Người dân tưởng niệm các liệt sĩ chống Trung Quốc
vào Tháng Hai, 2017, các cuộc tưởng niệm này
luôn bị nhà cầm quyền CSVN ngăn cản hoặc đàn áp.
(Hình: Getty Images)
Sáng 17 Tháng Hai, 2018, tại khu vực tượng đài Lý Thái Tổ
(trung tâm Hà Nội), dù mới là mồng 2 Tết Mậu Tuất và trời còn lạnh, nhưng chính
quyền công an đã chuẩn bị sẵn sàng biện pháp ngăn chặn những người dân đến tượng
đài Lý Thái Tổ thắp hương tưởng niệm liệt sĩ chống Trung Quốc, bằng cách xua một
loạt “quần chúng” cao tuổi vào khu vực, ôm eo nhau nhảy múa, khiêu vũ.
Hồi 17 Tháng Hai, 2013 thì nhà cầm quyền bố trí quần chúng,
gồm cả bà già mặc áo hai dây, ra chân tượng đài múa điệu “Con bướm xinh.”
Đợt 19 Tháng Giêng, 2014 (tưởng niệm 40 năm Hải chiến Hoàng
Sa) thì công an, dân phòng cải trang làm thợ đá đến cưa đá, tạo tiếng ồn và bụi
mù mịt, cũng ở khu vực này.
Đó là các biện pháp ngăn chặn có tính chất ngắn hạn. Còn về
dài hạn thì chính sách của Hà Nội còn thâm hiểm hơn nữa.
Chẳng hạn, nhà cầm quyền cho xoá bỏ tên các đường phố đặt
theo tên liệt sĩ chống Tàu Cộng. Sau năm 1975, phố phường ở các đô thị lớn, nhất
là Sài Gòn, dày đặc tên các thể loại anh hùng, liệt sĩ, dân quân, du kích, biệt
động trong chiến tranh chống Pháp hay Mỹ. Lắm người mà đại đa số dân chúng có khi
chẳng biết là ai, đúng là xứ sở “ra ngõ gặp anh hùng” có khác. Nhưng chắc chắn
là trong số đó, chẳng có tên một liệt sĩ chống Trung Quốc nào.
Nhà cầm quyền cũng chủ trương không nhắc tới các liệt sĩ hy
sinh trong Chiến Tranh Biên Giới 1979, rút tên họ khỏi sách lịch sử, thu hồi,
không lưu hành các văn hoá phẩm (sách báo, bài hát…, nếu còn) viết về họ. Lê
Đình Chinh, Hoàng Thị Hồng Chiêm… tới nay không chỉ là những liệt sĩ mà còn là
nạn nhân của một chính sách xoá bỏ lịch sử, cố gắng làm các thế hệ sau quên
lãng một cuộc chiến đẫm máu do nhà cầm quyền bạo ngược của hai nước Cộng Sản
gây nên.
Thâm hiểm hơn nữa là việc cấm biểu diễn, lưu hành các nhạc
phẩm, ca khúc chống Tàu, ví dụ như “Chiến đấu vì độc lập tự do” của nhạc sĩ Phạm
Tuyên (hay còn được nhiều người gọi là bài “Tiếng súng đã vang trên bầu trời
biên giới”), “Lời tạm biệt lúc lên đường” của nhạc sĩ Vũ Trọng Hối, “Lena
Belicova” của nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ…
Ca khúc hoặc tác phẩm văn học nào nổi tiếng quá và lời lẽ
không chống Tàu lộ quá thì có thể vẫn được “chiếu cố,” nhưng cũng bị sửa đi nhiều
so với bản gốc. Còn lại, hầu hết các ca khúc liên quan tới cuộc chiến năm 1979
đều biến mất, nghĩa là không còn được biểu diễn trên các sân khấu lớn, trên
sóng truyền hình, hay ghi âm, in ra sách… Việc không lưu hành những bài này là
theo một thỏa thuận giữa Việt Nam và Trung Quốc nhằm bình thường hóa hoàn toàn
quan hệ giữa hai nước, từ sau năm 1991. Truyện ngắn “Mặt trời bé con của tôi” của
nhà văn Thuỳ Linh bị rút khỏi sách giáo khoa một cách không thương tiếc, hẳn là
vì nhân vật chính của truyện là một liệt sĩ trẻ chống Tàu.
Ôi, giá mà các chính sách vì quốc kế, dân sinh của Hà Nội đều
“có hệ thống,” có “tầm nhìn xa” như vậy!
Đến đây chắc các dư luận viên hoặc những thành phần có não
trạng dư luận viên sẽ lại rống lên: Quá khứ khép lại, tương lai mở ra, sao
chúng mày cứ bàn mãi về chuyện đã qua thế, sao cứ khoét mãi vào giai đoạn quan
hệ hai nước Việt-Trung gặp trục trặc thế, muốn gieo rắc thù hận à?
Tất nhiên, họ có quyền hỏi, kể cả quyền rống lên như vậy. Nhưng
họ thật là mặt dày khi không bao giờ đặt câu hỏi: Vì sao lại không cấm luôn cả
“Nguyễn Viết Xuân,” “Bế Văn Đàn sống mãi,” “Cô gái vót chông,” nhất là “Cô gái
vót chông” với những ca từ như: “Mỗi mũi chông nhọn sắc căm thù, xiên thây quân
cướp nào vô đây,” “Còn giặc Mỹ cọp beo, khi còn giặc Mỹ cọp beo, em chưa ngừng
tay vót chông…”
Và mới đây thôi, sát giao thừa rồi, nhà nước vẫn còn hân
hoan kỷ niệm “chiến thắng” Mậu Thân 1968…
Phạm
Đoan Trang