04 January 2018

“THƠ LÍNH CHIẾN MIỀN NAM” CỦA MỘT THỜI (1) - Nguyễn Hữu Thời

Thời nào cũng vậy, người đọc thơ bao giờ cũng ít, nhất là đọc thơ của lính. Sinh viên học sinh hay công chức lại thường ít đọc thơ lính hơn cả. Thế giới dân sự và thế giới của lính khác biệt nhau quá đến nỗi có thể gọi là “bất đồng cảm” (?)

Lính mà đọc thơ lính thì hiểu và thương, thương thân và thương những đồng đội của mình.

Tôi cũng đã là lính, nên đã đọc nhiều thơ lính… Từ đó, tôi đã sưu tầm, chọn ra 125 bài thơ của 51 tác giả mà tôi chủ quan cho là “xuất sắc” để giới thiệu cho những độc giả “có điều kiện” đọc và thích đọc thơ lính. Tôi thực hiện một tập thơ nhỏ bé, tự in bằng thủ công rất thô sơ, có hình thức rất bình dân - mang tựa là “Thơ lính chiến miền Nam”.

Tập thơ mỏng chỉ dầy 110 trang, trình bày đơn giản, nhưng trong đó có lửa, máu, mồ hôi… và nước mắt của lính và dân, cả hai miền Nam, Bắc.

Đây không phải là một tuyển tập đầy đủ những bài thơ chiến đấu của những tác giả nổi tiếng hoặc vô danh của quân đội miền Nam. Đây chỉ là một sưu tầm nhỏ của một độc giả bình thường, một người lính đọc những bài thơ của lính. (Trích Lời Mở Đầu tập thơ)

Thơ lính chiến miền Nam gồm một số bài thơ của lính tác chiến QLVNCH. Họ là những người mà trong cuộc chiến đã phải mang vác những hành trang của người đi đánh trận: ba-lô, nón sắt, súng dài, súng ngắn, bản đồ, địa bàn… Họ có thể là một người lính đóng quân ở một tiền đồn xa xôi, ở một căn cứ hỏa lực, hoặc ngày ngày lặn lội hành quân trên khắp nẻo đường quê hương Việt Nam khốn khổ.

Họ không phải là lính thành phố, hoặc quan văn phòng… Họ phải đi xa nhà, xa những thành phố, xa những tiện nghi và thú vui… Họ đi để chiến đấu, đổ máu và chết… ở những miền đất xa xôi, lạ lẫm dọc chiều dài đất nước.

Hãy nghe nỗi buồn xa nhà của một người lính:

“... Đèn xanh thành phố xa trông
Hoang vu anh đứng mà lòng chiêm bao
Mưa rừng tiếng lá xôn xao
Tay ôm súng lạnh buồn sao là buồn!...”
(Đêm mưa hành quân - Bùi Khiết)

Và nỗi nhớ người yêu của một tác giả có bút hiệu là Dã Nhân:

“…Những lúc ngồi buồn trên chiến đỉnh
Nắng lên ta thấy nhớ trong lòng
Người yêu tóc xõa tình lưu xứ
Biền biệt chiều xưa mưa trắng sông...”
(Uống rượu với Duyên ở Thạnh Phú Đông - Dã Nhân)

Với người lính trẻ, độc thân như Nguyễn Văn Ngọc, là chút bâng khuâng nghĩ đến người yêu cũ khi dừng chân, ngồi nghỉ trong một quán cóc ven đường:

“…Phố nhỏ đìu hiu buồn như thể
Cô hàng, đôi mắt ướt, xa xăm
Cũng tóc xõa vai cho ta nhớ
Người yêu xưa giờ đã mù tăm...”
(Viết trên đường chuyển quân - Nguyễn Văn Ngọc)

Trước khi nhập ngũ, những người lính này có thể đã là một học sinh vừa xong trung học, một sinh viên đã tốt nghiệp hay dở dang đại học, một thầy giáo, một kỹ sư hay một giáo sư khoa bảng… Dù độc thân hay đã lập gia đình, họ đều còn rất trẻ, đang tuổi thanh xuân với nhiều mộng tưởng. Họ đã làm thơ, viết văn từ trước khi vào lính:

“…Em đâu ngờ giờ đây ta làm lính
Ngày tháng trên lưng từng vết đạn thù
Chút thi thơ xưa cũng đành thất lạc
Ngó lại mình mới biết đời đã hư…”
(Thư gửi vị hôn thê không cưới được - Hoàng Lộc)

Đó là lời trần tình của một thầy giáo đã phải nhập cuộc- làm lính- đã lỗi hẹn với người yêu của mình; vì chiến tranh nên không thể tính chuyện “trầu cau” được.
Vì “đời đã hư”; nghĩa là:

“…Ta bây giờ chẳng còn ham sự nghiệp
Những lúc buồn tình mắt ngó hư không
Riết cũng quen đi với niềm tịch mịch
(Đứa tài hoa xưa lạc dấu muôn trùng)
(Thư gửi vị hôn thê không cưới được - Hoàng Lộc)

Đó! Cái giấc mộng sự nghiệp bình thường đã bị cắt đứt từ khi “làm lính”. Làm lính một thời gian có khi “đứa tài hoa” kia còn biến thành một con người khác. Đó là lúc người lính tự thấy mình xa lạ, lạc lõng khi trở về:

“…Với màu da đen xám
Tôi ở chiến trận về…
……………………
Không còn gì nữa cả
Để cho em sau này
Anh con người xa lạ
Giữa cuộc đời hôm nay…”
(Người xa lạ- Huy Lực)

Vì người lính chiến nào cũng “Áo trận sờn vai, giầy sault bụi bám…” như lời một bài hát:

“…Em đừng hỏi ở rừng có gì lạ
Có gì đâu giầy áo đó hôi rình
Khi về phố chắc ta thành khách lạ
Thành người điên với dáng thú buồn tênh…”
(Thư gửi người ở lại - Trần Dzạ Lữ)

Nguyễn Sinh Từ còn mô tả “người xa lạ” là bản thân mình với những nét rất cụ thể:

“…Ta để tóc để râu như hiền triết
Về phố phường trông dáng rất hung hăng
Người tình cũ ngỡ rằng ta đi biệt
Nên đôi giầy há mõm bước lang thang…”
(Trần tình - Nguyễn Sinh Từ)

Chiến tranh có thể biến những người trẻ tuổi “bạch diện thư sinh” thành những con người khác sau khi đã cắt đứt những mộng tưởng của họ. Nhưng dù muốn hay không, họ vẫn phải nhập cuộc, đơn giản vì đó là trách nhiệm của người trai trong lúc đất nước đang cơn qua phân, ly loạn. Ra đi, họ không còn dám mơ ước gì cho chính bản thân mình; bởi tương lai đã quá mù mịt, như xác định rõ ràng của Vũ Hoàng:

“…Như người biết ta có nhiều mơ ước
Mà bây giờ đâu phải lúc ước mơ
Ta lặng câm cúi mặt đợi chờ
Như tử tội đợi đến giờ hành quyết…”
(Mưa xuân ngoài biên khu - Vũ Hoàng)

hoặc bi quan như Nguyễn Ngọc Nghĩa:

“…Em đừng chờ cho anh thôi thương xót
Là ra đi anh còn mãi vườn xanh
Môi em lạ chiều nào thơm trái ngọt
Là ra đi anh biết mộng không thành…”
(Loài chim trắng còn xa - Nguyễn Ngọc Nghĩa)

Nhưng, những người lính này lại đều có chung một ước mơ: chiến tranh chóng kết thúc, và thanh bình trở lại… Họ tham dự vào cuộc chiến để chỉ mong điều đó:

“…Một đêm tôi mơ thấy mình về quê
Ôi thật là sung sướng!
Tôi ngồi trên một cánh đồng
Tôi nằm trên một bờ ruộng…”
(Mơ thấy - Vũ Thúy Thụy Ca)

để có thể trở về với vợ con như lời thơ của Nguyễn Cát Đông:

“…Một mai trả súng lại đời
Ta về ngủ thiếp bên người tình chung
Bên ta con ngủ an lành
Bên ta vợ bỗng trở mình, gọi: Anh!...”
(Thư cho vợ con ở Cần Thơ - Nguyễn Cát Đông)

Không chỉ là mơ ước một “thanh bình riêng rẽ” - một separate peace của viên trung úy Henry và cô y tá Catherine trong A Farewell to Arms của Hemingway - mà còn là mơ ước xây dựng lại đất nước khi thanh bình:

“…Lúa có nghĩ rằng ngày mai sẽ khác
Súng sẽ dùng để đúc lưỡi cày
Mỗi ba trăng lúa vàng tròn hạt
Chim sẽ ca và gió thổi lúa say…”
(Đêm kích dưới chân đồi Pá - Nguyễn Dương Quang)

Những người lính này đã mơ ước như bao người Việt Nam mơ ước. Họ không tìm công danh trong đời lính. Đại đa số tác giả của những bài thơ trong tập thơ này là những sĩ quan trừ bị, nghĩa là nhập ngũ theo lệnh tổng động viên từng thời kỳ… Họ không tình nguyện, họ chỉ thi hành nhiệm vụ khi được gọi. Ra đi, họ đã có vô vàn những nỗi phân vân:

“…Hình như cây súng con lạ lắm
Sao nó run lên khi đạn lên nòng
Tâm hồn nó như tâm hồn con vậy
Một kẻ nằm, kẻ đứng, xót xa không?...”
(Đêm cuối năm viết cho má - Nguyễn Dương Quang)

Và sự hoài nghi trở thành những câu hỏi:

“…Ra đi làm lính - Ừ đi lính!
Đi để xa nhà đi đến đâu?
Thiếu vắng bàn tay làm rượu ấm
Ta người kiêu bạc khóc thương đau…”
(Ba năm làm lính về Dakto - Lâm Hảo Dũng)

Là một câu hỏi về cuộc đời của chính mình:

“…Tôi nhìn tôi những phân vân
Đời trai giờ chỉ có ngần ấy sao?...”
(Phiên gác đêm - Chu Trầm Nguyên Minh)

Trong khi người lính vẫn biết những gì chờ đợi ở phía trước:

“…Bỏ đằng sau thành phố với cuộc đời
Và không biết bao nhiêu điều muốn nói
Anh ngửa mặt xin Trời cho nhận tội
Về rừng tên sắp sửa bắn ra này…”
(Khởi hành - Lữ Quỳnh)

Và cả những ngày dài sắp tới:

“…Vẫn bản đồ đút trong ngực áo
Hỏa tập chi chít băm vằm
Đời đóng khung trong những ô vuông
Và phận người một hàng tọa độ
Vẫn địa bàn đong đưa trước mặt chỉ đường…
Nhưng bắt đầu đưa chân
Thế hệ mình đã lạc…”
(Về những ngày sắp tới - Nguyễn Phan Thịnh)

Là những người lính có học - nếu không gọi là trí thức - và có tâm hồn; khi đã vào lính, họ không thể nào thôi không làm thơ. Cái hoàn cảnh sống-chết của họ đặc biệt quá. Những trải nghiệm của họ phong phú quá, như Chinh Yên đã viết:

“….Tôi đã đi giáp vòng thiên địa
Gặp lại tôi cuối chặng phong trần
Trái đất tròn quay riết cũng mòn
Tôi cũng thế đã mòn quá nửa….”
(Chờ đợi điều chi rất lạ thường - Chinh Yên)

Những trải nghiệm đó thường khi rất tàn bạo:

“…Anh bới sâu lòng đất
Chôn xác những thằng người
Những thằng người bất hạnh
Trong một nội chiến tương tàn phi lý và bẩn thỉu…”
(Nơi anh đồn trú - Huỳnh Hữu Võ)

Sự tàn bạo không tránh được trong chiến tranh:

“….Ta pháo gầm vang một góc rừng
Đồi tây giặc khiếp ngắm đồi đông
Những ai trong phút kinh hoàng ấy
Tay súng trang nghiêm mắt trợn trừng…”
(Ngày về Benhet - Lâm Hảo Dũng)

Nhiều khi nạn nhân lại là những thường dân vô tội:

“…Có mẹ già bỏ nhà chạy mang cháu nhỏ
Những đoàn người ngơ ngác chạy trốn chiến tranh
Đạn bỗng rơi và thêm nhiều người ngã xuống
Lòng người ở đây như biệt dạng mất tăm…”
(Mưa và nỗi chết ở An Lộc - Nguyễn Tiến Cung)

Chiến tranh nào không gây ra chết chóc, đổ vỡ. Nỗi buồn này đã trở thành chua xót khi đây lại là một cuộc nội chiến:

“…Anh ở miền Nam lạc đến đây
Còn quân phương Bắc ngủ xuôi tay
Chiến tranh như thể trò tiêu khiển
Của lũ con buôn xác chết này…”
(Ngày về Benhet - Lâm Hảo Dũng)

Nhưng, người lính chiến miền Nam - với trái tim của con người còn trọn vẹn “nhân chi sơ tính bản thiện” vẫn cứ thấy trong lòng áy náy, không yên, để phải lên tiếng biện hộ cho chính mình:

“…Ta mang súng trường tưởng săn chim săn chuột
Một đôi khi ta lỡ dại săn người
Ta biết chắc Phật Trời không chấp nhất
Không bắn người người cũng bắn ta thôi…”
(Trần tình - Nguyễn Sinh Từ)

Là những con người có lương tri, làm sao có thể dửng dưng trước những cảnh tượng đáng sợ như thế này:

“…Khi ngã tư đưa vào nhà mỗi tối
Xác chết cong queo ruồi nhặng mọc đầy
Con đường nào dẫn em qua một buổi
Sẽ không nồng mùi máu rợn ma trơi?...”
(Viết trong cơn biến động Mậu Thân - Phan Nhự Thức)

Nếu trong ca khúc, Trịnh Công Sơn đã viết: “Mẹ vỗ tay reo mừng xác con…” thì Phan Nhự Thức - một người lính chiến làm thơ - đã không dằn được nỗi hờn tủi khi viết ra những câu thơ này:

“…Khi chiến thắng đã đo bằng mạng sống
Người hân hoan trên thây chết ngậm ngùi
Ta xin chém nát thân người yêu dấu
Quà xuân đây cũng góp giọt reo vui…”
(Viết trong cơn biến động Mậu Thân - Phan Nhự Thức)

Người lính mang tên Nguyễn Tiến Cung còn chứng kiến những cái chết “đủ kiểu”:

“…Mưa đổ quanh mặt trận đầy thây người chết
Xác vắt trên kẽm gai, xác vắt cạnh hào
Xác cúi khom khô cứng, xác gầy như bệnh
Mưa trên xác chết trời chẳng chút nghẹn ngào…”

Cho nên, anh đã viết thêm:

“…Có người tình đứng nhìn người yêu chết trận
Vẻ hãi hùng còn in trên đôi mắt quầng thâm
Anh đứng giữa cơn mưa đầy tràn cảm xúc
Lòng người ở đây như biệt dạng mất tăm…”
(Mưa và nỗi chết ở An Lộc - Nguyễn Tiến Cung)

Nếu không phải là lính trận - và có những trải nghiêm của lính trận - khó có thể viết ra được những câu thơ như vậy. Những người lính này đã làm thơ để mô tả những gì mình thực sự trải qua và nói lên những cảm xúc của mình, những cảm xúc đầy ắp tình người mà, nếu không được hấp thụ một nền giáo dục đề cao nhân bản, khó lòng viết ra được. Họ đã viết ra được, và viết quá hay.

Những bài thơ này còn bày tỏ - rất thường xuyên - nỗi ám ảnh cái chết không rời từng giây từng phút, cái chết của chính họ - những người lính trận:

“…Uống đi Khoa đời mấy thằng chung thủy
Uống đi Ngư cho chết ngất thiên thu
Giữa đời ta không phân biệt bạn thù
Chuyện sinh tử là chuyện từng giây phút…”
(Khi xa Bình Tuy - Trần Văn Sơn)

Đành rằng “cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”, lính trận có chết cũng là chuyện bình thường; nhưng thử hỏi, nghĩ đến cái chết của chính mình ai mà không ngậm ngùi?

Hãy nghe thái độ của từng người khi nhắc đến cái chết của chính mình.

Chuẩn Nghị, một người lính đã tử trận năm 1969, trước đó đã có linh cảm thật buồn:

“…Anh trở về trong chiều hoang chiếu nắng
Trong hòm gỗ hoặc trên chiếc băng ca
Anh trở về nằm giữa vòng hoa
Những vòng hoa tang chan hòa nước mắt…”
(Kỷ vật - Chuẩn Nghị)

Huỳnh Kim Sơn thì mong được uống rượu với bạn, như một kỷ niệm, rồi “tới đâu hay tới đó”:

“…Ta mời bạn đúng chiều ba mươi Tết
Ghé hầm ta uống chén rượu tàn năm
Để mai mốt lỡ mình an phận chết
Vẫn ghi đời kỷ niệm buổi liên hoan! …”
(Chén rượu chiều ba mươi - Huỳnh Kim Sơn)

Lâm Hảo Dũng lại có mong muốn được chết rất hồn nhiên:

“…Mai ta cắt tóc thay đời mới
Hát thật hồn nhiên dưới lá cờ
Xin chết hôm nay đầy bóng tối
Còn hơn mai chết chẳng ai đưa…”
(Ba năm làm lính về Dakto - Lâm Hảo Dũng)

Còn Luân Hoán thì, sau cái chết của một đồng đội, đã tự hỏi:

“…Nam ơi, Đức Phổ trưa nay vắng
Biển lặng ngồi không, xót phận mày
Ngày mai nhổ trại lùng Đức Phụng
Đến lượt ta, hay đứa nào đây?...”
(Bàn giao cho bạn địa bàn… - Luân Hoán)

Ngô Đình Khoa khi tả lại những nhọc nhằn của đời lính cũng không thể không nghĩ đến cái chết của mình:

“…Nón sắt thay nồi thuốc bồi mồi lửa
Cơm dọn ra nửa sống nửa khê vàng
Miếng được miếng không nuốt ngày sống vội
Như nữa đây chết vội đến phiên chăng?...”
(Lính thú - Ngô Đình Khoa)

Nhưng người lính không muốn bỏ thân nơi xứ lạ như một tên lính lê dương:

“…Quân trú Ba Thu hơn một tháng
Ghẻ cóc mụn nhang lạ nước thay da
Tim với óc hỡi ơi còn chết được
Ngày lui quân xin xác gửi quê nhà…”
(Ba Thu - Ngô Đình Khoa)

Giọng thơ nghe thật hào sảng và bi hùng!

Cũng có lúc, người lính mềm lòng không dám nghĩ thêm về điều bất hạnh này:

“…Ở làng này không ai đốt pháo
Đêm thật buồn như bước đông đi
Con còn có ít giờ hưu chiến
Biết đâu chừng, thôi nghĩ làm chi…”
(Đêm cuối năm viết cho má - Nguyễn Dương Quang)

Nguyễn Tư khi đi hành quân qua một ngôi làng của người con gái anh quen đã bâng khuâng:

“…Em về dưới tỉnh hiền ngoan
Có người vừa mới qua làng em đây
Một mai về lại nơi này
Biết đâu người đã phơi thây chiến trường…”
(Chuyển quân đêm qua sông Đà Rằng - Nguyễn Tư)

Còn Nguyễn Văn Ngọc thì nhắc đến cái chết của mình rất thản nhiên:

“…Tạm biệt nhé xuồng máy đã tới
Tao phải đưa con cái qua sông
Nếu chưa chết, mình sẽ gặp lại
Nhậu quắc cần câu giữa phố đông…”
(Chờ xuồng qua sông tình cờ gặp bạn - Nguyễn Văn Ngọc)

Đúng là phong thái của một sĩ quan nhà nghề, đã chọn võ nghiệp thì phải xem cái chết “nhẹ như lông hồng”! Nhẹ nhàng quá!

Phạm Ngọc Lư lại có vẻ chua xót:

“Mười nắm gạo trộn vài vốc muối
Đeo lên vai nặng nghĩa đầy ơn
Mai ta bỏ thân ngoài sạn đạo
Xin tình em một mảnh đất chôn…”
(Đất trích - Phạm Ngọc Lư)

Còn người lính đa cảm như Trần Hoài Thư thì chỉ mong có được những giọt nước mắt tiếc thương:

“…Cô hàng cho xin ly cà phê nhỏ
Tôi uống cho đầy đôi mắt trong
Một mai tôi chết bên trời Bắc
Em làm sao được khóc bên song…”
(Cô hàng cho xin ly cà phê nhỏ - Trần Hoài Thư)

Lính là nghèo, “5 đồng 3 cọc”, lãnh lương xong thì “tiền lính-tính liền”! Làm lính tác chiến thì ngoài cái mặc cảm chết chóc còn có thêm cái mặc cảm nghèo nàn. Người lính nghèo Trần Dzạ Lữ nghĩ về cái chết của lính rất thực tế:

“…Xa em nhớ tháng thương ngày
Ngó ra bè bạn một bầy cô đơn
Mùa xuân châu giọt đầu non
Lương chưa lãnh kịp biết còn sống không?...”
(Chiều tôi - Trần Dzạ Lữ)

Thật là thương cho người lính chiến! Cái chết của họ - nếu xảy ra - thì cũng là một thực tế mà những người thân yêu của họ phải chấp nhận; vì thế, chuyện tiền lương, tiền tử tuất là một cái gì còn thực tế hơn nữa, số tiền đó cần được lãnh đủ, để giúp cho vợ con họ có thể sống“có cái mà ăn” trong những ngày tháng sau đó. Hãy nghe Tô Nhược Châu nhắn lại vợ:

“…Hãy ngủ yên đừng đợi chờ nghe em
Mười hai tháng lương sau cùng là gia sản
Anh đi không về em giữ lấy nuôi con…”
(Lời cho vợ con trước giờ hành quân - Tô Nhược Châu)

Yên Bằng cũng có cùng tâm trạng:

“Em hãy lãnh dùm ta mười hai tháng lương
Sau khi trừ đi tiền nước tiền trà
Đem đổi lấy thịt da người chết trận…”
(Gửi người vợ lính sư đoàn 21 bộ binh - Yên Bằng)

Đã hiển nhiên, đây là những bài thơ chân thật và đầy chất lính trận.Hãy xem hào khí của Hà Thúc Sinh khi gặp bạn:

“…Hãy cụng ly chết bỏ
Tôm cua cá lươn sò
Lương ta còn nguyên vẹn
Còn cả cái Seiko…”
(Nào có sá gì - Hà Thúc Sinh)

Và nét kiêu bạc của Lâm Hảo Dũng:

“…Ta vẫn thênh thang đùa với rượu
Uống đi ta sẽ có quê nhà
Uống đi chiến thắng vang lừng lắm
Ta uống dường như để tiễn ta…”
(Khi ở trung đoàn 42 - Lâm Hảo Dũng)

Phạm Quang Ngọc an ủi bạn như sau:

“…Ê thằng gà chết sao mày khóc
Uổng phí hiên ngang cả một trời
Lính trận hề chi ba lẻ tẻ
Dẫu đời sương khói sắp ra khơi…”
(Ly chiến sĩ – Phạm Quang Ngọc)

Những người lính này cũng không cường điệu, hay bi thảm hóa hoàn cảnh sống và chết của họ:

“…Ê mậy cùng tao cụng hết ly
Đời người rồi cũng một lần đi
Uống say nằm chết trên lưng ngựa
Tráng sĩ hề chê góc nhị tỳ!”
(Ly chiến sĩ - Phạm Quang Ngọc)

Họ cũng không nói “thánh tướng” hay đại ngôn. Ngôn ngữ thi ca của họ biểu hiện tinh thần khai phóng và cái bầu không khí tự do mà họ đã được hít thở. Những lời thơ này, nhờ đó, rất phóng khoáng đáng yêu, như lời thơ của Chinh Yên khi so sánh hoàn cảnh của mình với hiền sĩ Nguyễn Bỉnh Khiêm:

“…Hiền sĩ có trăng treo đầu ngõ
Để lâu lâu ngắm nghía đỡ buồn
Tôi có gì đâu ngoài súng nhỏ
Máng đầu giường chạm gió kêu khan…”
(Ứng chiến, đọc thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm - Chinh Yên)

Và rất đơn giản như Nguyễn Văn Ngọc nói về sự may mắn còn sống sót của mình và đồng đội:

“…Địch lúc này mở nhiều mặt trận
Cũng như mày, tao lội triền miên
Bạn cùng khóa, bao nhiêu thằng rụng
Mình còn đây chắc tại số hên?...”
(Chờ xuồng qua sông tình cờ gặp bạn - Nguyễn Văn Ngọc)

(xem tiếp phần 2) 

Nguyễn Hữu Thời
(Tháng 8/2012)
(Thư Quán Bản Thảo số 55, Tháng 1-2013)