Tôi đã tưởng tượng cảnh Hiển gặp lại
mẹ chắc hẳn có rất nhiều nước mắt.
Bởi bao nhiêu nămước mơ duy nhất của
bạn tôi chỉ là được nhìn thấy người sinh ra mình. Hiển đã mơ từ quá khứ, mơ qua
đến hiện tại, mơ từ Việt Nam mơ sang trại tạm cư, mơ cho đến tận Hoa Kỳ. Mơ khi
còn bé, mơ cho tới lúc trưởng thành. Ấp ủ nhiều năm dài, tìm kiếm nhiều năm
dài, quyết chíhọc hành, quyết chí kiếm được một việc làm ổn định, cũnh như sau
đó quyết chí từ chối công việc kinh doanh chung với ba mình, cũng chỉ vì muốn
thực hiện ước mơ ấy. Tôi đã cầu mong và đã nghĩbạn tôiphải là người được hưởng
một cuộc đoàn viên thật hạnh phúc, thật tuyệt vời.
Vậy mà Hiển lại nói:
- Nếu như chị từng ước mơ có được
vật gì đó quígiá trong một thời gian dài, cả phần đời nào đó của chị, bỗng đến
lúc cầm lấy được trên tay mà đó chỉ là một giọt nước mắt, chị thử nghĩ sẽ như
thế nào nhỉ?
Tôi chưng hửng, ngồi thừ một hồi rồi
đáp, Hiển hỏi câu gì mà khó trả lời. Hiển hỏi lại khó sao. Tôi ừ:
- Nếu vậy thì thất vọng quá, còn
nghĩ ngợi được gì nữa chứ?
Hiển trầm ngâm mãi một hồi:
- Cái ngày Hiển lặn lội đi tìm bà
cụ, đến lúc gặp, không đến nỗi như những gì Hiển vừa so sánh, nhưng thật là
buồn.
Tôi tròn mắt nhìn. Chưa bao giờ tôi
ngờ đến cái kết cuộc của câu chuyện cổ tíchtôi chờ đợi nghe ở Hiển khôngấm áp,
không vui vầy, không là một “happy ending”. Tôi lắc đầu:
- Chuyện gì mà lại thảm hại đến vậy?
Hiển bật cười nho nhỏ. Tiếng cười
mềm mại, dễ chịu như bao lần, nhưng dường như nghe buồn còn hơn một tiếng thở
dài:
- Là Hiển thảm hại.
Vượt gần tám ngàn dặm từ Cali về đến
Việt Nam, chạy tới chạy lui trong vòng chưa đầy hai tuần lễ từ Sài Gòn ra miền
trung, lặn lội về tận cái làng quê nghèo nàn tronglúc đường xá, phương tiện đi
lại còn rất khó khăn để có được một cái địa chỉ không mấy rõ ràng, sau đó hăm
hở trở vào lại miền nam, hăm hở tìm xuống đến tận Củ Chi, với cái hy vọng rất
mỏng manh là gặp được đúng mẹ của mình, vậy thì điềugì đã xảy ra cho Hiển chứ?
Tôi nghĩ mãi không ra tại sao lý do tại sao những quả bóng ước mơ đầy màu sắc
đẹp đẽ của Hiển bỗng dưng biến thành bọt nước như thế.
Trong nhiều năm dài, Hiển đãsống như
một người không có hy vọng, không biết ngày mai của mình sẽ ra sao. Làm điều gì
Hiển cũng lưỡng lự. Cả việc có bạn gái nhiều lần cũng chần chừ, chỉ vì sợ người
ấy sẽ không hiểu mình, và vẫn thường khi hỏi lòng có thể vui được lâu khi chưa
tìm ra mẹ hay không. Điều Hiển nói làm tôi lao chao nhớ đến nhưng câu chuyện
xem trên truyền hình kể về một số người sống ở hải ngoại đi tìm cha mẹ, đến khi
gặp được rồi lại không mấy vui vì cái gánh nặng tài chánh bỗng bị đẩy lên vai.
Nhiều bậc cha mẹ đòi hỏi con cái phảibảo lãnh mình ra nước ngoài, hay đề nghị
trợ cấp cùng vô số thứ khác mà không biết con cái có gặp khó khăn trở ngại như
thế nào trong đời sống ởxứ người hay không… Tôi đã lo lắng tự hỏi không lẽ Hiển
bị vướng vào những chuyện như vậy sao. Tuy nhiên sau đó tôi vội vàng xua ý nghĩ
ảm đạm ấy ra khỏi trí. Hiển cũng im một lúc rồi kể tiếp:
- Hiển về Việt Nam vào tháng chạp.
Những năm đó người ta còn đón Tết buồn bã và nghèo lắm, nhưng vẫn thấy mùa xuân
rộn ràng đang về. Ngoài đường phố đầy màu sắc. Hiển chen chân giữahoa cúc, hoa
mai, hoa vạn thọ, rồi hồng, đào, mãn đình hồng… Nhìn đâu cũng thấy bánh chưng,
bánh tét, trà mứt rộn ràng. Không khí Tết tràn ra khắp nơi. Trước khi Hiển về,
thì bên này cũng chỉvừa mới qua lễ Giáng Sinh và năm mới, ngoài đườngcòn giăng
đầy đèn hoa, nhiều bảng quảng cáo, paneaux vẫn chưa được gỡ xuống, người Mỹ
không đón xuân không đón Tết, nhưng những khu đông đồng hương mình có thểthấp
thoáng thấy Nguyên Đán rồi. Ngày nào đi ngang khu Phước Lộc Thọ, Hiển cũng đưa
mắt ra ngoài cửa xe nhìn những hàng quán đã bày bán đào Nhật, hoa mai rừng, mai
giả. Ở bên này cũng bánh, cũng mứt, dù không nhiều như Sài Gòn nhưng đủ ấm lòng
kẻ tha hương, nên người dầu thờ ơ đến cách mấy đi chăng nữa, cũng thấy xôn
xao….
Hiển hạ thấp giọng:
- Mà lạ lắm chị à, là những năm
trước Hiển không hề thấy Tết, thấy Xuân. Trong lòng Hiển hình như chưa có lễ
hội bao giờ. Hiển không nhớ ngày còn nhỏ quá ra sao, nhưng kể từ năm bảy tuổi,
biết ra má không phải là mẹ mình thì cứ mỗi lần Tết đến là Hiển lại cảm thấy
hết sức khổ sở. Về bên nội, Hiển cứ sợ phải nghe ai đó nói thêm gì về gia cảnh
của mình, mà về bên ngoại, tức là bên má, Hiển lại còn sợ hơn. Bởi Hiển luôn
luôn sợ má không còn thương mình, sợ các cậu ghét vì Hiển không là ruột thịt
của các cậu. Cái tâm tư, cái nỗi lo sợ của đứa bé bảy tuổi ấy cứ ở mãi tâm trí
Hiển không chịu rời đi. Lúc nào Hiển cũng phập phồng. Lúc nào Hiển cũng nghĩ
đến một ngày nào đó hoặc má, hoặc các cậu nói thẳng vào mặt Hiển “mày là đứa
con bất đắc dĩ”…
Sang đến tận Hoa Kỳ, lúc đã có thể
tự đứng vững trên chân của mình rồi, có thể sống cách thoải mái, làm những điều
mình muốn làm, nhưng dường như chẳng sắc màu nào có thể làm chotrái tim buồn bã
của Hiểnphấn chấn, vui vẻ. Tôi biết Hiển từng có một cô bạn gái người Mã Lai,
tính tình rất dịu dàng dễ mến và nghe kể đã yêu bạn tôicòn nhiều hơn là yêu bản
thân mình, nhưng cuộc tình của hai người đã không đi đến đâu vì trong lòng
chàng trai ấygần như chẳng có ước mơ lứa đôi. Hiển kể:
- Con đường Hiển đi làm về hằng ngày
phải ngang qua khu chợ Bolsa. Ngày nào đường cũng kẹt xe, cũng ăm ắp người. Nên
ngày nào cũng phải nhấp chân thắng chờnhích lên một vài đoạn, một vài xăng ti
mét. Mà chị biết không, cứ hễ rảo mắt ngó ra ngoài, nhìn thấy bóng bà cụ nào đó
đứng trên lề, bước thấp bước cao đâu đó là Hiển lại có cái ước ao được quay
sang nói với người ngồi bên cạnh, “chiều nay mẹ con mình ăn món gì ha?”. Hay có
nhiều hôm còn… khùng hơn, là cứ bồn chồn muốn gọi điện thoại về nhà để nói, “mẹ
chờ con thêm tí nữa nhé, con sẽ về ngay đây” mặc dầu vẫn biết là không hề có
một người như vậy đang chờ mình ở nhà…
Ba mươi tuồi, thay vì ước mơ được ăn
chung, được sống chung với người phụ nữ là người yêu, là vợ, Hiển chỉ mong có
mẹ để chăm sóc và được chăm sóc. Chỉ mơ tự tay pha chén trà, bưng chén nước cho
mẹ. Hiển bật cười:
- Ngay cả khi ăn một tô mì gói, cũng
tưởng tượng ra câu mẹ mắng “sao không ăn cơm mẹ nấu mà lại đi ăn thứ này”…
Hiển nói khó có ai có thể hiểu được
mình lúc đó. Trong mắt mọi người, có lẽ Hiển là một người kỳ quặc, có tư tưởng
kỳ quặc. Bạn bè, người thân quen của ba má, chú bác cậu dì đều cho rằng Hiển
điên. Có người đã hỏi tại sao Hiển không chịu ở yên với những gì đang ở trong
tầm tay mình, không chịu hưởng những gì người khác nằm mơ cũng không thể có, mà
lại cứ cố tìm điều viễn vông. Hiển nói:
- Người ta đã nghĩ về Hiển như vậy.
Nhưng không ai hiểu những tâm lý phức tạp mà Hiển phải trải qua hằng ngày.
Trong lòng Hiểnlúc nào cũng ray rứt và mặc cảm khi nghĩ đến má. Biết má buồn,
biết má có cảm giác mình bị phản bội, biết má không vui. Nhưng cái ước mơ được
gặp người sanh ra mình không chỉ là một ước mơ thuần túy trong tâm Hiển nữa. Nó
đã trở thành một thôi thúc, giục giã. Nó làm Hiển đứng ngồi không yên.
Hiển bảo thời gian ấy là một trong
những năm thángnặng nề nhất và hầu như chẳng bao giờ cómột niềm vui nào đó ở
lại lâu với mình. Hiển chậc lưỡi:
- Chưa bao giờ Hiển có thể ngồi
xuống nói chuyện với ba Hiển được hai câu. Càng lớn Hiển càng thấy khó chịu với
ông. Chỉ cần đối thoại dăm ba giây là Hiển đã muốn nổi khùng rồi. Có thể nói là
cho đến tận bây giờ Hiển vẫn không thể nào thông cảm được cho ông. Hiển chưa
bao giờ hỏi ai là người đã đuổi mẹ Hiển ra khỏi nhà, ba hay má, bởi vì Hiển
nghĩ cho dẫu cái quyết định đó từ ai đi chăng nữa, người tổn thương cũng chỉ là
Hiển mà thôi, Hiển cũng hiểu là trong địa vị của ông lúc đó, ông chẳng thể nào
ly dị với má Hiển rồi đi cưới người tớ gái trong nhà làm vợ chỉ vì người ấy có
con với mình, nhưng Hiển không chịu được tính cách của ông. Cái tính cách vô
trách nhiệm khiến Hiển giận. Hiển cứ nghĩ tại sao ông lạigây ra chuyệnnhư vậy
rồi sau đólại để mặc cho mẹ Hiểnphải xa con, phải biệt xứ?
Tôi không biết nên nói điều gì. Có
một lầnHiển bảo mình có thể hiểu được má ngay cả trong chuyện bà đã đuổi cô
người làm ra khỏi nhà khi khám phá ra chuyện cô có thai với chồng mình. Hiển
nói khó người phụ nữ nào có thể chịu đựng được tình cảnh như vậy, nhất là đối
với một người hiếm muộn, không thể có con như bà. Hiển nói thêm:
- Nhưng dẫu vậy cũng khá tàn nhẫn.
Nhiều lúc Hiển nghĩ, tại sao không tìm một giải pháp khác, chẳng hạn đưa cả hai
mẹ con Hiển đến một nơi nào đó, chu cấp một số vốn, hay giúp gầy dựng một công
ăn việc làm có thể nuôi sống được hai mẹ con…, mà lại tách bà ra khỏi Hiển như
vậy…
Hiển từng kể cả ba lẫn má Hiển đều
muốn dùng Hiển như một thứ vũ khí. Má Hiển đã cột được chân chồng, có tiếng nói
với chồng bởi vì côngnuôi dưỡng giọt máu rơi của ông. Còn phía ba Hiển, tuy
không nói ra nhưng chính ông và cả giòng họ bên ông đều nghĩrằng thà một phần
gia tài của ông sẽ thuộc về kẻ có huyết thống với mình vẫn hơn.
Hôm ngồi nghe Hiển kể chuyện, đã gần
cuối tháng Chạpnên trời miền nam Cali thật đẹp. Cái nắng lụa là, vàng mướt chảy
trên những hàng cây xanh lá. Bầu trời thật biếc và gió chỉ khe khẽ thổi qua vai
như sợ làm se lòng người lữ thứ. Nhưng bạn tôi trông rất sầu muộn. Tôi nói:
- Tôi đã đi nhiều nơi, thấy nhiều
cảnh, nhưng có lẽtrong mắt tôi,màu xanh của đất trời, màu xanh của cỏ câyở nơi
ấy có vẻ thắm hơn, ngọt ngào hơn cả. Thảo nào nhiều người thích nơi này.
Hiển bật cười:
- Trời đẹp vậy, phong cảnh đáng yêu
vậy, nhưng bao nhiêu năm trời Hiển chả nhìn thấy gì cả.
Hiển nói dường như chưa bao giờ nhìn
thấy mùa xuân. Mùa xuân năm ấy Hiển vềSài gòn, được một người bạn đưa về Củ
Chi. Hiển kể, thời tiết miền Nam chỉ có hai mùa mưa nắng, sáu tháng mùa mưa đã
qua đi từ lâu nên hai bên đường đi cỏ cây trông rất buồn bã, khô khan. Nhưng
lòng bạn tôi háo hức như những đóa hoa đang nở rộ. Đoạn đường từ Sài gòn đến
huyện lỵ ấy chỉ chừng vai mươi cây số, mà Hiển cứ tưởng chừng còn dài hơn mười
mấy giờ bay Orange County- Saigon. Cả người Hiển cứ nôn nao như ngồi trên đống
lửa. Tim thì lúc nào cũng đập thình thịch, chỉ muốn nhảy ra khỏi lồng ngực. Và
như một đứa trẻ lên ba lên bốn lần đầu tiên được cha mẹ cho đi chơi, Hiển còn
muốn thò đầu ra khỏi cửa xe mà hét lên cho cả thế giới cùng nghe rằng tôi đã
biết mẹ mình ở nơi đâu, tôi sắp được nhìn thấy người mà tôi khát khao muốn gặp
từ bao năm. Cái câu nói “bây giờ thì tôi có mẹ rồi đấy nhé” cứ muốn bật ra trên
môi của bạn tôi, đến nỗi phải gắng lắm Hiển mới kiềm lại được. Hiển kể:
- Lúc bài hát “Đổi cả thiên thu
tiếng mẹ cười” (*) vừa mới được trình diễn, nghe xong là Hiển chạy đôn chạy đáo
đi kiếm về ngay. Suốt ngày Hiển chỉ hát tới hát lui, đàn đi đàn lại bản nhạc
này. Thuộc bài hát, thuộc trọn cả bài thơ này mặc dầu hoàn cảnh của thi sĩ Trần
Trung Đạo và Hiển chẳng giống nhau tí nào, nhưng cũng như ông, Hiển đã muốn đổi
cả thiên thu, đổi hết mọi thứ mình có để được nghe tiếng mẹ nói, tiếng mẹ cười…
Hiển về đến Củ Chi. Đường rợp nắng
tháng Chạp. Đường gập ghềnh những mô đất quanh co lối vào ngôi nhà nhỏ vách ván
lợp mái tôn, nhưng Hiển quýnh quáng bước đến vội. Trong lòng Hiển như đang có
phún thạch trào ra. Hiển kể hai bên đường thỉnh thoảng có những bụi tre xanh
cao vời vợi, ngọn đan vào với nhau trên không làm Hiển đã tưởng tượng đến một
vòng tay ấp ủ chở che. Bạn tôi lại muốn hét lên, tôi sắp thấy mẹ, sắp được mẹ
ôm vào lòng! Niềm vui, niềm hạnh phúc chỉ chực vỡ ra như những ngọn pháo bông
đêm Giao Thừa. Hiển ngó tôi:
- Nhưng những câu chuyện tao phùng,
những cảnh con cái đoàn tụ với cha mẹ sau bao năm xa cách thường thấy trong
phim hay trên truyền hình có lẽ không giống gì với cảnh Hiển gặp lại mẹ. Vào
thời gian ấy thì chị biết rồi đó, thông tin liên lạc đã quá tệ, truyền thông
không ra gì mà đi đứng lại còn khó khăn, nếukhông nhờ anh bạn của Hiển có chút
quen biết, lại rành địa phương đó thì không thể nào lần ra được manh mối đâu.
Cho nên đến giờ phút cuối cùng thì cả anh ấy lẫn Hiển vẫn không biết có đúng
chắc đó là người Hiển đang tìm hay không. Đã vậy, cái thời buổi nhiễu nhương
còn khiến người ta nghi ngờ nhau, do đó để khỏi bị lừa, thì cái “scene” bổ nhào
tới ôm chầm lấy nhau, mừng mừng tủi tủi như… cải lương không hề xảy ra. Mà vào
đến nhà, sau khi chào xong thì tụi Hiển phải bắt đầu tra gạn, hỏi han.
Tôi ngồi im nhìn bạn, không dám nghĩ
đến điều gì đã làm Hiển thất vọng. Hiển cười buồn:
- Phải nói là như hỏi cung vậy chị
à. Rồi bởi vì cần phải xác định rõ ràng từng chi tiết nên buộc lòng phải nhắc
đến những điềurất vụn vặt nhưng vô cùng kém tế nhị. Chẳng hạn phải hỏi mẹ Hiển
đã làm việc ở nhà ấy năm nào, công việc gì, tiền lương bao nhiêu, nhưng những
câu trả lời càng khó chịu hơn.
Hiển cúi nhìn xuống bàn tay mình đặt
trên bàn:
- Chị nghĩ xem có đứa con nào muốn
nhắc đến thân phận tôi tớ của mẹ mình trước mặt người khác, nhất là trước mặt
một người bạn lâu ngày mới gặp lại như vậy. Tuy nhiên chẳng phải vì vậy mà Hiển
cảm thấy xấu hổ hay ngượng ngập. Điều làm Hiển chịu không nổi là thái độ của mẹ,
lúc nghe bà nhắc đi nhắc lại hai chữ “ông bà” khi nói về ba má Hiển một cách
cung kính, có phần sợ sệt như thể vốn quen với sự ức hiếp, quen với chuyện mình
bị thua thiệt đã lâu, Hiển bực mình chịu không nổi.
Giọng Hiển chùng hẳn xuống:
- Thú thật là Hiển chỉ muốn bỏ về.
Bao nhiêu niềm hân hoan trước đây của Hiển bỗng trôi tuột xuống. Biến mất. Cái
cảm giác mình bị tổn thương, lẫn bị sỉ nhục cứ hiện ra. Hiển đã tự hỏi, thân
phận của mẹ là vậy sao? Và bị đối xửvậy mà bà vẫn chịu đựng, thái độ vẫn là của
một người ăn kẻ ở trong nhà như thế hay sao…
Tôi lặng người. Hiển tiếp:
- Lòng Hiển đau đớn, và Hiển đã giận
ghê gớm lắm. Nhưng ngay lúc đó, đang rối bời trong dạ, Hiển chưa xác định được
mình đang giận ai, nên bỗng trở nên lạnh lẽo một cách lạ kỳ. Những cảm xúc bồi
hồi, mừng vui như đông cứng lại. Hiển có cảm tưởng có ai đó bóp nghẹt buồng
phổi, đập trái tim mình ra từng mảnh vậy. Hiển đã ngồi đó nhìn bà trả lời những
câu hỏi của Hiển, của bạn Hiển, với nỗi cay đắng, khó chịu… Và đến cuối cùng,
khi biết chắc chắn đúng là mẹ mình rồi, thì Hiển hoàn toàn chẳng nói được lời
nào cả. Bầu không khí lúc đókỳ quặc lắm chị ạ. Mẹ Hiển chắc chắn là không thể
nào ngờ đượcHiển đã đi kiếm bà, mà lại còn lặn lội từ Mỹ về… Bàcó vẻ rất bàng
hoàng, không dám tin đó là sự thật. Nhưng có lẽ bà sợ hơn là vì sự lãnh đạm của
Hiển. Chắc bà nghĩ Hiển tìm bà để trách móc.
Hiển buồn rầu dõi ra phía ngoài cửa
kính rồi lại ngó xuống ly cà phê đã nguội lạnh trên bàn, hạ giọng:
- Thật sự ra, lúc Hiển vừa bước vào
thì mẹ Hiển đã nhìn Hiển trân trối rồi. Chị biết là Hiển có khuôn mặt giống hệt
ba Hiển mà, phải không? Nên có lẽ không cần phải giới thiệu, bà cũng đã nhận ra
Hiển là ai.
Hiển kể bà là người có vóc dáng nhỏ
nhắn, nhưng có lẽ cuộc sống nghèo cực còn khiến bà trông gầy gò, thảm não hơn
so với lứa tuổi thật sự. Hiển nói:
- Cái nhìn của mẹ làm Hiển chao lòng
lắm chị ạ… Linh cảm mẹ con, mẫu tử hiện ra ngay trong lòng Hiển. Nhưng thật kỳ
lạ là Hiển cứ ngồi quan sát bà một cách rất kỹ lưỡng, từ nét khắc khổ có lẽ vì
dođã quen chịu đựng cảnh cơ hàn, đến cái nhìn tha thiết, cái nụ cười hiền từ…,
màlại không hề để lộ ra cho mẹ thấy bất cứ tình cảm nào của mình.
Tôi chớp mắt nhìn Hiển. Người đàn
ông ngồi trước mặt tôi là một người điềm đạm, khiêm tốn, ứng xử rất lịch thiệp,
nhã nhặn. Gần như tôi chưa bao giờ nghe Hiển nói một câu khiến người khác đau
lòng hay khó chịu. Ngay cả trong những trường hợp đáng lớn tiếng, bạn tôi cũng
nhẹ nhàng, nhu mì trả lời. Tôi tự nhủ hẳn cơn bão trào lên trong lòng bạn tôi
có lẽ đã lớn gấp ngàn lần hơn tôi có thể tưởng tượng được. Hiển thở dài:
- Hiển đã chẳng chạy tới, chẳng ôm
chầm, chẳng gục lên vai mẹ bồi hồi khóc lóc gì cả. Cũng không một tiếng gọi mẹ
ơi như từng nghĩ, từng tưởng tượng. Ngay cả một câu nói ấm áp cũng không nốt.
Không làm được chị à…
Tôi cố mường tượng ra cảnh đoàn viên
của mẹ con Hiển nhưng mãi vẫn không được. Những gì tôi đang được nghe kể, hoàn
toàn khác hẳn với hình ảnh người thanh niêntừng chạy đôn chạy đáo đi kiếm mẹ
trong nhiều năm, từng đau khổ cô đơn đến tội nghiệp. Hiểnim một lát rồi ngước
lên nhìn sang tôi:
- Chị nghĩ sẽ như thế nào nếu Hiển
đã chạy đến và gọi mẹ?
Tôi lắc đầu, đáp không biết. Hiển kể
tiếp:
- Hôm đó Hiển chỉ ngồi nhìn mẹ như
vậy, rồi ra về. Hiển về lại Sài gòn. Những năm ấy thủ tục giấy tờ tạm trú còn
rất khó khăn, cái huyện lỵ đó cũng không dễ kiếm ra khách sạn tương đối tốt,
nhưng nếu muốn thì vẫn có thể làm được, mà Hiển đã lấy cớ ấy để không ở lại.
Hiển đã muốn chôn mình một chỗ không có aihết để mà khóc. Thật lòng mà nói là
Hiển còn muốn về thẳng luôn bên này nữa chị ạ.
Tôi ngó Hiển. Hai mắt bạn tôi đã trở
nên ươn ướt đỏ. Hiển chậm chạp lấy thìa cà phê khuấy vào ly của mình, nhưng sau
đó lại không uống mà cầm nó bằng cả hai bàn tay. Chúng tôi cứ thế mà ngồi im
không nói gì với nhau rất lâu. Mãi sau Hiển mới tiếp:
- Lòng Hiển tàn hoang như chợ chiều
ba mươi. Trước đây Hiển có kể với chị rằng Hiển vẫn thường thắc mắc, vẫn đặt
những câu hỏi tại sao mẹ có thể bằng lòng để Hiển ở lại với người gần như là
đối thủ của mình. Hay là tại sao bà dám giao con lại cho ba Hiển, mộtkẻ đã
không hề có trách nhiệm với những gì ông đã gây ra như vậy. Và Hiển còn thắc
mắc tình cảm giữa ba và mẹ Hiển là gì. Yêu đương, hay chỉ là những bốc đồng
nhục dục? Hiển đã tự hỏi và đã buồn nhiều lắm chị ạ. Nếu là yêu đương thì tội
nghiệp mẹ Hiển quá, nhưng chỉ là nhục dục thì càng tội nghiệp hơn. Hiển thương
mẹ đến chết được. Hiển đi tìm bà một phần cũng vì nghĩ đến nỗi đau bà phải gánh
chịu.
Hiển kể tiếp:
- Vì vậy khi nhìn thấy kiểu cách và
thái độ của mẹ như vậy, Hiển muốn xé nát cả tâm can mình ra. Đã vậy, lại còn có
thêm một điều khác nữa khiến Hiển khó chịu. Là lúc vừa bước chân vào đến cửa
thìHiển thấy ngay một bức hình treo trên vách. Hình mẹ Hiển lúc còn rất trẻ,
chụp chung hai đứa bé mà Hiển đoán chắc là con của người chồng sau. Bức hình
trắng đen không đẹp đẽ, vàcả ba người lại ăn mặc rất luộm thuộm đang đứng trước
một ngôi nhà vách ván, cũng xụp xệ như căn nhà bà đang ở. Nhưngnhư vậy đó mà nó
lại như một cú đấm, đấm trúng ngay vào giữa mặt Hiển. Hình xấu, người lôi thôi
luộm thuộm như vậy đó, nhưng tấm hình trông rất rực rỡ, trông họ rất vui, cả ba
nụ cười đều tươi tắn. Có vẻ nhưhọ đã rất hạnh phúc.
Tôi xót xa nhìn Hiển. Gương mặt bạn
tôi xem chừng vô cùng đau đớn. Hiển nóivới một vẻ rất buồn rầu :
- Hiển đã muốn bật khóc nức nở khi
nghĩ tại sao mình không được có mặt trong bức hình ấy, tại sao mẹ nuôi được hai
đứa trẻ này mà bỏ Hiển ở lại… Lòng Hiển như bị xát muối, mật như vỡ ra. Hiển
giận run lên. Cái đắng cay cứ tràn ra từng hồi. Hiển bỏ về Sài gòn một phần là
vì vậy…
Hiển về Sài gòn. Nắng tháng Chạp vẫn
vàng úa trên những con đường Hiển ngang qua. Hiển đã nghĩ bụng khi về đến khách
sạn thì sẽ gọi điện thoại cho hãng máy bay kiếm vé trở về Hoa Kỳ sớm hơn. Người
bạn đi cùng không dám hỏi han câu nào. Bởi chỉ cần nhìn thái độ lạnh nhạt của Hiển
là anh cũng có thể đoán ra bạn không vui thể nào. Tế nhị, anh nói nếu có gì cần
thì gọi cho anh. Hiển vuốt mặt:
- Lúc còn lại một mình thật sự, Hiển
mới thấy lòng mình trống trải. Như từ một thế giới nào đó, ngoài hành tinh nào
đó về lại trái đất, Hiển đã đứng ở ngưỡng cửa nhìn quanh. Không gian trong
khách sạn vốn xa lạ, lạnh lẽo, đồ vật bày biện chung quanh còn lạnh lẽo đếnđộ
Hiển không dám nhìn. Hiển đến bên cửa sổ nhìn xuống đường. Cận Tết, người ta đi
lại buôn bán. Hàng rong. Xe đạp. Xe máy… Ai cũng hối hả tất bật. Ai cũng như
đang ố kiếm thêm chút đỉnh cho ngày tư ngày tết. Bỗng dưng trong chốc lát ấy,
nhìn thấy sự vất vả, cực nhọc những người dân lao động như vậy, Hiển bỗng nghĩ
đến mẹ. Hiển bỗng nhớ đến cái thái độ lãnh đạm của mình. Trong trí Hiển hiện
rahình ảnh gian nhà vách ván bé nhỏ, con đường đất gập ghềnh, ngọn lá tre đong
đưa, nhữngtàu cau khô lá. Hiển chợt nhận ra cuộc sống của mẹ Hiển khốn khó, cực
nhọc biết bao nhiêu. Hiển chợt vỡ lẽ ra, rằngmẹ đã không ra đi cùng với Hiểnlà
để cho Hiển có được một cuộc sống đẹp đẽ hơn…
Hiển chớp mắt:
- Hiển cũngtự hỏi nếu Hiển lớn lên
trong nghèo khổ như vậy, sống cuộc đời nắng mưa cay đắng như vậy, thì liệu Hiển
có bằng lòng, có cảm thấy hạnh phúc hay không…Hiển nhớ lại khi bước theo Hiển
ra ngoài, mẹ Hiển đã ứa nước mắt nhưng vội vã quay đi chùi như thể không muốn
Hiển nhìn thấy. Bàn tay bà cứ đưa lên đưa xuống ngập ngừng như muốn cầm lấy tay
Hiển, làm cử chỉ gì đó với Hiển, nhưng không dám. Lòng Hiển thắt lại. Và Hiển
bật khóc như chưa bao giờ biết khóc.
Hiển nói với tôi, Hiển đã gọi cho
bạn, bảo rằng mình sẽ đi Củ Chi một lần nữa trước khi về lại Hoa Kỳ. Tôi nhìn
Hiển, mỉm cười, và chợt nhớ đến lời một bài hát của Văn Cao, “rồi dặt dìu mùa
Xuân theo én về. Mùa bình thường mùa vui nay đã về. Mùa Xuân mơ ước ấy đang đến
đầu tiên. Với khói bay trên sông, gà đang gáy trưa bênsông. Một trưa nắng cho
bao tâm hồn…”.
Có lẽ mùa xuân đã bắt đầu với bạn
tôi, từ khi ấy.
Hoàng
Nga
(*) Thơ Trần Trung Đạo, nhạc Võ Tá
Hân.