Nhà anh ở tầng bốn một chung cư cũ, không có thang
máy. Con còn nhỏ, vợ sau giờ làm ở sở còn phải chợ búa, cơm nước,
giặt dũ. Anh có trách phận hàng ngày xách rác đi đổ. Sáng sớm, khi
xuống nhà tranh thủ đi bộ vài vòng lúc phố phường còn vắng vẻ, anh
xách theo bịch rác đã được vợ thu dọn gọn gàng. Anh làm công việc
này giỏi giang đến nỗi chưa bao giờ bị vợ than phiền. Nhà anh dọn về
đây bốn năm, nghĩa là anh đã đi đổ rác hàng ngàn ngày.
Sáng nay, anh vừa huýt sáo khe khẽ vừa chạy xuống
cầu thang, tâm trạng hoàn toàn thư thái. Anh ném bịch rác vào cái
thùng sắt vuông màu xanh lá cây của công ty vệ sinh, vừa định quay đi
thì nhìn thấy ngay dưới chân mình một con búp bê xinh xắn. Nó đội mũ
đỏ, mặc váy trắng chấm bi xanh, hai tay chắp trước ngực, đôi mắt cúp
xuống, khoe một hàng mi dày. Hơi phân vân một chút nhưng anh tặc lưỡi,
chắc ai đó chơi chán rồi bỏ đi cho đỡ chật nhà. Nhưng đúng lúc dợm
bước đi anh bỗng nghe một tiếng động khe khẽ rồi trông thấy con búp bê
cựa mình, bật kêu lên mấy tiếng kỳ lạ bla, bla, bla. Anh cúi xuống, con búp bê nhìn
anh bằng đôi mắt xanh biếc màu trời, môi mấp máy, tôi biết khóc, tôi biết kêu bla, bla, bla*. Anh đứng im để định thần rồi cúi xuống nhặt nó
lên, đem đặt trên chiếc ghế đá gần thùng rác nhất. Dãy ghế này được
đặt theo sáng kiến của hội Người
cao tuổi trong chung cư. Đó là nơi chiều chiều các cụ ông cụ bà
từ bỏ căn phòng chật chội đến ngồi bên nhau, than van, kể lể chuyện
con chuyện cháu, hỏi han bệnh tật của nhau, khuyên nhau tập thể dục,
bày nhau uống các thứ thuốc nam, thuốc bắc… Đây cũng là nơi các bà
nội trợ nghỉ chân khi tay xách nách mang từ chợ trở về, lấy sức để
leo lên cái cầu thang dựng đứng. Dân sống trong chung cư gọi đó là
đường lên trời.
Anh đi bộ năm vòng, như thường lệ. Lúc về, anh dừng
lại chỗ chiếc ghế, có ý tìm con búp bê nhưng thay vào đó là bà cụ
già ở tầng hai, đang đưa đôi tay gầy guộc xoa xoa vào chiếc đầu
gối sưng lên vì thấp khớp. Bà
thường ngồi đó, lặng lẽ nhìn người qua lại, rên khe khẽ, không rõ vì
cơn đau hay chỉ là một thói quen. Anh đã nhiều lần trông thấy bà cụ
nhỏ bé, mặc áo cánh nâu, đầu vấn khăn ngồi ở chiếc ghế này nhưng
hôm nay trông cụ lạ lạ trong chiếc áo sơ mi màu tím sẫm với đường viền
đăng ten trắng khá diêm dúa. Có lẽ đó là chiếc áo đã lỗi mốt của người con dâu. Anh định hỏi
bà về con búp bê rồi sợ phiền, lại thôi. Anh nghĩ, chắc có ai đó đã
nhặt nó và cảm thấy an lòng. Anh gật đầu chào bà cụ rồi đi thẳng
về phía cầu thang.Thế nhưng, khi vừa đặt chân lên nấc thang đầu tiên,
anh đột ngột quay ngoắt lại, chạy đến
chỗ thùng rác. Khi nhìn thấy con búp bê nằm xóng xoài, lem
luốc giữa các bịch rác, anh bật kêu trời
đất, rồi đứng chết trân như người bị thôi miên. Có ai ở phía sau
vừa ném thêm một bịch rác qua vai anh, che khuất hoàn toàn con búp bê.
Người đó hỏi anh, anh tìm gì vậy. Anh quay lại, gặp ngay khuôn mặt
nhăn nhó của tay hàng xóm, không, tôi có tìm gì đâu. Anh cứ đứng như
thế, bất lực nhìn những bịch rác được ném tới tấp, chồng chất lên
nhau. Chẳng mấy chốc cái thùng sắt to đùng đã ngập ngụa những rác
là rác.
Vợ anh hỏi, anh sao vậy, đau bụng à, khi thấy anh
ngồi bần thần trước bát mì đang bốc khói. Anh đáp, vẻ thản nhiên,
anh hả, khỏe như vâm, đau ốm gì đâu. Vợ anh không trả lời, lẳng lặng
đưa thìa đũa cho chồng. Vợ anh là một phụ nữ xinh đẹp,tháo vát, sắc
sảo. Có lần, trong bữa tụ họp gia đình vào ngày chủ nhật, bố vợ
anh nửa đùa nửa thật, bảo con gái, con vừa vừa phải phải thôi, nhìn
mẹ kìa, cả đời chưa nói nặng một câu, chưa căn vặn, cật vấn chồng
lấy một lần. Ông bà dạy, lạt mềm buộc chặt con ạ. Vợ anh nũng nịu,
bố, bố vạch đường cho hươu chạy à. Có mà chạy đằng trời, anh nghĩ.
Anh có cảm giác, nhất cử nhất động của anh đều không qua khỏi mắt
nàng. Anh ăn chưa xong bát mì, nàng đã bưng đến cốc ca-phe pha sẵn,
ánh mắt dò xét, dứt khoát là anh có chuyện. Anh vừa thổi vừa uống
hết chỗ ca-phe, đẩy ly nước ra xa, cười cười, em có chuyện thì có.
Đôi khi, mắt mình mờ mà lại cho rằng hình ảnh kia không rõ nét. Nàng
đến sát bên anh, anh soi gương mà xem, anh cười kiểu gì mà như mếu
vậy. Anh đột nhiên đứng phắt dậy, anh có chuyện, anh có vấn đề,
chuyện gì, vấn đề gì mới được chứ. Mà anh cười như thế nào thì
liên quan gì đến em. Anh lao ra khỏi phòng trước ánh nhìn ngỡ ngàng
của vợ. Chưa khi nào anh ra mặt chống lại nàng như vậy.
Anh phanh kít xe khi đã đến sát vạch ngăn cách. Tay
công an nhìn anh, không rõ là bằng lòng vì hành động của anh hay nuối
tiếc vì bắt hụt một con mồi. Đến lúc đèn xanh bật lên, anh lại bị
mấy chiếc xe phía sau rú còi inh ỏi. Một cô váy đỏ khi ngang qua anh,
quay lại nhìn soi mói, rõ là ngẩn ngơ. Thấy cô ta rẽ phải, thay vì
rẽ theo cùng hướng để đến chỗ làm, anh quay xe rẽ trái. Chỉ cách
ngã tư một quãng ngắn, con phố bỗng hẹp lại với hai dãy nhà xây cất
giống hệt nhau, các ô cửa màu xanh đóng im ỉm. Có phần hoang mang
nhưng anh vẫn đi tới, cũng không hiểu để làm gì. Sau căn nhà cuối
cùng, có một thanh barrier bằng
sắt chắn ngang đường, giống như chỗ có tàu lửa chạy qua ở đầu phố
nhà anh. Phía bên phải có một lối đi nhỏ và một trạm gác. Anh bước
tới, vừa lúc một mái đầu bù xù thò ra khỏi ô cửa, anh cần gì. Anh
lúng túng, không, tôi vô tình qua đây thôi. Người kia nhại, vô tình, vô
tình, ai cũng vô tình. Vậy anh có vô tình trông thấy cái gì ngoài kia
không. Theo hướng mắt của ông ta, anh nhìn thấy mặt biển phẳng lặng như một tấm gương khổng lồ
xanh thăm thẳm. Anh đáp, biển. Người đàn ông cười phá lên, ấy đấy, tôi
đã hỏi bao nhiêu người nhưng chỉ mình anh thấy biển. Những người khác
cứ ngây ra nhìn tôi như thể tôi lừa phỉnh chi họ. Vậy có nghĩa là anh
được đi qua cái cửa này. Anh đi đi, ông ta khuyến khích. Thấy anh lưỡng
lự, ông ta dùng tay đẩy vào yên xe, giọng khào khào ma mị, cuộc đời
anh là ở bên kia cái cổng nhỏ xíu này. Anh muốn cưỡng lại nhưng cái
xe đã lọt qua cửa tự lúc nào và anh chỉ còn cách bám theo nó. Chết
tiệt, anh rủa thầm, không hiểu là rủa cái xe, rủa người đàn ông hay
là tự rủa mình.
Câu nói lấp lửng của người đàn ông khiến anh nghĩ
đây là khu vui chơi giải trí tưng bừng nhộn nhịp, trai tài gái sắc
chạy nhảy tung tăng, áo quần phấp phới, nói cười nghiêng ngả. Nhưng
trên mặt cát im lìm, chỉ có mấy chiếc lều lợp lá sơ sịa và một
dãy ghế bố xếp ngay ngắn gần sát mép nước. Anh thả bộ dọc theo bờ
biển vắng, nhìn những ngấn nước nhẹ nhàng liếm vào đôi chân trần
của mình, đầu óc thảnh thơi, vô tư lự. Chỉ đến khi nhận ra những
ngấn nước đã dâng cao hơn, tiếng sóng đã vang to hơn, anh mới dạt lên
phía trên cao, nơi có vài tảng đá, vài cây tùng đứng trơ trọi giữa
khoảng không rộng lớn. Cách đó một quãng, anh lại nhìn thấy một
trạm gác và một thanh chắn giống hệt nơi anh vừa bước vào. Anh ngồi
xuống gốc tùng, chân thả xuôi, tay chống vào phía sau, nheo mắt nhìn
biển. Biển đã không còn vẻ phẳng lặng như thoạt đầu anh nhìn thấy.
Những con sóng dồi lên, dạt xuống khiến biển có vẻ gì đó rất khó
lường. Người anh cứ chuồi dần, chuồi dần xuống trong một giấc ngủ
nhẹ nhàng, không mộng mị. Bỗng anh thấy có ai đó lay lay vai, rồi nghe
thấy tiếng khóc, tiếng kêu bla, bla, bla
văng vẳng bên tai. Anh choàng dậy, thấy mình đang bị lèn chặt giữa
một đám đông, trước ngọn đèn giao thông vừa đổi sang màu xanh và
người ta đang bấm còi inh ỏi phía sau anh. Quái lạ, anh không hiểu
điều gì vừa xảy ra trong 99 giây đợi đèn xanh. Có một cô váy đỏ
thật. Cô ta đứng rất gần anh, gần đến độ anh nghe thấy mùi nước hoa
từ mái tóc nhuộm nâu của cô. Nhưng cô ta không nhìn anh và cũng không
nói lời nào với anh. Cô váy đỏ rẽ phải, anh cũng rẽ phải, lòng dạ
lửng lơ. Anh liếc nhìn đồng hồ. Nếu không bị kẹt xe, anh sẽ kịp giờ
làm. Trưởng phòng của anh là một tay đúng giờ đến từng giây và chi
li đến từng xu. Hắn không ghét gì hơn việc nhân viên đi làm muộn và
người nào cũng nại ra lý do đường đông, ùn tắc giao thông. Hắn hầm
hừ, thế tôi bay từ trên trời xuống à. Mỗi khi có khoản tiền ngoài
lương cần chia cho mọi người, hắn đóng cửa phòng, tính đếm cả buổi
rồi buộc mỗi phần tiền bằng một chiếc dây thun nhỏ. Trên bàn làm
việc của hắn có một chiếc rổ nhựa đựng đầy dây thun. Có lần, vừa
bước ra khỏi phòng sep, anh tình
cờ nghe thấy cuộc trò chuyện giữa tay lái xe và cô nhân viên nhập
liệu mới về phòng. Cô gái hỏi, sep
có vợ chưa. Lái xe đáp, rồi, rất xinh đẹp. Cô gái than, thật phí của
trời. Lái xe vặn, tiếc à. Cô gái nhún vai, tiếc cho người đẹp. Lái
xe bảo, dở hơi à. Người đẹp quyền to lắm, là sep của sep. Sep bà duyệt thì cô mới được vào
đây đấy ạ. Cô gái cười phá lên, để mai xem sep mặc quần hay mặc váy. Trông thấy anh, cậu lái xe đưa tay
bịt miệng cô, muốn mất việc hả. Anh cười, tôi không nghe thấy gì đâu,
chỉ nghe xep, xep thôi. Mà này, nói xấu sep
là một phần của văn hóa công sở đấy. Cô gái dứ dứ ngón tay trước
mặt anh, anh can tội đồng lõa đấy nhé. Nhớ lại hình ảnh cô gái bé
nhỏ đi bên cạnh tay lái xe to như hộ pháp, anh bật cười. Sợ mọi người
nghe thấy, anh hắng giọng, cố ho thêm mấy tiếng nữa rồi nhìn quanh dò
xét. Nhưng các khuôn mặt đều lặng câm, chăm chăm hướng về phía trước.
Anh lầm bầm, bom có nổ mấy người cũng chẳng nhúc nhích, rồi bật kêu
thầm, mình thuổng câu này của
trưởng phòng từ hồi nào vậy. Mỗi khi công việc chậm trễ, hắn thường
đứng giữa phòng gầm gừ, bom có nổ
mấy người cũng chẳng nhúc nhích. Câu nói quen tai đến nỗi chẳng
còn ý nghĩa răn đe, cảnh cáo, thậm chí, nó đã trở thành một trò
đùa. Cứ mỗi lần sep nói chữ bom là cả phòng lại dồn mắt vào
cô nhân viên nhập liệu đang hạ giọng nói tiếp: có nổ mấy người cũng chẳng nhúc nhích. Cả bọn phá lên
cười, sep cũng cười. Có lẽ ưu
điểm lớn nhất của trưởng phòng là không giận lâu và hay quên, nhất
là quên tên người. Giao việc cho ông A thì cứ ông B mà hạch hỏi, giao
đề tài cho bà C thì nhằm ông T mà thảo luận. Có lần hắn túm lấy
anh ngay cửa ra vào, thế nào, muộn cả tuần rồi mà việc của cậu vẫn
chưa xong. Anh hỏi việc gì thì được biết đó là đề tài X của ông Y.
Nhưng hôm nay thì đúng là ngày anh phải trình bày phương án giải
quyết một phần trong kế hoạch chung của cả phòng. Anh chạy xe ngay
phía sau cô váy đỏ, mấy lần muốn vượt lên mà lần nào cũng bị cản
lại, lúc thì một chiếc xe đạp từ trong hẻm lao ra, lúc thì chiếc
tắc-xi bỗng dưng quay đầu, khi thì hai cô cậu chở nhau chạy ào lên từ
bên phải. Rồi bất thần, cô váy đỏ đổ rầm xuống ngay trước mũi xe
của anh. Thiên hạ xúm lại, chỉ trỏ, bàn tán, xuýt xoa. Hóa ra chiếc
váy bị quấn vào bánh xe mà cô ta không biết. Anh thợ khóa bên đường
chạy ra đỡ chiếc xe, mấy bà bán hoa quả giúp cô gỡ váy, đem túi
xách, mũ mão của cô vào vỉa hè, anh cùng một người đi đường đỡ cô
ta dậy. Cô bước đi khập khiễng, một vệt máu đang rỉ ra chỗ mắt cá
chân. Thế là lại phải chạy đi mua thuốc sát trùng, bông băng về ràng
rịt vết đau. Xong xuôi mọi việc thì anh đã muộn giờ 15 phút. Cô gái
ngồi lên xe với một vạt váy bị rách, quay sang anh. Tim anh đập như
muốn vỡ ra khi nhìn thấy đôi mắt trong biếc của cô ta, đôi mắt của con
búp bê bị vứt vào thùng rác sáng nay. Anh chờ đợi khuôn miệng xinh
xắn của cô sẽ thốt lên mấy tiếng tôi
biết khóc nhưng cô chỉ nói khẽ, cám ơn anh rất nhiều. Cô lại rẽ
phải. Anh rẽ trái, chạy một quãng ngắn, lòng vẫn lơ lửng, phân vân,
rồi đột ngột quay đầu xe, vừa khi ngọn đèn vàng phụt tắt. Cô gái
lúc ẩn lúc hiện rồi mất hút trong đám đông đầu đội mũ bảo hiểm,
mặt đeo khẩu trang, dính chặt vào nhau thành một khối, xô dạt trước
mắt anh. Anh thở dài, lắc lắc đầu, cố thoát ra khỏi trạng thái mê
mụ. Thoạt tiên, anh nghĩ mình quay đầu xe vì muốn theo sau cô váy đỏ
nhưng rồi chỉ mấy giây sau anh lại nghĩ đó không phải là nguyên cớ.
Dù vậy, anh không thể tự cắt nghĩa hành động lạ lùng của mình. Anh
muốn trêu chọc gã trưởng phòng chi ly từng giây từng phút với nhân
viên hay anh không muốn gặp bà thủ quỹ mặt choắt cheo suốt ngày than
thở, anh không thích nhìn cái cổng sắt nặng nề của sở làm, không
muốn ngồi tám tiếng trong căn phòng nhỏ lạnh lẽo… hay chỉ là bỗng
nhiên muốn rẽ theo một lối khác.
Thôi, kệ, tới đâu thì tới, anh nói với mình.
Anh chạy xe từ từ, mặc cho thiên hạ lướt qua mình,
vượt lên mình. Khoảng gần trưa thì anh ra khỏi những con phố. Anh nhìn
thấy một dòng sông. Sông nhỏ, nước trong, bên bờ có những bụi mua nở
hoa tím và những dây lồng đèn bò trên mặt cỏ, lúc lỉu những chùm
đèn màu xanh non. Như người ngủ chưa đẫy giấc, anh ngồi tựa vào gốc
muỗm dại, đầu óc lơ mơ, có cảm giác muốn đổ vật xuống để được ngủ
thêm giấc nữa. Anh chỉ thực sự tỉnh táo khi nghe thấy tiếng động ngay
sau lưng mình. Thì ra là một con kỳ nhông, không hiểu vì cớ gì, vừa
rơi bịch từ trên cây xuống. Nó giương đôi mắt lồi, lấc láo nhìn quanh,
đầy vẻ cảnh giác. Anh vừa giơ tay lên nó đã nhanh như cắt, lủi vào
đám lá vàng úa, chỉ thò ra một mẩu đuôi nhỏ xíu. Anh nhỏm người,
lấy chiếc que nhỏ xới tung chỗ lá thì nó chạy vụt vào một lùm cây,
anh chạy qua lùm cây thì nó chạy tới một lùm cây khác. Cứ như thế,
cuộc rượt đuổi khiến anh vã mồ hôi, chân tay mỏi nhừ mà con rắn mối
thì đã chạy thoát thân, không còn dấu vết. Anh nói to, tao thua, rồi
đứng bật dậy, nhận ra mình đã cách gốc muỗm một đoạn khá xa. Anh
lững thững quay lại, đưa mắt nhìn khắp quãng sông và trông thấy gần
như đối diện với mình, có một người đang ngồi dưới bóng mát của
khóm tre lớn, rậm rịt. Bằng vào dáng ngồi hơi khom khom, hai tay đưa
về phía trước, anh đoán người ấy đang câu cá. Người ấy ngồi im phắc
giống hệt ông lão trong bức Điếu ngư vàng ố của ông nội anh,
treo trên bức tường gần chỗ bàn nước. Ông nội bảo, đó là bản gốc,
được truyền từ đời này sang đời khác như một vật gia bảo. Mặc dù
có tuổi thơ ở thôn quê, anh chưa khi nào cùng chúng bạn đi câu. Anh
không đủ kiên nhẫn chờ đợi những chú cá dại dột cắn phải lưỡi câu
của mình. Với anh, đó là một công việc quá buồn tẻ, dù anh khâm
phục sự kiên tâm của họ. Người kia có vẻ đã ngồi ở đó từ lâu lắm.
Có khi ngồi cả đời rồi cũng nên. Anh bật cười vì câu đùa của chính
mình và đột nhiên, muốn phá tan sự tĩnh lặng kỳ lạ của nơi này. Anh
đưa hai tay làm loa “hú…hú” mấy lần nhưng người ấy vẫn không ngẩng
nhìn lên. Bực mình, anh đứng bật dậy, la to, ươ, ươ, ươ mà cũng chẳng
thấy người kia nhúc nhích. Anh rời chỗ, tìm đường đến sát mép nước,
vừa lúc nhìn thấy người kia giật cần và một con cá trắng lấp lóa
vùng vẫy giữa khoảng không. Người kia lần gỡ con cá khỏi lưỡi câu
rồi đứng dậy, dùng cả hai tay thảy con cá vào dòng nước. Anh bật kêu
thật to vì quá ngạc nhiên, anh gì ơi, ông gì ơi... ơi. Người kia nhìn
anh, đưa bàn tay lên ngang mặt, nửa như che nắng, nửa như chào. Anh chỉ
chỉ tay về phía bên kia sông. Người ấy hiểu rằng anh muốn sang sông nên
chỉ cho anh con thuyền nhỏ đang cắm sào dưới bến nước. Anh lắc đầu,
huơ tay, tỏ ý không biết chèo thuyền. Người kia cười, lẳng lặng thu
dọn đồ nghề rối nhảy ùm xuống sông, bơi về phía anh. Anh nhìn thấy
trước mặt mình một ông già khoảng ngoài bảy mươi với chòm râu và
mái tóc bạc trắng, ướt đẫm nước. Anh nói, cháu phá hỏng buổi đi câu
của bác rồi. Ông già cười, cũng đến lúc phải về. Cậu đi đâu mà lạc
đến đây vậy. Rồi không đợi anh trả lời, ông lại bảo, đứng đây mà
không tắm ùm một cái là uổng phí đấy. Nghe anh bảo không biết bơi,
ông lắc đầu, dân thành thị các anh rõ
thật là. Anh đỏ mặt, cúi xuống vốc nước rửa tay chân, mặt mũi,
có cảm giác nhẹ nhàng, thanh sạch kỳ lạ. Thấy anh cứ đưa tay xoa xoa
hai bên má, ông già bảo, cứ tắm rửa ở đây là da dẻ sạch sẽ, mịn
màng, chẳng cần xà phòng thơm, chẳng cần sữa tắm với kem dưỡng da
gì gì họ cứ nói ra rả trên ti vi ấy. Anh hỏi ông già, bác đi câu sao
về tay không vậy. Ông già cười, cậu nhìn thấy tôi thả cá hử. Tôi
sống một mình, ăn toàn rau đậu. Lúc buồn thì ra đó ngồi cho khuây
khỏa thôi. Cậu có rỗi thì ghé về nhà tôi uống chén nước. Anh theo
ông cụ. Dọc đường, gặp lũ trẻ ở trần bá vai bá cổ kéo ra sông, nói
cười, trêu chọc nhau ầm ĩ. Chúng chào ông già, ông Tư đi câu /Mà không có
cá/ là lá la la… Hóa ra chúng đều biết điều bí mật của ông
già.
Nhà ông cụ nằm sâu trong khu vườn rộng. Nhà nhỏ, đơn
sơ nhưng gọn gàng, sạch sẽ. Ông già mang ấm tích ra hiên, đặt mọi thứ
dưới nền đất. Anh đứng nhìn quanh, như cố ý tìm bóng dáng của ai
đó. Ông già đến sau lưng anh, thực ra thì các con, các cháu tôi cũng
ở quanh đây. Nói một mình là vì
bà nhà tôi bỏ tôi mà đi đã ngót mươi năm nay rồi. Giữa chốn đông mà ta vẫn một mình đấy cậu. Anh giật mình
quay lại, bắt gặp ánh nhìn hiền hậu của ông. Ông rót nước ra hai
chiếc ly thủy tinh cũ, cậu có điều chi bất ưng ư. Anh đáp, dạ cũng
không hẳn. Tự nhiên thấy bứt rứt, buồn bực thôi. Ông cụ uống hết
chén trà, khà một tiếng như kiểu người ta uống rượu, rồi, tôi hiểu
rồi, ai chẳng có một ngày bứt rứt, khó chịu hả cậu. Những ai không
có lúc như vậy mới đáng ngại. Tôi không ưa những kẻ lúc nào cũng
phởn phơ, mặt mũi vênh vác, nói cười hể hả, nhìn người bằng nửa con
mắt. Tôi đoán là đêm qua cậu nằm mơ thấy điềm gở hay sáng sớm đã
gặp phải chuyện đau lòng. Anh dạ khẽ, không biết làm cách nào để kể
cho ông câu chuyện con búp bê biết khóc, biết kêu bla, bla, bla bị ném
vào thùng rác. Ông già khoát tay, cậu tin tôi đi, ngày mai, ngày kia,
mọi việc sẽ lại đâu vào đó thôi. Những bận bịu hàng ngày sẽ lấp
kín nỗi băn khoăn, buồn bực ngày hôm nay. Bây giờ cậu ăn với tôi bữa
cơm rau rồi lên đường về nhà với vợ con, với bạn bè với công việc.
Anh thấy quyến luyến ông già. Ý nghĩ sẽ không còn có dịp gặp lại
ông khiến anh do dự một chút rồi nhận lời ở lại. Ông già vui vẻ,
trong lúc tôi thổi cơm, cậu ra giếng tắm ù một cái đi. Cái giếng đào
từ thời ông nội tôi đấy. Gàu tôi móc chỗ nhánh mít. Gàu nhựa, nhẹ
lắm.
Anh vừa rũ tóc vừa kêu to, mát quá bác ạ. Sống thế
này thảo nào bác còn khỏe như thanh niên vậy. Ông già cười, còn cậu
thì như một ông cụ. Thành phố gặm mòn mấy người. Ô tô, nhà lầu, ti
vi, tủ lạnh, máy tính, máy giặt… nhức hết cả đầu. Rồi ông lẩm bẩm,
lại còn không biết bơi, không biết chèo thuyền, không biết tắm sông,
rõ chán.
Trên chiếc mâm nhựa chỉ có một dĩa rau tập tàng, một chén nước tương, một
chén lạc rang. Anh xuýt xoa, cơm ngon quá bác ạ. Hình như cả ngày nay
cháu chưa ăn chút gì. Ông già bảo, ấy đấy, bao nhiêu ngày ăn thịt, ăn
cá cũng nên có bữa cơm rau, bao nhiêu ngày no cũng phải biết có ngày
đói, bao nhiêu lúc vui cũng phải có lúc buồn. Ông đưa một cộng rau
màu nâu đỏ có những đốm hoa vàng nho nhỏ lên, cậu có biết thứ rau
này. Anh đáp, rau sam phải không ạ. Ông cười lớn, cũng còn khá. Là
vị thuốc giải nhiệt tuyệt vời đấy. Rau củ ta ăn toàn là vị thuốc
mà ta không hiểu đó thôi. Có biết bao thứ ta có mà không biết, ta thụ hưởng mà chẳng hàm
ân trời đất. Cậu có làm tí cay không. Anh từ chối, dạ thôi, cháu còn
phải chạy xe. Ông già đặt đũa xuống mâm, vẻ tư lự, cậu là người đa
cảm, dễ bị tổn thương, cái người khác chỉ thấy như vết sướt ngoài
da, cậu đã đau quặn gan ruột rồi. Người như vậy thì khổ gấp mười
lần người khác. Nhưng cậu được đền bù bởi tình yêu thương của mọi
người. Lẽ thường mà. Anh không đáp, lòng rưng rưng muốn khóc. Anh đưa
tay quẹt ngang mắt, đứng dậy, bác để cháu dọn mâm. Ông già giữ tay
anh, đó là việc của tôi, người ta vẫn bảo, chuyện thường ngày ở huyện ấy mà. Chả biết gốc gác từ
đâu nhưng nghe hoài rồi quen. Cậu sửa soạn mà về đi.
Khi anh rời căn nhà nhỏ, trời đã nhá nhem tối. Đi
một quãng, anh ngoảnh lại. Dưới ánh sáng mờ nhạt của ngọn đèn
đường, căn nhà, khu vườn đã chìm vào bóng tối. Anh cảm thấy lòng bồn chồn như thể vừa
để lạc mất một cái gì thân thuộc, quý báu. Anh không biết liệu dòng
sông, khu làng, căn nhà nhỏ và, cả ông già nữa, có thật hiện hữu hay
chỉ là một giấc chiêm bao ngắn ngủi khác của anh trong cái ngày thật
dài này.
Anh chạy xe thật nhanh, mong có một dấu hiệu nào đó
khả dĩ xác nhận rằng mình đang tỉnh táo. Quãng đường đất dài hơn
anh nghĩ. Dù vậy, cuối cùng, phố phường cũng hiện ra, sáng trưng đèn
đuốc và tấp nập người xe. Chỗ giáp ranh giữa hai vùng đất có một
quán nước nhỏ vắng khách. Anh vào quán, gọi một ly ca-phe đen. Cô
hàng nước hỏi anh, chú có sao không. Trông như chú bị cảm nắng. Anh
đưa tay xóc lại cổ áo, vuốt nhẹ mái tóc, cố nở một nụ cười, giọng
nhã nhặn, tôi không sao, chỉ mệt một chút thôi ạ. Cô ta đưa ly nước,
dặn dò, chú uống từ từ thôi, kẻo mà sặc. Sặc nước cũng nguy hại
lắm. Anh ngẩng nhìn cô, bất ngờ khi thấy cô chủ quán còn khá trẻ. Cô
có khuôn mặt tròn hiền hậu và một ánh nhìn trong trẻo. Anh nhận ra
ngày hôm nay anh đã để tâm nhiều đến những đôi mắt của mọi người
quanh mình. Anh vừa uống chút cà phê loãng nhạt vừa đưa mắt quanh gian
nhà lợp tôn mỏng mảnh, cái tủ thuốc có dăm bảy loại thuốc rẻ tiền
như Hero, Bastos, Era, Đà Lạt, Hoa mai…rồi những chai nước giải khát,
mấy chiếc bàn nhựa màu nâu đen trầy sướt. Cô chủ quán đoán được sự
e ngại của anh, giải thích nhỏ nhẹ, chỗ này là đất nằm giữa làng
và phố, cũng là chỗ ông A bà B đang tranh chấp. Thấy họ còn bỏ
hoang, còn lo tranh tụng, cãi cọ ở đâu đó, em dựng liều cái quán lên
để kiếm chút ít nuôi con, được ngày nào hay ngày đó. Lắm khi em thấy
mọi thứ cứ rối tung rối mù lên, không sao tìm ra rường mối, rồi
nhiều lúc lại thấy mọi điều sao mà đơn giản, kiếm được vài chục
đong gạo, mua rau đã là niềm vui rồi. Đêm đêm thắp hương cho bố cháu,
em chỉ xin ngày mai lại được như ngày hôm nay. Giọng cô buồn buồn, đều
đều, như chỉ nói một mình. Anh ngồi im, chưa biết phải trò chuyện
với cô ra sao thì thấy một tốp 5, 6 cô cậu trẻ tuổi ùa vào quán. Có
vẻ là khách quen vì trông họ rất tự nhiên, thoải mái. Một cô kêu lên,
khát cháy cổ, chị ơi, cho tụi em uống nước. Anh lẳng lặng rời
quán.
Phố đông lạ thường. Hình như thiên hạ đã rời bỏ
những căn phòng của mình để đổ hết ra đường. Tiếng xe, tiếng người,
bụi khói, mùi xăng xe đã tạo nên một thế giới xô bồ, ồn ã, ngột
ngạt. Anh nhích từng chút một giữa đám đông, mắt dán vào những tấm
lưng đủ màu sắc, đủ kích cỡ. Một lúc nào đó, ngay trước ngọn đèn
đường đỏ quạch, anh nghe thấy tiếng khóc thất thanh của một đứa bé
gái, bố ơi, bố ơi… Tim anh chợt nhói lên. Biết đâu vợ con anh chẳng ở
đâu đó trong đám người đang ngạt thở vì chen lấn, xô đẩy này. Anh rẽ
bừa vào con hẻm bên tay trái, ngay sát chỗ đứng của anh. Anh chạy xe
trong con hẻm nhỏ chen chúc hàng quán, nhà cửa, thuận đâu rẽ đó,
không sao có thể lựa chọn, tính toán điều gì.
Khi bất ngờ nhìn thấy khoảng đất trống chỗ con
đường rẽ về nhà, anh bật kêu lên, lạy
Trời Phật rồi cả người, cả xe ngã vật xuống vệ đường. Hết xăng.
Anh ngước nhìn khu chung cư của mình, một khối vuông với những ô cửa
nhấp nháy sáng, giống như một hành tinh lạ vừa sa xuống mặt đất
chật chội này. Hình như chưa bao giờ anh nhìn toàn khối nhà của mình
vì lúc nào cũng vội vàng, sấp ngửa, lúc nào cũng cắm cúi ra đi,
cắm cúi trở về. Anh nhướn mắt tìm ô cửa nhà mình trên tầng 5 nhưng
chỉ nhìn thấy một mảng tối. Anh đứng bật dậy, lập cập dắt xe về
phía nhà.
Tiếng chào của bà cụ
làm anh giật mình. Bà ngồi trên chiếc ghế buổi sáng anh đặt
con búp bê, vẫn mặc chiếc áo tím có đăng ten trắng, vẫn đang đưa tay
xoa lên hai đầu gối bị đau nhức. Anh dừng lại, khuya rồi, bà lên nhà
kẻo lạnh. Bà cụ xuýt xoa, lầu bầu
điều gì đó mà anh nghe không rõ.
Anh chạy ba bậc một lên cầu thang, chân lạnh ngắt, lòng
thấp thỏm. Anh vừa đưa tay định gõ cửa thì cánh cửa bật mở, vợ anh
bế đứa con gái nhỏ, đổ sập vào người anh rồi bật khóc nức nở. Anh
vỗ vỗ vào vai vợ, không sao, không có gì, chỉ là một chút trục trặc
thôi. Đứa bé rời vai mẹ, thức dậy. Nó đưa bàn tay nhỏ xíu thơm tho
vòng qua cổ anh, miệng thì thầm, bố ơi, bố ơi, rồi lại ngủ thiếp đi
trên vai bố.
Quả như lời ông cụ, những bận bịu, lo toan thường
nhật đã lấp kín cái lỗ hổng của buổi sáng ấy. Vợ anh không căn
vặn lý do anh về muộn, trưởng
phòng không hạch hỏi vì sao anh không đến nơi làm, vì sao anh chậm báo
cáo công việc. Chiếc ghế anh đặt con búp bê không hiểu vì lẽ gì, đã
đem đi nơi khác. Bà cụ tầng 2 đã về quê cho rộng rãi, dễ thở. Mọi
người, mọi việc đều như muốn giúp anh quên đi một điều không vui. Bản
thân anh cũng muốn được yên ổn. Nhưng cái mối hàn quanh lỗ hổng vẫn
hiển hiện, vẫn cộm lên, vẫn chưa thể liền lạc. Mỗi buổi sáng, khi
cầm bịch rác ném vào thùng anh lại thấy tim đập loạn xạ, nhìn ngó
xung quanh, tìm kiếm xem liệu có ai vừa ném một con búp bê xinh xắn
vào thùng rác hay không. Đêm, đôi khi anh trở dậy, nghe thấy tiếng kêu,
tôi biết khóc…Những lần dắt con gái đi chơi, anh đứng sững người
trước những tủ kính bày bán búp bê và khăng khăng không cho vợ mua
chúng cho con gái. Vợ anh không hiểu, tại sao không. Anh đáp, đến lúc
chán lại vứt đi à. Vợ anh nhướn mày, thì sao, chỉ là một đồ vật
thôi mà. Anh cãi, mặt đỏ lên, đó không phải là một đồ vật. Vợ anh
nhún vai, lẳng lặng dắt con đi chỗ khác.
Mọi sự chỉ trở lại bình thường khi chủ khu đất
trống mua lại chung cư để mở rộng diện tích cho một dự án nào đó.
Nhà anh được đền bù một căn hộ trong chung cư cao cấp, có thang máy.
Ở đây, vợ anh có thể ném rác thẳng vào một đường ống dẫn xuống
tầng hầm, rơi vào một cái thùng rác mà anh không nhìn thấy.
SG 6/2012 (Những ngày Euro)
Ý
Nhi
* Một câu thơ của Vũ Thành Sơn.