, 1927,” tôi đọc hàng chữ ngược.
Một lần nữa, Barker quay phắt sang chủ nhà đang cười nghiêng
ngả. Anh chàng quản gia nhìn vị khách của chủ mình bằng đôi mắt thất thần.
Barker chỉ do dự chốc lát rồi rút cuốn ngân phiếu từ túi trong ra. Ông ta viết
tên “Sefton Hamilton” và con số L200. Ông ta ký tên và không nói không rằng đẩy
tấm chi phiếu trên bàn về phía chủ nhà.
“Vừa rồi cũng chưa phải là một giá hời lắm đâu,” Hamilton
nói, khoái trá trong từng bàn thắng của mình.
Barker đứng dậy, ngừng một chốc rồi nói, “tôi là kẻ nói
phét.”
“Thưa ông, đúng thế ạ.” Hamilton nói.
Sau khi trải qua ba giờ đồng hồ khổ sở nhất trong đời mình,
tôi tìm cách chuồn khỏi nơi đó cùng Henry và Freddie Barker vào khoảng bốn giờ
hơn. Trong khi Henry lái xe rời khỏi lâu đài Sefton Hall không ai trong chúng
tôi thốt một lời. Có lẽ cả hai chúng tôi đều cảm thấy rằng nên để Barker lên tiếng
trước.
“Quí vị ạ, tôi e rằng,” cuối cùng ông ta nói, “từ giờ cho đến
mấy tiếng đồng hồ nữa tôi sẽ không làm trọn một kẻ đồng hành vui vẻ, vì vậy xin
quí vị cho phép tôi tản bộ một lúc và gặp lại cả hai để ăn cơm tối tại Hamilton
Arms vào khoảng bảy giờ rưỡi. Tôi đã đặt bàn lúc tám giờ.” Không nói lời nào
thêm, Barker ra hiệu cho Henry dừng xe lại, và chúng tôi nhìn theo ông ta leo
ra khỏi xe, bước xuống một con đường quê. Henry đợi đến khi người bạn đã khuất
nẻo mới cho xe chạy.
Thiện cảm của tôi hoàn toàn dành cho Barker, mặc dù tôi vẫn
ngỡ ngàng với cả mớ sự việc kia. Làm sao vị Chủ Tịch Hiệp Hội Rượu Chát lại có
thể có những lẫn lộn sơ đẳng thế kia? Dù gì đi nữa, tôi vẫn có thể đọc một
trang của Dickens và biết ngay nó không phải của Graham Greene.
Giống như nhân vật bác sĩ Watson, tôi cảm thấy mình cần một
lời giải thích đầy đủ hơn.
Đêm đó, quá bảy giờ rưỡi một tí Barker đến tiệm Hamilton
Arms và gặp chúng tôi đang ngồi quanh lò sưởi trong một quầy rượu dành riêng.
Sau khi vận động thể dục, ông ta có vẻ lên tinh thần nhiều. Ông ta không nói
chuyện gì quan trọng và không hề đề cập đến sự việc xảy ra tại bữa ăn trưa.
Đâu chừng mấy phút sau, lúc tôi quay lại nhìn chiếc đồng hồ
cũ phía trên cánh cửa để xem giờ thì tôi mới trông thấy người quản gia của
Hamilton ngồi tại quầy rượu đang nói chuyện ra vẻ nghiêm trọng với người chủ tiệm.
Đúng ra có thể tôi đã chẳng quan tâm đến điều lọt vào mắt mình nếu tôi không nhận
ra cái vẻ mặt sợ hãi của y lúc chỉ chỏ về phía chúng tôi, cái vẻ sợ hãi mà tôi
đã chứng kiến lúc ban trưa. Gã chủ tiệm cũng tỏ ra lo lắng không kém, giống như
bị nhân viên quan thuế hay thuế vụ bắt về tội buôn bán gian dối.
Gã cầm mấy tờ thực đơn và tiến đến bàn chúng tôi.
“Chúng tôi không cần những tờ này,” Barker nói. “Danh tiếng
của tiệm ông đi phía trước ông. Chúng tôi phó thác tất cả cho ông. Ông đề nghị
món gì thì chúng tôi hân hạnh dùng món đó.”
“Xin đa tạ ông,” gã đáp và đưa bảng liệt kê các thứ rượu cho
khổ chủ của chúng tôi.
Barker xem xét nội dung cặp bên trong cái bìa bằng da một
lúc, trước khi nở một nụ cười rạng rỡ. “Tôi nghĩ ông cũng nên chọn hộ rượu luôn
thể,” ông ta nói, “bởi vì tôi có cảm tưởng ông biết loại tôi muốn gọi.”
“Thưa ông, dĩ nhiên,” gã chủ tiệm nói trong khi Freddie đưa
trả tờ tửu đơn, khiến tôi hoàn toàn không hiểu gì cả, vì mình vẫn nhớ đây là lần
đầu tiên Barker đến tiệm. Trong khi chúng tôi nói chuyện gẫu, gã chủ tiệm đi
vào bếp, và khoảng mười lăm phút sau mới trở ra.
“Thưa quí vị, bàn đã sẵn sàng,” gã nói, và chúng tôi đi theo
gã vào một phòng ăn kế cận. Tất cả chỉ có mười hai bàn nhưng vì bàn chúng tôi
là bàn cuối còn trống nên danh tiếng của tiệm quả là điều không còn nghi ngờ.
Chủ tiệm đã chọn thực đơn buổi tối gồm món súp lỏng, tiếp
theo là thịt vịt thái mỏng, hầu như gã đã biết trước chúng tôi không kham nỗi một
bửa ăn ruờm rà nữa sau bữa ăn trưa tại tòa dinh thự.
Tôi cũng ngạc nhiên thấy những thứ rượu gã chọn đều đựng
trong loại chai kiểu có bộ phận gạn lọc, đóng mở, và tôi cho rằng chủ tiệm đã
chọn rượu quí của nhà hàng. Nếm hết thứ này tới thứ khác, dù vị giác của tôi
không được đào luyện, tôi phải nhận rằng rượu ở đây vượt xa các loại mà tôi đã
uống ở Sefton Hall trước đó trong ngày. Barker dường như lưu luyến từng ngụm rượu
và có một lúc ông ta nói với một thái độ đánh giá, “Đây mới là McCoy chính cống.”
Cuối buổi tối, khi bàn ăn đã được thu dọn, chúng tôi ngồi nhẩn
nha thưởng thức rượu chát đỏ tuyệt ngon và hút xì gà.
Chính lúc này Henry mới đề cập đến Hamilton lần đầu tiên.
“Anh có định cho chúng tôi biết điều bí ẩn của những gì thực
sự xảy ra tại buổi ăn trưa hôm nay không?” anh hỏi.
“Tôi vẫn không hoàn toàn chắc chắn,” Barker đáp, “nhưng tôi
biết chắc một điều: bố của ông Hamilton là một kẻ biết rõ rượu của mình, còn
người con trai của cụ thì không.”
Nếu gã chủ tiệm không bước đến bên Barker lúc đó thì tôi đã
vặn hỏi thêm về đề tài đó rồi.
“Bữa ăn xuất sắc,” Barker tuyên bố. “Còn về rượu, tuyệt hảo.”
“Ông quá khen, thưa ông,” gã chủ tiệm nói, và đứa tấm hóa
đơn tính tiền.
Không dằn được tò mò, xin lỗi bạn đọc tôi phải thú thực, tôi
đã liếc nhìn phần cuối mảnh giấy mỏng. Tôi không tin mắt mình – hóa đơn lên đến
hai trăm bảng Anh.
Tôi ngạc nhiên nghe Barker chỉ khen, “Rất phải chăng, về mọi
thứ.”
Ông ta viết một chi phiếu và trao cho chủ tiệm. “Tôi chỉ được
nếm Château d’Yquem 1980 một lần trước ngày hôm nay,” ông nói tiếp, “còn Taylor
1927 thì chưa bao giờ.”
Chủ tiệm mỉm cười. “Thưa ông, mong rằng ông đã ưa thích cả
hai. Tôi tin chắc ông đã không muốn thấy những thứ rượu đó bị phí phạm cho một
kẻ nói phét.”
Barker gật đầu tán thành.
Tôi nhìn gã chủ tiệm rời phòng ăn và trở về chỗ ngồi của
mình đằng sau quầy rượu.
Gã trao tấm chi phiếu cho Adams, viên quản gia, người này
xem xét một lúc, mỉm cười đoạn xé ra từng mảnh vụn.
JEFFREY
ARCHER | Bản dịch: HÀ KỲ LAM