09 December 2017

SAU NGUYỄN BÍNH NGÀY XƯA, DÂN NGHÈO THỜI NAY CŨNG ‘HÀNH PHƯƠNG NAM’ - Phạm Nga

Vào năm 1943, tức cách đây 74 năm, Nguyễn Bính cùng Tô Hoài, Vũ Trọng Can rủ nhau làm chuyến “hành phương Nam”. Chính ra, cách nói “hành phương Nam” liên quan mật thiết đến một bài thơ tựa là ‘Bài hành phương Nam’, được Nguyễn Bính sáng tác cũng trong năm 1943. Đó là một bài thơ phóng dật, chan chứa cảm thán từ cả hai chuyến nhà thơ vào Nam rong ruổi giang hồ…, do trước đó, vào khoảng năm 1939, Nguyễn Bính đã từng vào Sài Gòn và vài vùng lân cận, lê gót ở Chợ Quán, Đa Kao rồi sang Biên Hòa, xuống Mỹ Tho, Vĩnh Long…


Mặt khác, tương tự như thể loại ký sự, bút ký bên tản văn, ‘hành’ bên thi ca mang tính cách một hình thức phô diễn những suy nghĩ, cảm xúc của nhà thơ về một hoàn cảnh sống, một hành trình, cả là một đào thoát về mặt tâm tưởng. Nếu xa xưa, thi ca Trung Quốc có bài ‘Tỳ bà hành’ nổi tiếng của Bạch Cư Dị thì Việt Nam cũng có các bài ‘Tống biệt hành’, ‘Can trường hành’, ‘Vọng nhân hành’ tuyệt hay của Thâm Tâm, và tất nhiên cả bài ‘Bài hành phương Nam’ với cái tựa thật nôm na, giàu ấn tượng của Nguyễn Bính.

1.
Hai ta lưu lạc phương Nam này,
Đã mấy mùa qua én nhạn bay.

Đó là hai câu mở bài ‘Bài Hành Phương Nam’. Nguyễn Bính làm bài thơ này năm 1943, đề rõ là làm tại Đakao (một khu phố nhỏ, xưa còn gọi là Đất Hộ, nay là phường Đa Kao, thuộc Quận 1, Sài Gòn) tặng bạn mình là Văn Viễn khi nhà thơ chợt nhìn lại chuyện hai người tìm vào phương Nam. Để rồi:

Ngươi giam chí khí vòng cơm áo,
Ta trói thân vào lụy nước mây.

Vậy là vào thời ấy, chuyện họ vào đất Sài Gòn đã không hề là một chuyến du lịch nhàn hạ, phong lưu. Nào là ‘vòng cơm áo’ thiếu thốn đã kềm hãm chí khí làm việc lớn, nào là cứ sống hoang tưởng theo cảm xúc, theo ý thơ trong cảnh giới nước mây phiêu lãng thì phải chịu cái thực tế cơ cực trói buộc mãi. Nghĩa là một khi đã lưu lạc vào phương Nam thì nhóm văn nghệ sĩ Nguyễn Bính đã gặp phải những khó khăn không tránh khỏi. Tình cảnh này lại càng không phải là thắng lợi, thành công gì nếu như mục đích vào phương Nam của họ là đi làm ăn xa.
Nhưng giọng thơ hào sảng “Người ơi, buồn lắm mà không khóc/Mà vẫn cười qua chén rượu đầy!” cho thấy chính cái máu “chí nam nhi tại bốn phương”, thích phiêu bạt giang hồ đã là động cơ chính yếu thúc đẩy đôi bạn làm cuộc Nam tiến riêng tư của mình.
Sau này và cho đến ngày nay, lại có một số đông người từ phương Bắc, đất Trung, cũng quả quyết không kém nhóm Nguyễn Bính ít ỏi thời tiền chiến, cũng tìm về phương Nam. Chỉ có điều họ không dính líu gì đến thi ca, vì ngay từ lúc bỏ xứ ra đi, họ chỉ xác định duy nhất một điều: vào Nam kiếm sống. Chuyện con người phải tha phương cầu thực vốn đã có từ lâu đời trên khắp trái đất và tiếp diễn mãi qua các thời kỳ lịch sử.

2.
Vào thế kỷ 20, khi đất nước bi chia đôi năm 1954, hàng triệu người phương Bắc lũ lượt di cư vào Nam. Đến thập niên 60, cũng là tiến vào phương Nam nhưng thầm lặng, kín đáo hơn, một số dân nghèo miền Trung rời bỏ mảnh quê hương “đất cày lên sỏi đá” làm không đủ ăn của họ, cộng thêm lý do chiến tranh loạn lạc, tìm vào đất Sài Gòn mưu sinh. Như nhóm dân Quảng Nam, Quảng Ngãi, đàn ông thường đạp xích lô và phụ nữ thì đi ở mướn (trước kia gọi là người ở, con sen; báo chí gọi đùa là mari-sến, liên-tử; nay lại gọi là ôshin). Chịu cực chịu khổ, ky cóp được ít tiền là họ gởi về quê giúp gia đình. Thời đó, đất Sài Gòn dù được tiếng “dễ làm ăn” cũng không dễ hớp hồn người dân Quảng nặng tình hoài hương, nên không phổ biến chuyện người Quảng quyết ý ở lại lập nghiệp hẳn ở xứ người.


Đến thời sau ngày 30/4/1975, tại VN đã có tới cùng hai đợt di dân khác hướng nhau. Chiến tranh vừa kết liễu là đã có ngay đợt di dân thứ nhất với cả triệu người dân miền Nam di tản ra nước ngoài. Cùng thời gian này là đợt di dân thứ hai của một số người ở phía Bắc – hay gần hơn là từ những chiến khu, rừng rậm tây nguyên – gồm bộ đội, cán bộ, viên chức, công nhân cùng vào Nam với lý do chính thức là đi công tác, tức kiểm kê, quản lý, phục hồi sản xuất… mọi thứ đất đai, nhà cửa, tài sản, cơ sở vật chất – kỹ thuật bị tiếp quản. Rồi một cách đương nhiên nhưng thầm lặng, những người thuộc gia đình, thân nhân xa gần của những người chính thức đi công tác này cũng tìm mọi cách để đi ‘tư tác’ vào Nam luôn, với mục tiêu rất rõ ràng: kiếm sống ở Sài Gòn – vùng đất dù sao cũng còn mới mẻ, hứa hẹn giàu có, phát đạt. Ít ra, vào những ngày mới giải phóng, cái đô thành phố thất thủ vẫn còn đó rất nhiều thứ “còn xài được lắm!”.
Vậy là nối tiếp ‘Bài hành phương Nam’ thời tiền chiến, cả hai nhóm công tác và ‘tư tác’ nói trên đã làm nên ‘Bài hành phương Nam’ thời hậu chiến chẳng chút thi vị nhưng cũng rất hoành tráng.

Những nhà lý luận thường sính dùng từ “qui luật” khi lý giải mọi vấn đề. Vậy thì ở đây, hiện tượng “hoàn toàn nằm ngoài qui hoạch Nhà nước” là người dân dắt díu nhau cùng rời bỏ một nơi chốn khó kiếm sống để đi đến một nơi khác dễ sống hơn, thì nhất định là có tính qui luật, đáng được tìm hiểu bằng tinh thần thông cảm. Hơn thế, người từ Bắc tìm vào Nam ‘tư tác’ ngay sau ngày 30-4 thì không phải ai cũng nghèo, cần đi “cải thiện” miếng ăn, mà trái lại, cũng có một số người, không biết bằng cách nào vẫn làm giàu được tại miền Bắc, đã đáp tàu đáp xe vào Sài Gòn với cứu cánh duy nhất là tìm cơ hội làm giàu thêm nữa.
Cũng liên quan đến miếng ăn và đất sống, dân Sài Gòn, tức người địa phương, thời ấy mới vỡ lẽ, hiểu ra cái ý nghĩa cùng công dụng cực kỳ lớn lao, lợi hại của cái hộ khẩu. Thì ra, bản ngã cùng nhân cách mỗi ‘hữu thể con nguời’ theo cái nghĩa cao siêu, vi diệu của triết học, siêu hình học được bên hành chính thô bạo giản lược thành chỉ còn là ‘khẩu’, tức cái miệng, chẳn qua là để cho dễ quản lý. Hộ khẩu chính là niềm mơ ước của dân Bắc với câu thời danh “(Không có) hộ khẩu là hậu khổ!”. Còn dân Nam, trước kia có để ý gì đến cái sổ gia đình của chế độ cũ, nay mới biết thế nào là ‘hậu khổ’ khi cần xin phép làm ăn, buôn bán, chữa bịnh, học hành, khai sinh, khai tử.v.v.., nhất là khi mới học tập cải tạo về.

3.
Rồi đến thời hai thập niên 70 – 80, đã được nhìn nhận là một thời kiệt quệ, bế tắc sau một thời gian bị cấm vận, sản xuất thì thấp kém nhưng lãng phí, mất mát thì nhiều vì quản lý thì kém cỏi, chỉ có tham nhũng là ngày càng khởi sắc. Đất Sài Gòn vẫn cứ là một bầu sữa “chùa” có sẵn đấy nhưng cũng phải hao cạn dần theo ngày tháng bởi đám con cái đông lên gấp bội. Sài Gòn mà còn hao gầy trơ xương vì thời bao cấp thì các vùng đô thị lớn khác, như Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Nha Trang, Cần Thơ… chịu gì thấu!

Thế là… lại tiến vào Nam, vào Sài Gòn. Có đủ mặt dân tứ xứ, từ miền Bắc, miền Trung đến miền Tây, miền cao nguyên. Cuối những năm 70 lại có một biến động xã hội rất trái ngang, bức bối. Đó là với chính sách giản dân, giảm mật độ dân cư ngày càng tăng ở đô thị, một số dân Sài Gòn cố cựu dù có hộ khẩu hay không cũng bị buộc rời khỏi nơi cư trú bấy lâu để đến các vùng kinh tế mới được vội vàng dựng lên ở những tỉnh xa. Trong khi đó, không ai ngăn được làn sóng dân nghèo miền Bắc, miền Trung… cứ thầm lén liên tục nhập vào thành phố một cách bất hợp pháp. Cũng không ai thống kê được các trường hợp được nhập hộ khẩu vào thành phố (đang phải giản dân) nhờ “nhứt thế, nhì thân” tức là thế lực và quan hệ thân thuộc. Lại là một kiểu di dân ngược chiều đầy cay đắng cho kẻ phải ra đi, không khác hồi mới giải phóng, chỉ khác là có qui mô nhỏ hơn thôi. Nhưng cũng may là chương trình kinh tế mới nhanh chóng phá sản, lưu dân gốc Sài Gòn lại tìm cách quay về – một cách chính đáng – cái nền nhà xưa ở xóm cũ của mình trong thành phố.
Đặc biệt là từ thời “đổi mới”, bắt đầu “mở cửa” về kinh tế coi như từ năm 1986, cho phép thông thoáng hơn trong làm ăn, buôn bán, đưa đến sự ra đời nhiều hơn những cơ sở sản xuất – xây dựng – dịch vụ tư nhân, hợp tác công – tư… tức công ăn việc làm nhiều hơn, người ta càng đổ dồn về các vùng đô thị phía Nam nói chung và Sài Gòn nói riêng. Cần nói thêm là thành phố Sài Gòn sau năm 1975 đã mở rộng, nở ra về phía biển (huyện Cần Giờ) và về phía biên giới Campuchia (huyện Củ Chi), nhưng hai vùng xa xôi mới được kết nạp cho hưởng ké danh giá ấy chẳng hề thu hút được dân từ phương xa đến. Chỉ có ở Sài Gòn là dễ làm ăn nhất. Do đó, dân tứ xứ cứ tập trung vô khu nội ô, miễn cưỡng lắm thì ở vùng ven, vùng ngoại ô đang phát triển với các quận mới thành lập như: quận Thủ Đức, quận Bình Tân, quận Tân Phú, các quận 2, 7, 9, 12.

4.
Đến thập niên 90, quan hệ kinh tế “mở cửa” càng nới rộng ra khỏi khu vực Đông Nam Á, khiến cho ở những quận ven, huyện ngoại thành nói trên nhanh chóng mọc lên thêm những nhà máy, xí nghiệp do ngoại quốc đầu tư. Danh từ “dân nhập cư có tay nghề” được chính thức sử dụng phổ biến trên báo chí và công văn hành chính để gọi tên con số hằng trăm ngàn người, đa số ở tuổi thanh niên, từ các tỉnh dồn về Sài Gòn, nhằm đáp ứng nhu cầu nhân công của các nhà máy, công ty nước ngoài mà nhiều nhất là công nhân ngành may công nghiệp.

Còn người nhập cư không có tay nghề, chỉ có thể làm công việc chân tay lặt vặt, tạm gọi là lao động phổ thông, đồng thời không có tiền, không có vốn liếng thì sao? Cho đến ngày nay đã là thế kỷ 21, bộ mặt của những con người nghèo khó ấy hầu như rất ít thay đổi theo thời gian, thời cuộc. Ở thời thế nào thì họ cũng là người nghèo, không tài sản, đất đai, đi tha phương cầu thực hầu như chỉ với hai bàn tay trắng.
Năm 1980, gặp một nhóm dân từ Bắc vào Nam và tìm lên vùng Long Khánh làm đất thuê, dân địa phương phải lắc đầu khi nhìn thấy lưỡi cuốc tai tượng của họ quá lớn, gần gấp đôi lưỡi cuốc thường dùng trong vùng. Lưỡi cuốc lớn làm đất nhanh, nhiều hơn nhưng đồng thời tốn sức hơn. Đám người cùng khổ đã chấp nhận kiểu lao nhọc, cực khổ như thế vì không hề mơ màng như các nhà nghệ sĩ phiêu bạt giang hồ, họ dư biết là ở những vùng đất xa lạ, dù là đất hiếu khách đi nữa thì họ cũng phải bươn chải mới sống được vì luôn luôn có nhiều khó khăn chờ đón kẻ nhập cư. Hãy thử đi theo những bước chân kiếm sống rất đáng khâm phục của họ…
Có người Sài Gòn nhận xét rằng từ khá lâu, dân nhập cư đã lần hồi thay thế dân địa phương trong những nghề cần rất ít tiền vốn, đứng đầu là nghề bán hàng rong. Từ 3 – 4 giờ sáng, những người bán rau cải, tôm cá… bằng xe đạp rong ruổi trong hang cùng ngõ hẻm đã có mặt tại các chợ hàng bông – tức hàng rau xanh, củ quả – bán sỉ ở các chợ Gò Vấp, Bà Chiểu. Hỏi thăm quê quán thì các chị bảo mình dân Hải Dương, Thái Bình. Vài anh đi bán rau cải bằng xe ba gác thì nói mình dân Hà Nam – thì ra là đồng hương với nhà thơ Nguyễn Bính. Một nhóm rất đông, toàn là thanh niên vùng Thanh Hoá thì rủ nhau vào nghề thợ hồ.
Lại gặp các chị chuyên đi mua ve chai cũng là dân Thanh Hóa. Nhìn từ sau lưng trông các chị rất giống nhau: từ chiếc nón lá, găng tay đen, khẩu trang cho đến cái gọng bằng gỗ gắn ở yên xe đạp để chở đồ ve chai. Một nhóm thanh niên khác làm nghề tẩm quất (đấm bóp) thì cùng quê Thái Bình. Họ cũng giống nhau lạ lùng, cứ như được đúc ra từ một cái khuôn chung, từ kiểu để tóc ngắn, kiểu áo bỏ vô thùng, cho đến kiểu ràng cặp-táp đồ nghề ở yên sau xe đạp đều y chang nhau.
Còn nữa. Trên đường phố, những tiếng rao bán những món hàng rong như bánh chưng, bánh giò, dừa tươi, rau cải, trái cây.v.v.. nghe toàn là giọng Bắc, không rõ thuộc tỉnh nào. Vậy dân Nam bộ bán hàng rong đâu rồi? Cũng còn, nhưng không “chuyên ngành hoá” và “đồng hương hoá” như dân nhập cư. Đó là bà già bán xôi, chị bán vé số, anh bán cây kiễng rẻ tiền, mấy anh thu gom rác.v.v.. Nghề chạy xe ôm thì chỉ có một ít dân miền Trung tham gia, phần lớn vẫn là dân Nam bộ mà không thấy dân nhập cư gốc Bắc. Lý do dễ hiểu là muốn chạy xe ôm thì phải có tiền sắm xe và rành đường xá, là hai điều chưa thể dễ dàng có nơi dân nghèo mới nhập cư.
Bước xuống từ xe đò, xe lửa, đặt bước chân bỡ ngỡ lên vỉa hè của thành phố lớn, dân nhập cư lập tức phải đối đầu ngay với rất nhiều khó khăn trước mắt tại quê người, như công việc làm ăn, chỗ ở, nơi học hành của con cái nếu như còn ráng ‘nách’ chúng theo, và còn phải lo dành dụm gởi tiền về quê giúp gia đình. Họ phải cắm cúi làm ăn – đúng hơn là làm nhiều mà ăn thì rất ít, ở cũng chật chội hết mức – đầu tắt mặt tối, tiện tặn phải cỡ 2, 3 năm hay nhiều năm hơn không chừng mới bắt đầu dễ thở.
Hiện nay, đã hàng chục năm vào Nam, một số gia đình dân nhập cư được xem là thành công khi đã có thể mua được nhà nho nhỏ (cấp 4) hay thuê phòng, nhà ở riêng, không phải ở chung, chen chúc với các đồng hương trong những căn phòng chật chội, nhớp nháp tại những xóm tập trung toàn dân nhập cư. Nhưng ngược lại, nhiều gia đình nhập cư khác vẫn khổ sở cái cảnh ở chung, vẫn chật vật thức khuya dậy sớm làm lụng, vừa để nuôi miệng mình vừa để gởi tiền về quê tiếp tế cho con cái, ông bà. Có gia đình làm ăn thất bại ở Sài Gòn, sinh nợ sinh nần, chồng hay vợ buộc lòng phải lui về quê nhà, làm nông trở lại…

5.
Cuối cùng là chuyện một số dân nhập cư chọn “nghề” lang thang, xin ăn, tức ‘hành khất phương Nam’. Như theo một thống kê năm 2004, trong tổng số 446 người dân gốc các tỉnh đang sống lang thang ở Sài Gòn thì có đến 40 người (11,6%) đi xin ăn. Ở lứa tuổi thanh thiếu nhi, tình hình còn tệ hơn: trong số 8000 trẻ em lang thang, xin ăn trong thành phố có đến 82% là trẻ em gốc dân các tỉnh. Cũng năm này, có một anh thợ hớt tóc, dân Bắc kỳ 54, kể nơi anh ngụ là gần khu nhà thờ Xóm Mới Gò Vấp, có một gia đình dân nhập cư, nói giọng Bắc, đến thuê nhà ở lâu dài để làm nghề… xin ăn. Từ sáng sớm, già, trẻ, lớn, bé gì của gia đình ‘cái bang’ này cũng đều túa ra đường, chia nhau đến các địa bàn bên các quận nội thành để hành nghề một cách rất bài bản.

Trước đây báo chí cũng từng đưa tin ở Sài Gòn có tình trạng một số cụ già và trẻ em dân nhập cư đi xin ăn hoặc bán kẹo cao su, tăm-pông ráy tai… là do những tay đầu nậu dấu mặt đứng ra tổ chức và chăn dắt.
Nghe những chuyện này, một cụ già người Bắc thẳng thắn cho biết rằng vào thời trước năm 54, ở làng quê của cụ (xin miễn nói chính xác là ở đâu), dân trong làng từ xa xưa từng có một cái lệ kỳ lạ, đó là cứ hằng năm, vào thời gian nông nhàn, mùa vụ đã xong xuôi là cả làng kéo nhau đi ăn xin ở những vùng khác. Lý do không phải chỉ là việc kiếm sống quá khó khăn ở vùng quê này, mà còn vì một lý do thâm sâu, “tâm linh” khó tưởng tượng nổi: vị thần làng (Thành hoàng) ở đó vốn có một thời phải đi xin ăn để sống trước khi thành đạt danh phận và được triều đình phong sắc làm thần. Vậy dân làng đi ăn xin là làm một việc linh thiêng, bắt chước theo một phần “lý lịch” của thần làng. Không biết gia đình ‘cái bang’ nói ở trên có phải là hậu duệ của thần không nhỉ?
Cùng là chuyện bỏ quê hương ra đi, cùng là thân phận lưu lạc tha phương, nhà thơ Nguyễn Bính thời tiền chiến đã cảm khái sáng tác nên ‘Bài hành phương Nam’ vang vọng mãi trong sự ngưỡng mộ của chúng ta, còn một số dân nghèo nhập cư cùng khổ thời nay cũng vô tình làm nên những bài ‘Bài hành phương Nam’ thê thiết của riêng họ.

Phạm Nga