(Mến gửi quý đồng môn CVA)
Mùa hè 1959 đã mang lại cho tôi một niềm vui rất lớn, khi
tôi được chính phủ Việt Nam Cộng Hòa và cơ quan viện trợ Mỹ USAID cấp cho một học
bổng mang danh đầy kỳ vọng Leadership scholarship để du học tại Mỹ,
sau khi tôi đậu đầu kỳ thi tú tài toàn phần ban văn chương và đạt điểm cao
trong kỳ thi tuyển học bổng toàn quốc do USAID tổ chức bằng tiếng Anh.
Trẻ tuổi, lạc quan và đầy tự tin, tôi nghĩ mình sẽ thuận buồm
xuôi gió với tiếng Anh khi qua Mỹ. Nhưng tôi lầm to, vì con thuyền tiếng Anh của
tôi đã không đủ chuẩn bị để ra khơi! Không thể đổ lỗi cho ai cả, vì sự thực là
tôi và các thầy dạy Anh văn của tôi thuở đó chỉ là là nạn nhân của thời cuộc mà
thôi. Tiếng Anh lúc đó còn quá mới mẻ với người Việt, cho nên chính các thầy
còn bị khó khăn với cách phát âm cũng như sự lưu loát trong tiếng Anh. Hơn nữa,
phương pháp dạy của các thầy quá lưu tâm đến từ chương, khiến cho các hoạt động
trong lớp chỉ chú trọng đến các quy luật văn phạm và khả năng dịch thuật từ tiếng
Anh sang tiếng Việt và ngược lại. Đó cũng là cách thức các thầy của tôi học tiếng
Anh trước khi ra hành nghề. Mấy năm về sau, khi chuyên về ngữ học (linguistics)
tại Georgetown University, tôi mới được biết lối dạy của các thầy tôi dạo đó có
danh xưng uy nghi là Phương pháp văn phạm – dịch thuật (Grammar-Translation
Method)! Và bộ giáo khoa viết bằng tiếng Pháp mang tên L’Anglais vivant
(Tiếng Anh Sống) của tác giả Carpentier-Fialip do nhà sách Hachette xuất bản tại
Paris, với hai ấn bản màu xanh da trời (édition bleue) và màu vàng xám (édition
beige), quả thực là lý tưởng cho lối dạy và học thuở ấy. Tiếng Anh như vậy, tuy
được gọi là “sống” theo tên bộ sách, thực sự được dạy như một ngôn ngữ đã “chết”
rồi. Nhờ phương pháp này, khi xong trung học, tôi có khả năng dịch (qua văn viết
thôi) từ tiếng Anh sang tiếng Việt và từ tiếng Việt sang tiếng Anh, bằng một thứ
tiếng Anh đúng văn phạm và không sai chính tả. Tôi chẳng nói ngoa đâu, ở cái tuổi
non nớt ấy, qua những bài học văn phạm tiếng Anh đã học thuộc lòng như cháo,
tôi đã có thể đưa ra định nghĩa, trình bầy công thức cấu trúc, và cung cấp thí
dụ chính xác thế nào là thời future perfect progressive trong tiếng
Anh, như một cái máy vậy. Kỳ dị thay, đó là một thời mà chính những người Anh,
người Mỹ chính cống chỉ họa hoằn sử dụng, như trong câu By this time next
month, we will have been living in America for two weeks chẳng
hạn. Đây là một thời trong tiếng Anh mà tiếng Việt khó lòng diễn tả nổi –
chẳng lẽ lại dịch thành sẽ đã đang sống (?!) – vậy
mà tôi vẫn thuộc lòng mới lạ chứ! Qua lăng kính của khoa tâm lý ngữ học
(psycholinguistics) ngày nay thì lúc ấy tôi, vô hình chung, đã sử dụng tối đa
cơ phận mang tên monitor là cơ phận thứ ba trong ba cơ phận
(processors) chính yếu giúp trí tuệ chinh phục ngôn ngữ mà Dulay, Burt, và
Krashen (1982) đã đề bạt để kiến giải ý niệm language organ trong
não bộ do Chomsky (1965) đề xướng. Cơ phận monitor đã giúp tôi học
(to learn) một cách tỉnh táo (consciously) những luật lệ văn phạm, những từ ngữ
tiếng Anh, nhưng đã không giúp tôi thủ đắc (to acquire) được sự
lưu loát trong việc sử dụng tiếng Anh. Tôi đã không bao giờ có cơ hội được dùng
cơ phận thứ hai mang tên organizer là cơ phận có trách nhiệm giúp
học viên chinh phục sự lưu loát một cách thản nhiên
(incidentally), như thể khi chúng ta thủ đắc sự trôi chảy trong tiếng mẹ đẻ. Sự
kiện không may này là lý do chính tại sao tiếng Anh của tôi hồi đó khá bất thường!
Còn cơ phận thứ nhất mang tên affective filter có nhiệm vụ đứng
gác cửa cho cơ quan ngôn ngữ và ấn định mức học hỏi nhiều hay ít căn cứ vào mức
độ thúc đẩy (motivation level) của học viên thì đã cho tôi mức độ thúc đẩy tối
đa rồi. Cái cơ phận cảm xúc vô cùng bén nhậy này biết rõ tôi mê say ngoại ngữ
cho nên đã hết lòng hợp tác với tôi.
Sau một vài buổi huấn luyện qua loa về văn hóa Mỹ tại Sở
Thông Tin Hoa Kỳ tại Sài Gòn, tôi lên đường du học lúc 18 tuổi. Khi tới
Honolulu, tôi được rời máy bay vài chục phút, đi bộ trong terminal của phi trường
cho dãn gân dãn cốt. Chưa chi mà đã nhớ nhà đến muốn khóc! Và lần đầu tiên nghe
những người xung quanh mình nói toàn tiếng Mỹ, tôi cảm thấy hồi hộp, bất an và
lo lắng.
Vài bữa sau, tôi đã có mặt tại trường để kịp theo học khóa
mùa thu. Miami là một đại học có campus đẹp như mơ tại tiểu bang Ohio, nhưng
tôi cảm thấy mình như một khách lạ lạc lõng trong thiên đường. Tôi bất chợt khám
phá ra sự thật phũ phàng là tiếng Anh nói (spoken English) của
người Mỹ bản xứ và tiếng Anh viết (written English), vốn là ngón
sở trường của tôi, khác nhau một trời một vực. Tôi cũng thấy những bài đàm thoại
giữa hai cá nhân A và B mà tôi đã học thuộc lòng, phòng khi hữu sự, hoàn toàn
vô ích, vì làm gì có người Mỹ nào đã cùng học thuộc lòng những bài đàm thoại ấy
để nói chuyện với tôi đâu!
Tôi quê đến nỗi không biết cách đối đáp ra sao mỗi khi các
sinh viên Mỹ nói “hi” với tôi. Chắc hẳn họ nghĩ là tôi không thân
thiện hoặc câm hoặc điếc. Họ đâu có biết cho rằng tôi chưa hề được dạy là “hi”
cũng là một lời chào hỏi như “hello” vậy. Vì không biết người
Mỹ thường nói “bless you” khi ai đó gần họ nhảy mũi, tôi câm như
hến mỗi khi anh bạn Mỹ cùng phòng của tôi nhảy mũi ồn ào. Tôi cũng có lần ngẩn
tò te ra vì không hiểu câu nói nhanh như gió của anh ta, nghe ra như thể jeetjet.
Về sau mới biết đó chính là câu hỏi did you eat yet đã được
phát âm thật nhanh, khiến cho các âm vị (phonemes) trong mấy chữ đó bị
rút ngắn và dính chặt vào với nhau! Dùng thuật ngữ của Cummins (1979) thì ở thời
điểm ấy, tiếng Anh hội thoại (basic interpersonal communicative
skills, gọi tắt là BICS) của tôi dở lắm, và tiếng Anh hàn lâm
(cognitive academic language proficiency, gọi tắt là CALP) của tôi cũng cần phải
thăng tiến gấp gáp mới mong cạnh tranh nổi với các sinh viên bản xứ, vì tôi đã
lựa văn chương Anh làm môn học chính (major). Theo các cuộc nghiên cứu liên tiếp
nhiều năm của Cummins tại Gia Nã Đại thì các học trò ESL phải luyện tập khoảng
2 năm mới đạt được mức BICS khá, và từ 5 đến 7 năm mới may ra bắt kịp mức CALP
của người bản xứ!
Như đa số các học trò Á châu khác, tôi là một người học bằng
mắt (a visual learner), và do đó dùng hình thức viết (spelling) của chữ làm kim
chỉ nam phát âm chữ đó. Tai hại thay, lối phát âm kiểu này khiến tôi phát âm trật
một số chữ Anh, như Wednesday (thành ra 3 âm tiết: wed-nes-day), often
(phát âm cả mẫu tự “t”), Arkansas (vần với Kansas). Riêng nhóm mẫu
tự -ough thực dễ sợ vì nó có nhiều lối phát âm khác nhau; tôi đã
phải vô cùng cẩn trọng và định thần mỗi khi phát âm các chữ bough, cough,
hiccough, tough, though, through! Những điều quá dễ cho người Mỹ bản xứ
phát âm lại là những thử thách cho tôi, chẳng hạn sự khác biệt tế nhị giữa âm
[i] trong chữ it và âm [iy] trong chữ eat hoặc giữa
âm [u] trong chữ look và âm [uw] trong chữ Luke.
Tôi còn nhớ mỗi lần phát âm chữ sheet và chữ beach là
tôi ngại lắm vì nếu không cẩn thận chúng có thể bị nghe lộn thành hai chữ tục
trong tiếng Mỹ! Cũng vì thiếu cơ hội thực tập phát âm tiếng Anh một cách nghiêm
túc, tôi ưa mắc lỗi để trật dấu giọng chính (primary stress) trong một chữ đa
âm tiết (multisyllabic word), chẳng hạn thay vì nhấn mạnh âm tiết đầu tiên của
chữ melancholy tôi từng nhấn mạnh âm tiết thứ hai một cách sai lầm.
Nguy hại hơn, nhấn mạnh sai chỗ có thể vô tình biến chữ này thành chữ khác; chẳng
hạn, chữ invalid có hai cách phát âm: nếu nhấn mạnh âm tiết đầu
tiên, chữ đó là một danh từ có nghĩa là một phế nhân (có thể đã
hy sinh một phần thân thể cho đất nước); nếu nhấn mạnh âm tiết thứ hai, chữ đó
là một tính từ có nghĩa là vô giá trị. Vị phế nhân sẽ
buồn biết mấy nếu bị người đời phát âm trật khiến danh từ đáng kính kia trở
thành một tính từ chẳng đẹp chút nào!
Trong lãnh vực cú pháp (syntax) và cách
chọn từ (diction), tiếng Mỹ của tôi trong thời gian đầu ở đại học là thứ
tiếng Mỹ bất thường. Nó già nua (archaic), hoa
mỹ (flowery), trang trọng (formal), bất tự nhiên
(unnatural), bất chính cống (unauthentic), và do đó chẳng giống
tiếng Mỹ nói (spoken American English) hiện đại chút nào! Nó là sản
phẩm của khả năng dịch thuật của tôi cộng với những từ ngữ cổ lỗ xĩ và văn phạm
cao cấp không mảy may phù hợp với tiếng Mỹ hiện đại mà tôi phải làm quen và mau
chóng chinh phục.
Thứ tiếng Anh bất thường của tôi lúc ấy, nay ngó lại qua
lăng kính tâm lý ngữ học của Goodman (1986), thuộc loại phát minh cá nhân
(personal invention) chưa bao giờ được điều chỉnh bởi quy ước xã
hội (social convention) tức là lối nói tiếng Anh chính cống của người bản
xứ. Anh bạn cùng phòng của tôi mang tên Dick Welday là một người rất thân thiện
và vui nhộn. Sau vài câu chuyện trong ngày đầu chúng tôi mới gặp nhau, Dick
nheo mắt nói với tôi đại khái: Tiếng Anh của bạn lạ lắm, nhưng tôi cũng
hiểu bạn muốn nói gì! Chiều hôm đó, Dick dẫn vài người bạn Mỹ khác đến
chơi với tôi. Chắc hẳn anh ta đã nói với họ về thứ tiếng Anh lạ đời của tôi và
muốn cho họ đích thân nghe tôi nói thứ tiếng ấy. Sau khi giới thiệu họ với tôi,
Dick khai mào: Phap, tell us about the weather in Vietnam when you left a
few days ago. Dùng khả năng dịch thuật tôn trọng cú pháp tuyệt đối và
những từ ngữ hoa mỹ cổ kính, tôi chậm rãi trả lời: My friends, when I
took leave of my beloved fatherland, situated near the equator, the weather was
scorchingly hot. Họ lộ vẻ ngạc nhiên và cười tủm tỉm với lối nói tiếng
Anh lạ lùng của tôi. Bối rối, tôi hỏi Dick: How would you express what I
just said? Anh trả lời gọn lỏn: When I left Vietnam, it was hot
like hell! Tôi nghe câu ấy khoái tai quá, và đã học ngay được hai điều
quan trọng– đó là hãy dùng leave thay cho take leave of và
dùng thành ngữ táo bạo like hell để biểu diễn mức độ cao. Toàn là
những điều hữu ích quá xá mà tôi chưa hề biết đến bao giờ! Nỗ lực giải tỏa
(unlearn) tiếng Anh cũ để sẵn sàng học lại (relearn) của tôi
khởi đầu từ lúc ấy.
Những tuần lễ đầu tiên tại Miami University thực đầy thử
thách cho tôi. Nhớ nhà và thèm cơm Việt Nam quá chừng! Bỗng nhiên tôi cũng thấy
màu da, màu tóc, chiều cao, trọng lượng, và giọng nói của tôi đều không giống
người bản xứ. Như một con cá văng ra khỏi nước, tôi không biết tương lai học vấn
của mình sẽ ra sao nữa. Dùng thuật ngữ giáo dục của Brown (2000) thì lúc đó tôi
là nạn nhân của culture shock (xung đột văn hóa), tức là giai đoạn
khốn khổ nhất của cái gọi là acculturation (tiến trình cố gắng
hòa hợp với hoàn cảnh mới). Trong gọng kìm của xung đột văn hóa thì việc học
hành khó khăn hơn, theo các chuyên gia giáo dục ngày nay. Tôi chưa quen nghe tiếng
Mỹ của các giáo sư cho nên việc tôi ghi chép lời giảng của các thầy là một thử
thách lớn. Mỗi khi các thầy viết lên bảng điều gì là tôi vui mừng chép lấy chép
để vào một cuốn vở. Sự thảm bại của bài luận văn đầu tiên của tôi là một bài học
để đời, nhắc nhở tôi đừng bao giờ bất cẩn với cách chấm câu tiếng Mỹ! Bài
luận văn ấy tôi đã viết rất kỹ về mọi phương diện, trừ phương diện chấm câu
theo tiêu chuẩn Mỹ. Khi thấy điểm D bằng mực đỏ trên bài viết, tôi thất kinh, vội
hỏi ông thầy tại sao tôi bị điểm kém này. Ông nói tôi phải cẩn thận tối đa với
cách chấm câu và khuyên tôi nên ôn tập nhiều trong lãnh vực này. Rồi ông lấy
ngón tay chỉ vào những chỗ tôi mắc lỗi lạm dụng dấu phết (comma
splices) khiến cho nhiều đoạn trong bài luận trở thành những câu không ngừng
chạy (run-on sentences). Những lỗi này, ông nhấn mạnh, không được phép
xuất hiện trong tiếng Anh bậc đại học. Thuốc đắng giã tật, tôi vội bỏ ra vài buổi
chiều ngồi học thuộc lòng tất cả các quy luật chấm câu tiếng Mỹ.
Một vấn đề nữa rất lớn với tôi là người Mỹ sử dụng nhiều đặc
ngữ (idioms) mà ý nghĩa không thể đoán được trong ngôn ngữ hàng ngày.
Tôi có khuynh hướng đoán ý nghĩa của các đặc ngữ ấy theo nghĩa đen (literally),
và thường đoán sai, vì làm sao mà tôi có thể hiểu break a leg lại
có thể là lời chúc good luck hoặc kick the bucket
là cách nói lóng cho động từ die? Có lần tôi tới thăm một cô
bạn học người Mỹ mà tôi rất mến vào một buổi sáng chủ nhật tại ký túc xá của
nàng, nhưng chẳng thông báo trước gì cả. Lisa từ trên lầu xuống gặp tôi tại
phòng khách, có vẻ không vui và trông không hấp dẫn như mọi ngày tại lớp học.
Chưa kịp trang điểm, nàng xanh xao vàng vọt quá. Nàng nghiêm nghị nói với tôi:
Phap, I wish you had given me a ring before you stopped by this morning.
Vì tôi tưởng nàng muốn đốt giai đoạn mối tình đang chớm nở giữa chúng tôi,
tôi ngây thơ đáp lại: Lisa, we are both only 18, why should we get
engaged at such a young age? Biết tôi đã hiểu lầm câu nói của nàng,
Lisa bật cười và giải thích: Don’t be silly! What I meant was simply that
you should have telephoned me before you came to see me this morning.
Ngượng ngùng quá cỡ, tôi xin lỗi đã hiểu lầm nàng chỉ vì tiếng Anh của tôi
chưa đi đến đâu, cũng như đã không điện thoại cho nàng trước khi ghé thăm. Lisa
là một ân nhân của tôi vì nàng đã làm mẫu cho tôi rất nhiều về cách sử dụng colloquial
American English và cũng kiên nhẫn giải thích cho tôi nhiều điều về văn
hóa Mỹ như thế nào là Valentine’s Day, thế nào là homecoming
queen, thế nào là blind date, vân vân. Những cái kiến
thức bối cảnh (schemata) đó về văn hóa Mỹ thực là quan trọng cho tôi mà
trước đó tôi chẳng mảy may hay biết! Ngày nay, các giáo chức dạy Anh ngữ cho
người ngoại quốc đều được nhắc nhở kỹ càng về tầm quan trọng của schema
theory, theo đó sự hiểu biết (comprehension) là do sự
liên hợp (integration) của kiến thức mới với một mạng lưới kiến
thức cũ (a network of prior knowledge) của học viên. Tôi nợ Lisa một ân
huệ lớn về kiến thức văn hóa Mỹ. Lại dùng kiến thức tâm lý ngữ học hiện đại,
qua những câu chuyện trên trời dưới đất giữa nàng và tôi ngày này qua ngày nọ,
tôi đã chuyển dần cái personal invention về tiếng Mỹ của tôi sang
phía social convention mà cô bạn gái Lisa duyên dáng là một đại
diện vô cùng khả ái.
THƯ TỊCH:
Brown, D. (2000). Principles of language learning and
teaching. Englewood Cliffs, NJ: Prentice Hall.
Chomsky, N. (1965). Aspects of the theory of syntax.
Cambridge, MA: The MIT Press.
Cummins, J. (1979). Cognitive/academic language proficiency,
linguistic interdependence, the optimum age question and some other matters. Working
Papers on Bilingualism, 19, 121-129.
Dulay, H., Burt, M., & Krashen, S. (1982). Language
two. Oxford, England: Oxford University Press.
Goodman, K. (1986). What’s whole in whole language?
Portsmouth, NH: Heinemann.
Đàm
Trung Pháp
2018