Nắng xế mùa thu khiến bóng của hàng dâm bụt cao quá đầu người làm tối đi
gương mặt nhăn nheo của ông Nghè Trì đang rảo bước vào cổng. Ông xô nhẹ cánh
cửa cũ kĩ, xiêu vẹo đóng không kín của nhà ngõ. Tiếng kêu của cánh cửa làm con
Mực đang thiêm thiếp ở hàng ba, vụt dậy, phóng chạy ra, cất tiếng sủa nhưng
nhận ra người quen, nó gừ gừ mấy tiếng rồi quẫy đuôi dẫn khách vào nhà. Bà Huân
cũng vừa gánh đôi thúng gạo bước ra khỏi cửa dưới, vội vã để gánh xuống vái trả
cái vái chào của ông Nghè nói:
– Chào chú Nghè, ông nhà đang đợi chú, mời chú vào. Tôi phải đi giao gao cho họ
bây giờ kẻo không kịp về tối chú ạ.
Nghè Trì bước qua hàng ba, chợt dừng lại để lắng nghe tiếng ngâm thơ của ông
Huân đang khe khẽ vang lên:
Đội gạo những buồn cơn nắng xế
Mài gươm thêm thẹn bóng trăng tà.
Chờ cho giọng buồn buồn ấy rơi hút vào cái tĩnh mịch của căn nhà lá mái đã
mục nát, Nghè Trì mới xô nhẹ cửa bước vào. Ông Huân đang ngồi xếp gối, rung đùi
nhè nhẹ trên bộ ván gõ đen láng bóng. Trước mặt ông là chiếc khay trà. Ông ngửa
chén, vừa rót trà vừa bảo:
– Chú ngồi xuống uống trà. Bà ấy bán buôn khổ cực cũng không nuôi nổi nhà. Anh
em mình đem thân phò nước cũng chẳng ra làm sao cả. Thẹn quá đi chú!
Ông Nghè tháo đôi giày hạ, ngồi đối diện anh, im lặng nâng chung trà thấm
giọng. Ông nhìn kỹ ông anh mình. Chỉ lớn hơn ông một tuổi và với tướng mạo khôi
ngô, trán cao miệng rộng, nên từ nhỏ đến lớn, ngay trong thời gian tám chín năm
trốn tránh trong rừng sau khi khởi nghĩa thất bại, ông Huân lúc nào cũng trông
trẻ hơn ông. Nhưng từ hồi chú em Nguyễn Thúc Mân mất rồi kế đến thân phụ của
hai ông qua đời, ông Huân bỗng già mau lên một cách dễ sợ.
Cụ Tú Nguyễn Khuê có bốn người con theo thứ tự là Nguyễn Bá Huân, Nguyễn
Trọng Trì, Nguyễn Thúc Mân và Nguyễn Quý Luân. Cả năm người đều tài cao học
rộng, giới sĩ phu hâm mộ thường sánh họ với họ Tô thời Tống. Nghè Trì rất kính
phục ông anh, cả thơ văn lẫn cách sống. Năm mười lăm tuổi Bá Huân làu thông Ngũ
Kinh Tứ Truyện, thành thạo các thể thi, phú, văn sách, kinh nghĩa… Vốn
không màng danh lơị, nhưng vì nể gia đình, ông đã vác lều chõng đi thi ba kỳ và
đều hỏng cả ba khoa, chán, định bỏ hẳn. Nhưng lại bị mọi người ép ông phải đi
thi lần nữa. Nhưng ông không mang lều chiếu, chỉ xách theo một bầu rượu, đi
thẳng vào Thập đạo, lãnh giấy bút, làm bài một hơi thì xong, rồi rót rượu vừa
uống vừa đọc lại. Càng đọc càng cao hứng, vỗ đùi đôm đốp, bảo rằng “Văn hay như
thế này mà để quan trường khuyên thì uổng quá” Nói xong liền hạ bút khuyên. Đọc
một câu, thưởng một chén, khuyên một khuyên. Quyển bị khuyên đầy thì người cũng
say mèm và… hỏng thi. Nghè Trì thường bảo với mọi người “Cái cuồng ngông của
anh ta không dễ ai có thể cuồng được. Cái cuồng ấy sánh với Sở cuồng Tiếp Dư.”
Tự thấy cách sống của mình thua hẳn Bá Huân về sự thẳng thắn, khẳng khái nên
Trọng Trì luôn luôn kính cẩn trước lời anh “Không nói thì thôi, đã nói thì nói
cho có biển có nguồn”. Vợ Trọng Trì không có con, gia đình khuyến dụ cưới vợ
bé. Bà không chịu, Trì cũng muốn nghe theo, gia đình cố ép, bà đứng ra cưới cho
ông một người con gái xinh đẹp và có học. Thế là Trọng Trì đâm ra mê mệt với bà
hai. Bà cả nổi ghen bắt phải bỏ, Trọng Trì bấm bụng nghe theo. Nhưng việc này
chưa làm Nghè Trì áy náy xấu hổ với Bá Huân bằng việc lặng thinh trước cái chết
của Quản trấn Trần Tân.
Năm Ất Dậu, quân Pháp chiếm kinh thành Huế, vua Hàm Nghi bỏ chạy ra Quảng
Trị, xuống hịch Cần Vương. Hường Lô Đào Doãn Địch phụng chiếu về Bình Định khởi
nghĩa. Bá Huân, Trọng Trì và Quý Luân tham gia ngay. Chỉ ít lâu sau Đào Doãn
Địch bị bệnh nặng, giao binh quyền lại cho Mai Xuân Thưởng rồi mất. Mai xuân
Thưởng cử Nguyễn Trọng Trì chức Hiệp Trấn cùng trấn thủ thứ Hương Sơn với hai
người là Tham Trấn Vũ Phong Mậu và Quản Trấn Trần Tân. Thứ Hương Sơn là một nút
chặn đường tiến quân của Pháp ở hướng Bắc của căn cứ, tương đối yên ổn hơn mặt
Nam. Việc canh phòng lại thuộc phần Quản Trấn Trần Tân, Trọng Trì và Phong Mậu
rảnh rỗi nhiều nên cứ rủ nhau uống rượu đánh cờ. Năm Bính Tuất quân Pháp kéo
quân tấn công căn cứ theo mạn Nam, giết chết tướng phòng thủ nơi đó. Quản Trấn
Tân đang đi tuần hay tin vội vã về dinh. Đến nơi thấy Trọng Trì và Phong Mậu
đang uống rượu đánh cờ. Giận quá ông lớn tiếng và xách cờ, rượu của hai ông ném
quách. Tham Mậu hô quân vây bắt, Quản Tân đánh với bọn lính đông đảo nên không
chống lại. Tham trấn Mậu buộc tội Quản Trấn Tân là phản loạn truyền đem chôn
sống. Hiệp trấn Nguyễn trọng Trì im lặng để cho Tham Mậu tùy ý hành động không
nói một lời. Đến Khi Mai Xuân Thưởng hay tin, cho người phi ngựa tới đào lên,
Quản Trấn Tân đã ra người thiên cổ. Khi Bá Huân biết chuyện nầy giận lắm không
thèm nhìn mặt Trọng Trì liền mấy tháng.
*
Hai anh em bước ra khỏi cổng với y phục tuy đã sờn cũ nhưng thật chỉnh tề.
Người nào cũng giày hạ, quần trắng, áo the đen, đội khăn xếp, vác dù và quấn
quanh cổ chiếc khăn lông dài. Bá Huân nhìn mặt trời rồi nói:
– Trời hôm nay tốt quá, ta cứ thong dong vẫn đến kịp giờ hẹn với Đào công chú
ạ.
– Anh ạ, cho đến giờ phút nầy em vẫn còn hồ nghi trong dạ. Liệu Đào công có
thực bụng hoan hỉ mà viết thiếp mời anh em mình đến xem hoa mẫu đơn nở hay là…
Đào Công muốn chơi khăm một vố gì đây để trả thù những lời mắng của em lúc hay
tin ông ta từ chối tham gia vào phong trào Văn Thân. Nếu không thì giữa anh em
mình và ông ta chưa một lần gặp gỡ sao lại mời mọc như bậc thượng khách trong
khi từ vai vế đến tuổi tác anh em mình chỉ là kẻ nhỏ mọn và hậu sanh?
– Chú nghĩ vậy coi bộ không phải. Ta với chú đã từng bình những bài thơ của Mai
tăng và vô cùng khâm phục tài hoa của ông phổ lên từng câu từng chữ. Bài thơ
nào cũng toát lên cái đẹp của một đóa hoa thanh khiết, cái dũng của một đấng
anh hùng. Một người đã làm cặp đối chữ như thế nầy thì không thể có cái tiểu
tâm được. Ông Huân dừng chân, quay người nhìn Nghè Trì rồi cất giọng ngâm nga:
Tùy xứ khôi hài, Mạ Thiên Tiên bản sắc
Phùng trường tác hý, Hoan Hỷ Phật tiền thân.
Ngâm xong ông tiếp tục bước, hắng giọng rồi nói tiếp:
– Hơn nữa, cái tuồng Hộ Sanh Đàn đã làm ta và chú khóc, cười, ái, nộ theo từng
hồi. Nó là một bổn tuồng kiệt tác từ văn chương đến tư tưởng.
Nghè Trì sửa cái khăn lông cho khỏi chật cổ rồi tiếp lời:
– Anh nhắc đến Hộ Sanh Đàn làm em nhớ hôm nọ em giảng giải với mấy đứa học trò,
em xin thuật lại cho anh nghe. Hộ Sanh Đàn không phải là “đàn đỡ đẻ”. Chính là
cái đàn vô hình mà Hộ Sanh Sứ Giả bước lên để nhận lệnh đi giúp đỡ Lan Anh đang
chuyển bụng. Vì sao phải nhọc sức thần linh như vậy? Chính vì đứa bé trong bụng
kia là quí tử do cha trung dũng, mẹ tiết nghĩa sanh ra. Đào công xây dựng nhân
vật Tiết Cương và Lan Anh có đủ đức trung nghĩa tiết dũng để gián tiếp bảo
rằng: “Đứa bé sanh ra sẽ là một anh tài của đất nước, một hy vọng của tương
lai”. Dụng ý của Đào công rất sâu: Không phải Tiết Cương cứu nguy được nhà
Đường, mà chính Tiết Quì. Cha mẹ gieo nhân, đời con hái quả. Ông muốn nói với
chúng ta: “Thế hệ này chưa lấy lại được nước non Hồng Lạc, hy vọng ở đám hậu
sinh”. Do vậy Đào công nhấn mạnh ở việc sanh đẻ và lấy ba chữ Hộ Sanh Đàn đặt
tên cho tuồng. Tuồng này nếu hát ở vùng Nghệ thì Tiết Nghĩa là hình ảnh của Cao
Ngọc Lễ, tên phản sư phản quốc. Nếu đem hát ở vùng Quảng Nam, Bình Định thì
Tiết Nghĩa sẽ là hiện thân của tên Nguyễn Thân khốn kiếp.
Nghè Trì bật cười khi chợt nhớ hôm đi coi tuồng Hộ Sanh Đàn, ông đã đánh cái
trống chầu suýt bể khi và cười ha hả khi nghe câu hát:
“Bảo cho, nễ khả, thằng thân hạ mã, thúc thủ lai hàng”
và:
“Như ngươi chừ: Hết cậy thế xông đồ phá trận. Biểu cho: Phải cam lòng hạ mã
thằng thân cho rồi”.
Ông lẩm bẩm:
“Hay quá, đã quá.Thằng thân hạ mã, chữ nho là trói mình xuống ngựa và nói nôm
là thằng Thân xuống ngựa đầu hàng đi”. Bá Huân không hiểu cái cười của em nên
đưa mắt hỏi. Nghè Trì chợt thấy mình còn vẻ trẻ con trước mặt anh nên vội nín
cười và nói thác đi:
– Mình rảo bước một chút đi anh kẻo trễ.
Đến Hương Thảo Thất trời đã chạng vạng tối, hai anh em sửa soạn y phục cho
tề chỉnh rồi mới gọi cổng. Cửa nhà ngõ xịch mở, người nô bộc khom mình bái
chào. Chưa kịp đáp lễ, hai anh em đã thoáng thấy Đào Tấn xuất hiện. Dáng khoan
thai, chững chạc, vừa vuốt chòm râu trắng xóa vừa cười khà khà nói:
– Nhị vị huynh đệ thật đúng hẹn, xin rước nhị vị vào tệ thất.
Đào Tấn lách người một bên, đưa tay ra dấu mời.
– Ấy chết, Đào công xin đừng làm thế, huynh đệ chúng tôi chỉ xin được nối gót
ngài.
Bá Huân vội vã lên tiếng rồi bước ra sau Đào công chờ đợi. Ông không ngờ
đích thân Đào công ra tận cổng đón hai anh em ông. Dù đã về hưu nhưng Đào Tấn
đã là quan Thượng Thư và hai anh em ông, dưới mắt triều đình chỉ là những kẻ
phản loạn.– Cùng là kẻ sĩ với nhau chấp gì chút lễ nghi chật chội. Xin mời
huynh đệ đánh một vòng nhìn nước ao sen mùa thu, xem mấy gốc mai cằn, rồi ta sẽ
vào nhà hàn huyên cho phỉ tình mong đợi.
Nói xong Đào Tấn ung dung từng bước hướng dẫn anh em họ Nguyễn. Hai bên tả
hữu của cổng chính đều là ao sen. Tuy đã vào thu nhưng hoa sen vẫn chưa tàn
hết, thấp thoáng trong đám lá sen già những bông sen vụt cao lên, trắng xóa
trong cái tối nhờ nhờ, để sáng ngày mai khai hoa nở nhụy. Mùi hương sen thật
nhẹ, thật thoang thoảng, nhưng mọi người đều ngửi được, nên lồng ngực cứ muốn
căng ra hít cái mùi hương huyền dịu quý giá ấy.
Trong ao, người nô bộc đang nhẹ nhàng, cẩn trọng vạch từng lá sen để chèo
một chiếc thúng, chốc chốc lại dừng bên những búp sen vừa chớm hé. Ông ta dùng
một ngón tay khe khẽ thò vào chỗ hé của búp sen từ từ xoay vòng tròn cho miệng
sen há to đủ cho ông bỏ nhúm trà mộc vào rồi cũng thật khẽ khàng lấy sợi dây
bằng bẹ chuối khô thắt gút lại. Tinh mơ sáng hôm sau ông ta lại cũng thật nhẹ
nhàng, cẩn trọng chèo thúng đến từng cái hoa, cũng rất khẽ khàng mở dây buộc,
lấy từng nhúm trà ấy cho Đào công pha với nước sương đọng trên lá sen, tinh hoa
của trời đất đêm qua. Tất cả việc buổi tối bỏ trà, buổi sáng lấy trà trong hoa
sen, ông đều làm hết sức cẩn thận, vì Đào công luôn luôn nhắc nhở: “Hưởng được
hương vị hoa sen là hưởng được ân sủng của trời đất, nên không thể làm hư cái
sự nở của hoa là làm hư sự thăng hoa của tạo hóa. Ông phải luôn luôn dè chừng
không làm hư thứ tự sắp xếp của cánh hoa, để ngày mai hoa sẽ còn góp mặt với
đời.”
Đào Tấn nhìn Nghè Trì, giọng vui vui:
– Tiếc là trời hôm nay thiếu gió, nếu không mình sẽ cùng thấy mặt Nhan Uyên.
Trong lòng Nghè Trì nhoi lên một niềm vui. Thì ra Đào công chú ý tìm hiểu về
ông khá nhiều. Lúc ra Huế chờ nhận chức, ông có dịp quen với Tôn Thất Đạm và
Tôn Thất Thiệp. Một hôm Đạm đọc cho ông nghe vế đối của vua Tự Đức mà quần thần
chưa ai đối được:
“Thủy trích bích tường sanh Khổng Tử.” (Nước nhỏ xuống chân
tường sinh ra những giọt nước cử động. Khổng Tử vừa là tên ông Khổng Tử vừa có
nghĩa là giọt nước không đứng yên một chỗ).
Đang tìm câu đối, bỗng nhìn thấy gió thổi lá sen để lộ mặt hồ nước trước nhà
trọ, ông liền đối:
“Phong xuy hà diệp kiến Nhan Uyên” (Gió thổi lá sen nhìn thấy
mặt hồ. Nhan Uyên vừa là tên ông Nhan Uyên, học trò của Khổng Tử vừa có nghĩa
là mặt hồ.)
Cả ba bắt đầu dạo quanh vườn mai. Mai trồng thành từng ô vuông khắn khít với
nhau bằng những cành khẳng khiu như củi mục nhưng tiềm chứa sức mạnh chống chọi
với thời gian bằng vô số chiếc lá xanh lục khiến anh em họ Nguyễn như lạc vào
chốn rêu xanh cổ tích. Trọng Trì kêu lên, giọng sôi nổi:
– Anh ạ, cái cành kia đẹp quá cái thế của nó tựa như một con rồng đang vùng
vẫy, em nghĩ xuân về, những bông hoa mai nở viền quanh sẽ điểm cho nó cái thần
khí để bay vút lên mây.
– Ông Nghè giàu tưởng tượng hỉ. Thôi đã tối trời, chúng ta vào nhà dùng
chén rượu tẩy trần.
Cửa chính mở rộng, chiếc đèn tạ đăng tỏa sáng khắp nhà, soi rõ bức hoành phi
treo trên gian giữa ba chữ Hương Thảo Thất bay lượn nhẹ nhàng như hương thơm
của cỏ dịu dàng len giữa không gian. Bên trái của bức hoành là hàng chữ đứng:
Thành Thái Ất Vị Xuân, góc mặt là hai chữ Mai Tăng nhỏ bé, khiêm nhường.
Chủ khách vừa ngồi xuống ghế, lập tức người nô bộc bưng khay rượu ra, trên
là một bình Mai Quế Lộ. Tự tay Đào Tấn rót rượu ra chén ân cần mời khách:
– Vân Sơn nổi tiếng một nhà năm người tài hoa sánh với gia đình họ Tô thời
Tống. Hôm nay được gặp gỡ hàn huyên cùng nhị huynh đệ lão rất vui mừng. Chúng
ta cạn vài chung rượu rồi dùng cơm đạm bạc, sau đó sẽ đến tiết mục chính của
bữa tao ngộ hôm nay.
Bá Huân một tay nâng chén rượu, tay kia vin tay áo the đen, tỏ vẻ cung kính
nói:
– Dạ, Đào công quá khen chứ bốn anh em chúng tôi mắt không nhìn tới nổi ngọn
Linh Phong, tài chưa bén cổng làng Vinh Thạnh. Vừøa mới mãn tang gia phụ năm
ngoái, mà lòng vẫn không hết thẹn với cha già là chưa làm tròn những điều gia
huấn. Còn nỗi niềm đất nước cứ canh cánh bên lòng khiến huynh đệ chúng tôi sống
như ở trên dầu sôi lửa bỏng. Riêng Huân này, sở học ít oi, thô thiển nên không
tiếc việc hỏng thi. Lòng chỉ muốn hòa nhập vào mây trời lãng đãng mà nhàn du
với cỏ nội hạc ngàn. Tiếc thay nước nhà gặp cơn bỉ, đành đem thân mà trải,
những mong trả nghĩa lộc trời, nhưng rồi chẳng cưỡng nổi mệnh thiên, nên vô
cùng tâm đắc với hai câu Nam ở cuối tuồng Diễn Võ Đình qua nhân vật Triệu Khánh
Sanh mà Đào công đã phóng bút:
Tấm thân liều gửi cung dâu
Đố con tuấn mã biết đâu là nhà.
Huân này mạo muội nghĩ rằng Đào công cũng đã từng trở trăn thống thiết như
Huân vậy. Bao lâu nay đã nghe nức tiếng Tiểu Linh Phong Mai Tăng, cũng như
thưởng thức hàng hàng cẩm tú của Mộng Mai Tiên sinh, hôm nay lại được đối ẩm
với ngài quả là muôn vàn hân hạnh.
Nghè Trì cũng đứng dậy nghiêng mình thi lễ tiếp lời anh:
– Thưa Đào Công, tiểu đệ từ ngày bỏ được rừng xanh, về nhà có thì giờ, sính đọc
những áng văn chương trác tuyệt của ngài, nhất là hôm đi coi tuồng Hộ Sanh Đàn.
Văn chương cũng như bố cục đều thật là cao siêu, từng câu từng chữ của vở tuồng
thấm tận đáy lòng của tiểu sinh. Khiến lòng này không khỏi thẹn khi nhớ lại
chuyện ngày xưa vì quá nông nổi, chưa biết phân chia hư thực. Lòng dặn lòng có
dịp thì xin được tạ tội thất lễ với Đào công. Sau lần đọc xong bổn tuồng Thái
Thạch Cơ, tiểu sinh vô cùng xúc động nên có làm hai bài tứ tuyệt, tiện đây xin
dâng tặng Đào công nhàn lãm:
Quốc loạn anh hùng bất tác thi
Tùng quân ngự địch lập công thì
Thiên an khởi thị thư sinh nguyện
Hoàn ngã hà sơn khả định kỳ.
Thái Thạch Cơ biên nô lãng hào
Thôn Ngưu hùng khí vạn tầng cao
Viên môn dạ lập quan Kim trận
Vũ tuyết phân phân mã chiến bào.
Đào Tấn nghe hai bài tứ tuyệt xong, tấm tắc khen:
– Văn quả là người. Tài hoa, khí tiết, có cả uất khí xông tận trời
cao. Trả lại núi sông cho ta có thể hẹn kỳ là trung nghĩa. Và, đêm đứng nhìn
trận giặc Kim, tuyết rơi bời bời trên áo giáp, thực quả là thanh lệ vô cùng.
Chao ôi, thơ của ông Nghè thực là Thốn tâm thiên cổ.
Đến giờ thưởng hoa, chiếc bàn ăn được dọn đi, thế vào là một cái đôn thấp
bằng sứ Bát Tràng và cái án thư để bày bộ trà. Hai người tráng đinh khiêng một
chậu hoa to, khá nặng đặt trên cái cáng đan bằng tre, khệ nệ bước qua hè nhà
rộng, rồi rất cẩn thận đặt lên chiếc đôn bóng láng.
Chiếc chậu sứ da rạn chạy chữ triện quanh miệng trông rất mỹ thuật. Cây Mẫu
Đơn khá lâu năm, cao gần thước tây, cành lá sum suê. Điều làm anh em họ Nguyễn
vô cùng thích thú là hoa. Hoa thật nhiều, thật tràn trề, trên cùng khắp các
nhánh. Đa số đều nở. Màu trắng thật tinh khiết, thật đôn hậu. Những cánh hoa
dày, chắc chắn, giống như những cánh Trà Mi, xếp tròn thành nhiều tầng chung
quanh chùm nhụy vàng phơn phớt sang cả. Mùi thơm của hoa Mẫu Đơn thật nhẹ nhàng
quyến rũ, thoang thoảng của mùi hoa lài lẫn chút đậm đà của nàng hoa bưởi.
Không gian im hơi, cả ba thinh lặng, tất cả như bị đắm chìm trong cái không khí
nửa huyền hoặc nửa thăng hoa toát ra từ cây Mẫu Đơn tuyệt mỹ. Cả Bá Huân và
Trọng Trì đồng thanh buột miệng: “Vương giả chi hoa” rồi sau một thoáng nhìn
nhau, cả hai lại cùng rơi vào im lặng. Hương đã gây mùi nhớ, trà giục khan
giọng tình. Giọng Bá Huân trầm trầm cất lên như vang từ chốn mê cung xa vắng:
– Nhớ xưa nàng Dương Quí Phi là một trong Tứ Đại Giai Nhân của Trung Hoa được
Đường Minh Hoàng vô cùng yêu quý, tận tay hái một bông hoa Mẫu Đơn cài vào tóc
nàng. Người đương thời cho rằng hoa Mẫu Đơn xứng đáng được kề cận với Quí Phi.
Giờ tận mặt thấy hoa bèn trộm nghĩ rằng, nên nói ngược lại là Dương Quí Phi
xứng đáng được mang hoa Mẫu Đơn trên tóc.
Để tạ chút lòng Đào công đoái tưởng xin được múa rìu trước cửa Lỗ Ban, xin cho
một mảnh hoa tiên để được trổ chút tài hèn mọn.
Bá Huân tiếp giấy bút từ người nô bộc, cúi gập người xuống án thư, lấy ngọn
bút lông chấm xuống nghiên mực do người lão bộc vừa mài. Tay ông thoăn thoắt,
đá, phảy, đưa lên, ngoặc xuống, trong thoáng chốc đã thành một bài tứ tuyệt:
Hý khúc ngô châu trứ giả đa
Tranh hồng đấu tử tổng nhàn hoa
Mẫu đơn nhất đóa quần phương chủ
Khả tỷ Đào công đại bái gia.
Đào Tấn kê mảnh hoa tiên sát bên ánh tạ đăng, nheo mắt đọc. Vừa xong, ông
vuốt râu, thảng thốt kêu mấy lượt “Hay a, Hay a”. Ông lấy giấy ra phóng bút họa
ngay một bài:
Văn tinh tụ chiếu ngã châu đa
Từ uyển hân chiêm mỹ lệ hoa
Hồng hạnh bích đào giai tuyệt sắc
Quần phương các hữu tại chư gia.
Viết xong ông đưa cho Bá Huân và nói:
– Xin đa tạ nhã ý của ông, văn hay chữ tốt, nhưng lão thật tình không dám được
ví như hoa Mẫu đơn là chúa các loài hoa, mà thiết nghĩ rằng hoa hạnh, hoa đào
đều là tuyệt diệu và mọi loài đều có trong mỗi nhà soạn tuồng. Hơn nữa, cái
tiết tháo của Mẫu đơn đã bao trùm thiên hạ, dám quay lưng ngoảnh mặt trước lời
phán bảo của Võ Tắc Thiên. Điều đó lão luôn để trên đầu, sánh lão với hoa Mẫu
đơn chỉ làm lão muôn phần hổ thẹn thôi ông Huân ạ.
Đã gần đến nửa khuya, anh em họ Nguyễn đứng dậy xin kiếu từ. Đào Tấn hết sức
cầm ngủ lại, hai ông hết sức chối từ. Nguyễn huynh đệ dắt nhau về dưới sương
khuya. Ra khỏi khu vườn thuộc Hương Thảo Thất chợt Bá Huân dừng lại bảo với em:
– Chú Trì ạ, tôi rất đồng ý với chú hồi chiều, khi chú nói cái dụng ý sâu xa
của Đào Công qua bổn tuồng Hộ Sanh Đàn. Thế hệ mình chưa thể lấy lại non nước,
chỉ hy vọng vào đám hậu sinh, chú ạ.
Đặng Phú Phong