Kéo seat belt xong, nghe tiếng hát từ CD, bà Vân ngạc nhiên,
hỏi Kimberly – con gái của Bà – bằng tiếng
Anh; vì Kimberly sinh tại Mỹ:
-Kim! Con nghe nhạc Việt à?
Vừa cho xe chạy từ từ Kim vừa “dạ”.
-Làm thế nào con hiểu được?
-Hiểu lời ca hay không, không thành vấn đề; vấn đề là nhạc
hay thì con nghe.
-Con nói đúng. Nền âm nhạc Việt Nam trước năm 1975 là một
kho tàng nghệ thuật.
Kim im lặng lái xe. Bài hát dứt. Tình khúc kế tiếp được bắt
đầu bằng dòng nhạc rất quen; rồi bà Vân nghe tiếng hát ngọt ngào: “Mây cuốn mịt mù che khuất ánh sao. Lạnh
lùng sương xuống đã lâu...” Bà Vân thở dài, nhìn ra khoảng không gian mênh
mông của một chiều Xuân nhạt nắng, như muốn tìm lại hình ảnh Quân – người yêu
thời thơ dại của Bà. Tiếng hát vẫn tha thiết, dịu dàng: “… Nhìn sao thề rằng yêu mãi người ơi! Dù nhiều giông tố trong đời; dù
cho ngàn sao đổi ngôi!...” Bà Vân xoay mặt sang phải để Kim không thấy mắt
Bà đang nhòa lệ.
Theo dòng nước mắt hoen mờ, bà Vân tưởng như thấy được hình ảnh
Quân lung linh trong nắng chiều. Không gian đã khác, thời gian đã lâu, nhưng
hình ảnh của Quân vẫn hiên ngang – pha chút ngạo mang – như buổi chiều Xuân
xưa, nơi “tòa án nhân dân” ở kinh tế mới Xuân Hưng!
Bìa rừng tại kinh tế mới Xuân Hưng là nơi con cháu của “Ngụy”
mỗi ngày phải vào, tìm bất cứ thứ gì để phụ vào kinh tế gia đình.
Thời bao cấp đó, Áng Vân chỉ là cô gái thành thị, vừa chớm
tuổi “dậy thì”. Áng Vân chẳng hiểu tại sao “bỗng dưng (!)” Mẹ và ba chị em của
nàng phải vào sống nơi rừng thiên nước độc này để Mẹ và chị phải “buôn đầu ngược,
bán đầu xuôi”, Tuấn – em của nàng – và nàng phải trở thành hai đứa trẻ mót củi/mót
khoai.
Áng Vân, Tuấn và nhóm người mót củi/mót khoai thường ăn trưa
chỉ với củ khoai lang hay một khúc khoai mì. Như thường lệ, Áng Vân bảo Tuấn ăn
xong nên tựa bao cát đựng khoai để nghỉ trưa và cũng như canh chừng khoai để
người ta khỏi ăn cắp; rồi nàng đi xa xa khỏi nhóm người, tìm nơi vắng vẻ, ngồi
ăn một mình và suy gẫm về những điều mà khối óc non nớt của nàng không thể hiểu
được!
Vì không hiểu được những uẩn khúc của dòng đời, Áng Vân cảm
thấy buồn thương và tiếc nhớ những ngày tháng sum vầy, hạnh phúc đã qua. Đôi
khi buồn quá, Áng Vân “ngân nga” những câu hát chợt đến trong hồn.
Một hôm đang “ngân nga” đến đoạn: “… Nhưng đã muộn làm sao níu giấc mơ, tìm làm sao những phút xưa… Giờ
đây ngoài trời im vắng mình tôi, tìm vì sao khuất bên trời, thầm mơ một
tinh tú rơi…” Áng Vân chợt nghe tiếng lá khô xào xạc từ phía sau. Quay lui,
Áng Vân thấy một thanh niên cao, da sậm màu, mặc quần đùi, áo thun rách, đang
nhìn nàng và cười một cách rất thân thiện. Áng Vân chỉ im lặng, nhìn người
thanh niên. Thanh niên vừa bước đến gần vừa khen:
-Cô bé hát hay lắm. Mấy hôm nay anh nghe văng vẳng hoài mà
không biết ai hát.
-Sao chú không nghĩ đó là tiếng hát từ radio?
Thanh niên ngồi đối diện với nàng, đáp:
-Khắp vùng kinh tế mới này ai còn được cái radio nào đâu mà
nghe nhạc! Thêm nữa, nhạc “Ngụy” bị tụi nó cấm, đâu ai dám nghe! Còn nếu tiếng
hát từ radio thì phải có tiếng nhạc hòa theo.
-Bộ chú biết nhạc sao?
-Biết chút chút. Còn cô bé, chắc cô bé chơi đàn? Đàn gì, nói
anh nghe đi.
-Sao chú biết em chơi đàn?
-Thấy ngón tay của cô bé dài và suông đuộc thì biết chứ. Em
chơi đàn gì?
-Dạ, hồi đó em chơi piano.
-Bây giờ cơm còn chưa có mà ăn thì làm sao còn piano để em
đàn. Tội nghiệp em!
Áng Vân cười buồn. Thấy
nét mặt và ánh mắt của Quân có vẻ như xa vắng, nàng hỏi:
-Hồi trước chú làm gì?
-Anh học Dược. Ồ, xin lỗi, chưa tự giới thiệu với cô bé. Anh
tên Quân. Em tên gì?
-Dạ, Áng Vân.
-Nhà anh ở ấp 11. Nhà em ở ấp mấy?
-Dạ, ấp 5.
-Gần mà. Hôm nào em “mót” được nhiều củi/nhiều khoai, cho
anh biết, anh xách về giùm. Anh đi rừng chặt cây bán cho lò hầm than mỗi ngày.
-Chú xách củi và khoai của em rồi ai vác cây cho chú? Em vác
không nổi đâu!
-Người xinh như cô bé ai nở bắt vác cây đâu mà lo! À, anh
đâu đã già, tại sao em gọi anh bằng chú?
Áng Vân nhăn mũi, cười tươi, lộ chiếc răng khểnh rất dễ
thương. Quân cũng cười, tiếp:
-Cho anh làm anh cô bé, được không? Anh không có anh em gì hết.
Áng Vân cúi mặt, lặng im. Chỉ một thoáng sau, Áng Vân đưa
tay che mặt. Quân bối rối:
-Áng Vân! Tại sao tự dưng Áng Vân buồn quá vậy? Anh không cố
ý làm em buồn. Cho anh xin lỗi, nha, cô bé?
Im lặng. Nhưng Quân nghe tiếng Áng Vân “thút thít”. Quân
lúng túng:
-Cho anh xin lỗi. Nếu cô bé không cho anh làm anh của em thì
thôi, đừng khóc!
-Không phải lỗi của chú; chú đừng xin lỗi nữa.
-Thế thì tại sao Áng Vân khóc?
Vì tâm trạng bất an, Áng Vân vô tình đáp:
-Tại vì anh làm em nhớ anh của em!
-Ô, anh của em vượt biển rồi, phải không?
-Dạ. Ông anh vượt biển, bị công an biên phòng bắn chết! Hai
người anh khác bị Việt Cộng nhốt trong trại cải tạo; một người trốn trại, bị bắn
chết!
Áng Vân cúi mặt, khóc tức tưởi. Quân thở dài:
-Bố của anh cũng bị Việt Cộng nhốt tù rồi, cô bé ơi!
Như được dịp thố lộ nỗi niềm, Áng Vân vừa quẹt nước mắt vừa
kể:
-Ba em cũng bị Việt Cộng nhốt tù nữa! Khi Ba em khiên tre,
ngã, đầu đụng đá, chết, Mẹ em và gia đình không biết tin. Lúc Mẹ em đi thăm thì
không ai biết mộ của Ba em chôn chỗ nào! Sao Việt Cộng ác quá vậy, Trời!
-Thôi, đừng khóc nữa, cô bé!
Áng Vân quẹt nước mắt, nhìn Quân như dò xét. Quân cười:
-Làm gì mà quan sát anh kỹ vậy?
-Em nghĩ, có lẽ chú cũng cỡ tuổi với ông anh thứ ba của em.
-Thế à? Thế hồi trước anh ấy làm việc ở đâu?
-Dạ, anh ấy là trung úy Không Quân.
-Ô, sĩ quan cỡ đó thì Việt Cộng không tha đâu.
-Còn chú? Tại sao Việt Cộng lại tha chú?
Chợt nhớ tiếng “anh” mà lúc nãy Áng Vân gọi chàng, Quân nghịch:
-Gọi anh bằng anh đi rồi anh trả lời.
Áng Vâng e thẹn, cúi mặt. Quân tiếp:
-Cô bé đoán anh cỡ tuổi với người anh trung úy Không Quân của
cô bé mà tại sao cô bé không gọi anh bằng anh?
Áng Vân chỉ cười. Quân lại hỏi:
-Cô bé tập cho anh hát bài mà em thường hát đó, được không?
-Dạ, bài đó tựa là Tìm Một Ánh Sao; dễ hát lắm.
-Dễ thì tập cho anh đi.
-Em tập cho chú hát thì chú phải cho em biết tại sao Việt Cộng
không bỏ tù chú, nhen?
-Rồi. Cô bé hát trước từng câu, anh hát theo.
Sau khi Quân biết cách hát, Áng Vân nhắc:
-Bây giờ chú trả lời em đi.
Quân lập lại câu nói lúc nãy:
-Gọi anh bằng anh đi rồi anh trả lời.
Vừa khi đó Tuấn chạy nhanh đến:
-Chị đi đâu em tìm quá chừng! Trở ra rẫy, không thôi họ lượm
hết, còn đâu mà mót.
Áng Vân bảo Tuấn:
-Tuấn! Chào chú Quân đi, em!
Tuấn cúi đầu:
-Dạ, chào chú Quân.
-Chào em Tuấn…
Quân chưa nói dứt câu, Áng Vân vội đứng lên, nói:
-Thôi, chú không nói thì thôi. Em chào chú. Em phải trở ra rẫy
khoai mì.
Quân cũng đứng lên, nhưng lại khom xuống ngay để lấy chiếc
nón lá rách đội lên cho Áng Vân, đáp:
-Sao dễ giận quá vậy? Anh trả lời cô bé nè! Vì anh là con
trai duy nhất trong gia đình, được miễn quân dịch. Đó là luật của chính thể Việt
Nam Cộng Hòa.
Áng Vân chậm bước theo Tuấn rồi quay sang hỏi Quân:
-Thật không, chú?
Quân cũng đi theo nàng, đáp:
-Thật mà! Không bao giờ anh dối em đâu. Ô, mai cô bé có đến
chỗ hồi nãy để ăn trưa hay không?
Như ngầm hiểu sự thừa thãi về sự hiện diện của mình, Tuấn vừa
chạy vừa nói vọng lại:
-Em ra rẫy trước, nhen, chị!
Áng Vân nhìn theo Tuấn,
cười rồi đáp lời Quân:
-Dạ, em chưa biết.
Giọng Quân trở nên tha thiết:
-Trưa mai cô bé tới chỗ đó đi. Mình ăn trưa/nói về âm nhạc/về
ca hát, nhé! Anh chờ.
Nhìn nụ cười đôn hậu và ánh mắt trìu mến của Quân, Áng Vân cảm
nhận được những rung động thần tiên trong lòng. Nàng e thẹn, “dạ” nho nhỏ.
Từ đó, sau khi ăn trưa, Quân và Áng Vân nói chuyện về nhạc
thì ít mà Quân dạy Anh văn cho Áng Vân thì nhiều.
Gần Tết, năm 1976, đến chỗ ăn trưa, thấy Quân đang săm soi
cây mai nhỏ nhưng đầy hoa, được trồng trong cái “soon” lủng, Áng Vân ngạc
nhiên:
-Cây mai ở đâu mà đẹp quá vậy, chú?
-Anh gieo hột, lâu rồi. Đây là lần đầu tiên cây mai trổ hoa.
Anh tặng em làm quà Tết.
Áng Vân thật sự xúc động, quên “giữ kẻ”, reo mừng:
-Làm thế nào anh trồng được cây mai đẹp “dữ” vậy?
Quân cười thầm khi nghe tiếng “anh”; nhưng chàng giả vờ
không biết để Áng Vân khỏi ngượng:
-Anh đem cây mai đến cho cô bé thấy trước. Chiều anh sẽ đem
cây mai đến nhà cho em; vì chậu hoa nặng, anh không muốn em bưng.
-Làm sao anh biết nhà em mà đến?
-Biết mà! Thôi, lo ăn trưa đi để anh còn dò bài cho em.
Trong lúc hai người ăn trưa – dường như đã nhận ra tình cảm
của Quân dành cho nàng – Áng Vân hỏi:
-Có khi nào anh nhớ thời gian anh đi học hay không?
-Có! Nhớ nhiều lắm. Còn em?
-Từ ngày Việt Cộng vô đây, họ đã cướp tất cả mọi thứ quý hóa
trong đời em rồi!
-Cả miền Nam mình ai cũng bị như vậy chứ không phải một mình
em hay là một mình anh. Mà thôi, chính trị không phải là chuyện của cô bé. Nói
về ca/hát đi!
-Anh muốn nói về nhạc phẩm nào?
-Anh muốn em và anh nên chọn bài Tìm Một Ánh Sao làm “nhạc
hiệu”.
-Nhạc hiệu là một phân đoạn của một bản nhạc, được dạo lên
trước một chương trình nào đó; còn bài Tìm Một Ánh Sao làm nhạc hiệu cho cái
gì?
Quân muốn đáp “nhạc hiệu của tình yêu”, nhưng nhận ra thời
gian chưa thuận tiện, vội nói khác:
-“Nhạc hiệu” của em và anh để chúng ta nhận ra nhau. Khi nào
em nghe tiếng chàng nào hát bài Tìm Một Ánh Sao thì em biết rằng anh đang tìm
em. Ngược lại, khi nào cô bé muốn tìm anh thì cô bé cũng hát bài đó, anh sẽ nhận
biết và tìm em. Đồng ý không?
Cách nói chuyện và đặt
câu của Quân không thể nào cô bé ngây thơ như Áng Vân có thể chối từ. Nàng im lặng,
cúi mặt, cười.
Từ đó, sau bữa ăn chiều – bằng bo bo – Quân thường đi ngang
nhà Áng Vân và hát nho nhỏ: “… Tôi muốn tìm về vang bóng lúc xưa, mà
lòng sao mãi ngẩn ngơ. Tàn đêm qua tôi nằm mơ …” Vì nhà chỉ là mấy tấm
“phên” che quanh và cũng vì Quân đã giặn, Áng Vân nhận ra “nhạc hiệu”, vội xin
Mẹ đến nhà bạn chơi. Mẹ dặn: “Con phải về
trước khi trời tối.”
Chiều mùng Ba Tết, năm 1976
– sau ba ngày mọi người nghỉ Tết – theo “nhạc hiệu” của Quân, chàng và
nàng lại gặp nhau, cùng đi chầm chậm trên con đường mòn dẫn ra đường cái quan.
Quân cũng chỉ nói những điều vui vui làm Áng Vân cười. Thấy mọi nhà lên đèn,
Áng vân tỏ ý cáo từ. Quân cầm tay nàng, đắm đuối nhìn vào mắt nàng:
-Trưa mai anh có chuyện quan trọng muốn nói với em!
Áng Vân chưa kịp hỏi “Tại
sao anh phải chờ đến mai” thì Quân đã kéo nàng vào lòng. Áng Vân lã người
trong vòng tay của chàng. Quân hơi khom xuống, đặt lên môi nàng nụ hôn thật dịu
dàng. Quân từ từ buông nàng ra, khẻ nói:
-Em về đi, kẻo Mẹ
trông”.
Áng Vân vẫn còn ngơ ngác, tưởng như nàng còn ngầy ngật/bềnh
bồng trong giấc mơ tuyệt vời!
Đêm đó Áng Vân ngủ không được! Lòng nàng cứ lâng lâng trong
niềm hạnh phúc vô biên, nhờ dư vị của nụ hôn đầu đời.
******
Trưa hôm sau, Áng
Vân đến chỗ cũ, chờ cả buổi cũng vẫn không thấy Quân. Áng Vân tủi thân, khóc! Bất
ngờ nàng thấy một mảnh giấy được xếp nhỏ, gắn nơi cành cây, ngay chỗ lần đầu
tiên Quân ngồi đối diện với nàng. Mở mảnh giấy ra, nàng thấy nét chữ của Quân:
“Áng Vân thương yêu!
Rất tiếc, anh không thể
gặp em như đã hứa! Anh chỉ mong em hiểu rằng anh thương em nhiều lắm; nhiều hơn
anh thương bản thân anh nữa!…”
Dòng hồi tưởng của bà Vân vừa đến đây, điện thoại cầm tay của
Bà “rung”. Nhấn nút, thấy số điện thoại của Danny Trần – chồng của bà Vân, đang
sống bên Việt Nam – giọng Bà không vui:
-Ông cần gì?
-Gọi thăm em với mấy đứa nhỏ chứ có cần gì đâu.
-Mấy đứa nhỏ “mạnh khù”; tôi chưa chết! Còn gì hỏi nữa
không?
-Mỗi lần điện thoại thăm em, em cứ nói “xóc họng” không hà!
-Vậy thì đừng gọi. Tôi đâu bảo ông gọi tôi.
-Anh ở bên này vì muốn giữ gìn tài sản của mình để khỏi bị gạc
đến trắng tay vì cái nạn nhờ bà con đứng tên nhà cửa giùm chứ có phải anh ham
chơi bời đâu.
-Giờ này mà ông còn bảo tôi tin lời ông hay sao?
-Vợ chồng gì nói chuyện với nhau cứ như “dùi đục chấm mắm
nêm”!
-Ông là thợ mộc, không cần “dùi đục” thì cần cái gì?
-Bye!
Bà Vân thở mạnh như vừa trút được gánh nặng! Lúc nãy, nhớ đến
Quân, tình cảm của bà Vân lênh láng, tràn ngập yêu thương. Bây giờ, chỉ sau vài
phút điện đàm với Danny, lòng bà Vân lại dâng lên không biết bao nhiêu niềm cay
đắng!
Không cay đắng sao được khi mà, suốt bao nhiêu năm dài, từ
năm 1977, nhiều thanh niên – ngay cả cán bộ/bộ đội/công an – trong các ấp ở
Xuân Hưng để ý đến Áng Vân nhưng đều bị nàng chối từ. Thấy chị của Áng Vân và
Tuấn đều lập gia đình, có cháu cho Mẹ bế mà Áng Vâng cứ lủi thủi một mình, Mẹ rất
buồn!
Cuối thập niên 90/đầu thập niên 20, “phong trào” về Việt Nam
tìm vợ cho con hoặc mấy ông già về Việt Nam thụ hưởng trên thân xác của những
cô gái chỉ đáng tuổi con út của mấy ông ấy thì Danny về hưu và cũng muốn “gặm cỏ
non”. Để cho oai, mỗi lần về Việt Nam, Danny đem theo danh thiếp, in bằng tiếng
Anh: Mr. Danny Tran, chuyên thầu xây cất. Sau nhiều lần khuyên giải/cản ngăn
không được, vợ của Danny đưa đơn ly dị.
Khi người quen giới thiệu Danny với gia đình Áng Vân, Mẹ bằng
lòng ngay; vì Mẹ nghĩ, Mẹ không có tiền để “chạy” cho Áng Vân xuất khẩu lao động
hoặc lấy chồng Đại Hàn/Trung Cộng; do đó, bất cứ ai đem Áng Vân thoát khỏi cảnh
sống cùng cực ở Việt Nam, Mẹ cũng nhận lời.
Áng Vân khóc rất nhiều. Nhưng rồi nàng nghĩ, Quân không còn
nữa, vậy thì, nếu tấm thân của nàng có thể đem đến cho Mẹ và anh chị em đủ cơm
ăn/áo mặc thì nàng chấp nhận; chỉ với điều kiện là phải đưa nàng sang Mỹ – vì
nàng kỳ vọng rằng nàng sẽ từ từ đem được gia đình sang sau.
Sau đám cưới, Danny đưa Áng Vân về Mỹ để khoe. Nhưng, sau
khi Áng Vân sinh hai đứa con, Danny lại ở Việt Nam sáu tháng, về Mỹ chỉ vài tuần.
Lúc này Áng Vân mới vô tình biết rằng, tờ giấy bằng tiếng Anh mà Danny kèm
theo, buộc nàng ký khi làm hôn thú với Danny là tờ Prenuptial Agreement
(1). Áng Vân không còn lý do gì để sống với Danny nữa; nhưng nàng muốn chờ hai
con học hành/đỗ đạc xong, nàng sẽ lìa xa Danny…
Thấy bà Vân như miên mang trong sự suy tư nào đó, Kim hỏi:
-Mommy! Mommy okay chứ?
-Bài hát đó gợi lại trong lòng Măng thời gian đói khổ ở kinh
tế mới cho nên Măng buồn.
Cho xe dừng ngay chỗ dành riêng cho khách, Kim nhấn nút, lấy
CD ra, bỏ vào hộp nhựa có tên bản nhạc, trao cho bà Vân:
-Tặng Mommy đó.
-Cảm ơn con.
Bà Vân bước xuống:
-Con trở lại trường đi.
-Dạ. Mommy trở lại sở làm chứ?
-Không. Gần hết ngày rồi, Măng về luôn.
-Bye, Mommy!
Sau khi trả tiền, lấy hóa đơn, bà Vân thấy chiếc xe của Bà
được lái đến, đậu cùng hàng với những xe đã sửa xong.
Cho xe nổ máy xong, bà Vân lấy CD Kim mới tặng, cho vào máy.
Chiếc xe chạy êm ả trong dòng xe dập dìu. Lúc tiếng hát đến đoạn: “… Năm ấy mình thường đi dưới ánh
sao. Hẹn rằng khi thấy nhớ nhau, mình ra bên song tìm sao...” thì
nước mắt của bà Vân lại lả chả rơi!
Vừa quẹt nước mắt bà Vân vừa nhớ lại tâm trạng của Áng Vân
suốt thời gian dài vắng tin Quân…
******
Từ sau Tết, năm 1976, không biết bao nhiêu lần Áng Vân muốn
đến ấp 11, hỏi thăm nhà của gia đình Quân để dò tin tức xem điều gì đã xảy ra
cho Quân. Nhưng vì biết tính Mẹ nghiêm khắc, nàng không dám. Cuối cùng, Áng Vân
nghĩ rằng, có thể Quân cùng với gia đình đã vượt biên. Ý nghĩ này làm cho nàng
buồn nhưng lại giúp nàng bình tâm và nàng thầm cầu nguyện cho Quân cùng gia
đình chàng được đến bến bờ Tự Do.
Chiều 27 Tết, năm 1977, đang săm soi cây mai do Quân tặng năm
ngoái, Áng Vân nghe “loa phường” yêu cầu đồng bào, đúng ba giờ chiều, đến “tòa
án nhân dân” xem “xử ný” tên “phản động”! Áng Vân chẳng để ý. Nhưng không hiểu
tại sao Mẹ lại lo lắng, gọi Tuấn nhiều lần, vẫn không nghe Tuấn lên tiếng. Mẹ
than:
-Tình hình chính trị chưa yên. Tụi Việt Cộng chưa hoàn toàn
kiểm soát được vấn đề an ninh. Nghe đồn kháng chiến nổi lên “rần rần”, bây giờ
loa phường lại kêu đi xem xử án. Không biết xử con ai mà thằng Tuấn đi đâu mất
biệt!
Nghe Mẹ nói, Áng Vân cũng cảm thấy lo cho em:
-Để con đi tìm xem Tuấn đang ở đâu.
Mẹ chưa kịp cản, Áng Vân đã chạy ra sân. Vừa qua khỏi bụi
chuối, Áng Vân thấy Tuấn – với vẻ hoảng hốt tột cùng – chạy “như bay” về phía
nàng, kéo tay nàng:
-Đi! Mau lên, chị! Tới xem. Tụi Việt Cộng dã man thiệt!
Từ xa xa, Áng Vân thấy dân chúng đứng thành vòng tròn nơi
sân đá banh. Đến gần, Áng Vân thấy một người đàn ông bị còng tay, mắt bịt kín bằng
tấm vải, bị “tống” từ trên xe xuống đất. Sau khi gượng đứng lên, ông ấy bị hai
tên công an kẹp hai bên, đưa đến cọc gỗ rồi cột tay của ông ấy vào cọc gỗ. Mọi
người nghe giọng sang sảng của ông ấy:
-Yêu cầu đừng bịt mắt. Tôi không sợ chết!
Một cán bộ đến mở băng bịt mắt cho người đàn ông. Chiếc băng
bịt mắt của ông ấy vừa được lấy đi thì Áng Vân hoa mắt, tay chân run rẩy và khối
óc tưởng như muốn vỡ tung trong nỗi hãi hùng ! Cán bộ quát lớn:
-Ai có “niên hệ” với tên Quân phản động này thì bước ra khỏi
đám đông, nhìn hắn “nần” cuối.
Với ánh mắt lạc thần và nét mặt ngơ ngác như trong cơn mê,
Áng Vân lừng lửng bước ra. Trong khi Tuấn không biết phải phản ứng như thế nào
thì Quân cong người, vừa giật giật cọc gỗ như muốn nhổ cọc gỗ lên, vừa gào lớn:
-Áng Vân! Đừng! Đừng làm như thế cô bé ơi!
Một tên công an chạy đến, bịt miệng Quân lại và một cán bộ
chạy đến, giữ chặt cánh tay của Áng Vân trong khi mọi người dân quanh hiện trường
đều sửng người, đứng yên như tượng đá!
Áng Vân nhìn Quân chăm chăm như nhìn vào một hiện tượng kỳ
bí của thiên nhiên. Nàng hoàn toàn bị phân tâm, đứng im, chỉ nghe lao xao mơ hồ
như ai nói gì đó – rất lớn và rất lâu – rồi một cán bộ rút súng lục, đến bên
Quân. Quân vừa hô lớn “Việt Nam Cộng Hòa
muô…” thì tiếng đạn nổ! Quân gục xuống trong tiếng thét hãi hùng của Áng
Vân!...
Khi nào nỗi đau thương sống lại trong hồn bà Vân thì lòng vị
tha của Bà đối với Cộng Sản Việt Nam cũng bị “khoét’ đi một mảnh! Bà Vân thở
dài, quẹt nước mắt. Vừa khi đó, với hành động vô thức, bà Vân lái xe chầm chậm
ngang một ngôi chùa. Nghe tiếng chuông vang vọng, bà Vân quẹo xe vào sân chùa,
với ý niệm cầu nguyện cho linh hồn của những người thân yêu!
Quỳ nơi góc chánh điện, bà Vân chấp hai tay, hướng tâm về Phật
Bà Quan Thế Âm, niệm danh hiệu Phật Bà. Sau một lúc lắng lòng cho đau thương
tràn về, bà Vân rời chánh điện.
Đi ngang phòng ăn, bà Vân chợt thấy chậu mai vàng rực rỡ được
để cạnh hồ nước nhỏ. Bà Vân dừng bước, nâng niu từng cành mai, lòng ngậm ngùi
nhớ đến người xưa. Trong niềm thương nhớ vô bờ, bà Vân tưởng như thấy được nhân
dáng hiên ngang/ngạo mạng của Quân – vào buổi chiều Xuân xưa nơi kinh tế mới
Xuân Hưng – chờn vờn trên mặt hồ phẳng lặng.
Chiếc lá vàng từ đâu bay đến, chao lượn, rồi rơi xuống mặt hồ.
Bóng Quân giao động, lung linh, rồi tan loãn. Vừa khi ấy, bà Vân tưởng như tiếng
hát của Quân văng vẳng trong sân chùa và trong lòng Bà:“… Tê tái lặng nhìn năm tháng lướt mau. Nghẹn ngào như mới vắng
nhau, hồn mênh mang mơ về đâu? Mộng xưa tàn rồi tôi vẫn còn mơ…” (2) Một
cách kín đáo, bà Vân vẫy tay tạ từ hình bóng Quân.
Cung cách của bà Vân lần này cũng đầy quyến luyến/tiếc
thương chẳng khác chi ngày xưa, lúc bà Vân thăm mộ của Quân lần cuối, trước khi
Bà theo Danny sang Mỹ!
Điệp Mỹ Linh
1.- Giấy thỏa thuận trước khi kết hôn..
2.- Tất cả lời ca trong truyện ngắn này được trích từ Tìm Một
Ánh Sao của Hoàng Trọng.