Cái còng! Nói đến từ ấy tôi thất kinh. Mạng số không ra quái
gì, bởi vậy nhiều lần trong đời, tôi đút tay vào còng. Thời Ngô Đình Diệm làm tổng
thống, tôi bị tống giam vào khám Chí Hòa. Hai tay bị còng, cái còng Tây để lại,
bằng đồng, vặn vít chứ không khóa. Tất cả “quái khuyếch” đều chịu thua khi bị
mang loại còng này.
Thời Nguyễn Văn Thiệu là nguyên thủ quốc gia, tỏi cũng bị
ném vào Chí Hoà vì tội chống đối lăng nhăng gì đó. Bị khóa tay. Nhưng cái còng
năm xưa vắng bóng đâu rồi. Một loại còng mới có răng cưa, dây xích ngắn, khóa
chắc chắn do Mỹ quốc viện trợ. Tôi nhìn thấy cả thùng còng chưa dùng tới có dán
nhãn hiệu hai bàn tay nắm lấy nhau, tỏ rõ lòng thân thiện, ném ở góc phòng can
nhơn khám Chí Hòa.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước,
tôi quờ quạng lại bị tóm và bị còng. Nhìn lại cái còng, tôi thấy nó đã cũ kỹ,
đúng là cái còng tàn dư của Mỹ Ngụy bỏ lại. Tôi bị khóa tay giải đi khám Chí
Hòa. Tôi vô phúc nên bị khóa bằng cái còng xét rỉ. Khóa hóc, càng cựa quậy lưỡi
răng cưa ở cái còng tối tân càng thít chặt, đến độ hai tay tôi sưng lên, đỏ lựng.
Người cán bộ công an lôi tôi đi phá chiếc còng bằng búa và đục sắt. Hai cổ tay
đau điếng mà không dám kêu. Tôi còn bị chửi lên đầu:
- Tổ cha thằng phản động, mày làm tao tiêu mất một cái còng
rồi.
Khi vào xà lim, tôi bị cùm bằng sắt. Tới trại học tập cải tạo
tay tôi bị cùm bằng tre, chân thì bị cùm gỗ cây thau lau, cổ cũng bị gông nốt.
Khi bị kết tội chống đối hay trây lười lao động.
Nói tóm lại, cái còng, cái cùm, cái gông đều là một thứ dụng
cụ để khống chế cơ thể con người. Nó muôn hình vạn trạng.
Tôi muốn quên chuyện đó khi được trả tự do. Quên vĩnh viễn
cái còng. Nó là sự xui xẻo cần được đốt vía xua đuổi đi như thầy pháp trừ tà ma
quỉ quái.
Tôi trở về tự do, thảnh thơi sống bằng nghề mua bán ve chai.
Tôi rong chơi khắp thành phố, rao hàng và nhiều khi cũng trúng mánh. Thâu mua
được nguyên một cục răng vàng, một cái đỉnh bằng bạc, một cái huy chương bắc đẩu
bội tinh bằng vàng 18 K của một ông tướng, ông tá nào đó ở cư xá sĩ quan mà nay
phải đi học tập mút mùa tận Hà Sơn Bình. Thằng con trai ngu dốt dại khờ của ông
ta lục ra bán cho tôi. Thế là tôi trúng mánh.
Rõ ràng tôi là thằng mua gian bán lận. Đạp lên đầu nhau mà sống.
Để chắc ăn, tôi móc ra hai chai át xít. Một chai nước màu vàng, một chai nước
màu trắng. Chấm lên đồ vật mình định mua. Một vệt đen nổi lên. Trúng rồi! Tôi
phải ếm giá. Cái đồ khỉ này chỉ đáng giá một ly cà phê đen, thêm cho ba điếu
thuốc lá Samit lậu Thái Lan! Tôi nói với chú nhóc:
Cho chú em năm đồng đi uống cà phê, hít Samit cho đỡ vã, thật
ra tôi chẳng muốn mua cái khuy đồng này làm gì.
Cái huy chương của ba tôi, Bắc đẩu bội tinh.
Chẳng cần biết, cũng như cái khuy đồng thôi. Chỉ có kẻ ngu dốt
như tôi mới mua một cái khuy đồng tới năm đồng bạc.
Chú nhóc vã, đành ô kê ngay. Thế rồi tôi thơ thới ra đi. Thật
ra chẳng cần mua bán nữa, tôi đã trúng mánh rồi. Tôi chạy về bọn thu mua ngồi ở
góc đường Nguyễn Thiện Thuật, hùng dũng gọi rượu thuốc uống để nung chí anh
hùng. Thằng phân kim cân vàng trả tiền cho tôi theo giá vàng thị trường. Mặt
tôi cứ vác lên, ra lệnh cho đám ve chai hết thời gọi rượu uống thả cửa. Thằng bạn
tôi có bút hiệu là Sao Biển, trước kia làm nghề viết báo, nay cũng ra nghề ve
chai mang cái bản mặt sưng tím, lỗ đầu, lỗ mũi ăn trầu, trẹo quai hàm trở về:
Xui quá, tao bị chúng nó quây lại “khện” cho một trận thừa
chết thiếu sống. Chút xíu nữa thì chúng nó móc mắt tao cho tao chuyển sang nghề
bán vé số .
Tôi thân rót ly rượu xây chừng mời bạn:
Cạn ly, lý do?
Tao thử vàng, một bà lão có chiếc răng vàng lung lay muốn
bán cho tao, nhưng còn ở trong miệng bả. Để chắc ăn tao biểu bả há miệng ra, lấy
át xít thử. Không may một giọt át xít rớt ra nướu răng bả, bả dẫy lên tê tê. Vậy
là con cháu bả xúm lại đập tao. Phải thử, vì răng vàng bây giờ nhiều loại giả,
làm bằng đồng mạ vàng hay i-nốc. “Đại đế” ve chai đã cảnh giác anh em như thế.
Chúng tôi hộc lên cười, uống rượu như điên, an ủi bạn gặp cảnh
tai nạn nghề nghiệp. Thay vì ca hát, chúng tôi mở cuộc thi rao hàng xem đứa nào
hót hay nhất. Nội dung bài thi chỉ như thế này:
- Mắt kiếng bể, vỏ đồng hồ, vỏ cà rá, răng vàng, bạc vụn, tiền
xưa bạc cũ, ai bán không. Mua hết, bán hết, bà con cô bác ơi...
Ấy vậy mà nhiều thằng rao không ra lời. Thằng thì nghẹn lời,
thằng tủi thân, mấy con “ghệ” rao như khóc. Thằng bị bệnh sốt rét tắt tiếng
ngang. Thằng sứt môi rao có âm điệu ễnh ương kêu.
Tôi dĩ nhiên rao được, công phu tập luyện đi lại theo đại đế
ve chai hết sáu tháng trời mới vỡ giọng.
Hôm nay tôi giật giải vì tôi là người trúng mánh.
Không phải ngày nào cũng giống như ngày nào. Ngày vàng son
có và ngày thê thảm cũng có. Vận bỉ đến không hẹn, tôi rao rát cổ bỏng họng mà
chẳng có ma nào mang đồ ra bán. Tôi đi vào một xóm xưa, theo tôi đánh giá hẳn
là có cối giã trầu bằng bạc, hay tiền xưa bạc cũ, chắc cũng bằng quí kim. Xóm
Gà này có nhiều bà già trầu, ưa để dành chắt bóp, tiền bằng bạc chôn giấu cả hũ
ngoài vườn. Thế là tôi cất tiếng rao giữa buổi trưa nắng cháy. Nâng giá đồ vật
mình muôn mua lên cho thêm phần hấp dẫn.
Trong xóm có một quán nhậu đông đảo khách hàng. Tôi nhận ra
họ đều là thanh niên, ở trần, mặc quần đùi ngồi chồm hổm ngay giữa quán nhậu đế
với một mâm xíu quách, chấm nước mắm chanh ớt. Bữa nhậu đang đến hồi gay cấn, bầy
hầy. Chẳng biết họ đã “cưa” hết bao nhiêu lít đế, văng tục và chửi bới nhau đến
từ thứ bao nhiêu triệu. Những cục xương văng vung vãi khắp nơi. Ruồi nhặng bay
như vãi đậu.
Có người nghe tiếng rao, anh ta ngoắc tôi vào:
Mày mua tiền xưa bạc cũ phải không?
Dạ, đúng vậy.
Mua với giá cao, một đồng ăn chín mười đồng?
Đúng vậy.
Kim loại màu vàng?
Chính thế!
Người đàn ông hỏi tôi mặt đỏ như mặt gà chọi, kêu thằng nhỏ
ngồi cùng bàn:
Bẩy, mày về nhà tao mở cái ngăn tủ, lấy sang đây cho tao đồng
kim loại màu vàng. Chủ quán đâu, đưa thêm một can rượu nữa, hết xíu quách thì
nướng khô...
Thằng Bẩy phóng rẹc một cái. Nó sang đến bên kia đường. Chạy
vào nhà, lục lọi. Tiếng đàn bà la chói lói. Thằng nhỏ chạy sang quán đưa đồng
tiền cho tôi:
Chung tiền đi, quí lắm đó!
Cha mẹ ơi, một đồng tiền điếu, dùng để cạo gió. Đồng tiền
dùng lâu ngày mòn vẹt, màu vàng, bóng loáng. Không phải đồng tiền bà đầm xoè.
Tôi chưa kịp nói gì mụ đàn bà đã nhào sang xoe xoé chửi:
Nhậu nhẹt từ đêm qua tới giờ chưa đã sao, bây giờ lại về nhà
khiêng của đi bán nữa.
Gã lớn tuổi bình tĩnh:
Đừng ồn lên vậy, bà yên tâm bán được cho chú ve chai này,
tôi chia cho bà năm chục.
Tôi lắc đầu đưa lại đồng điếu:
Tôi không mua đâu.
Một gã khác trong đám nhậu:
Tại sao không mua, rõ ràng mày nói mua mà.
Mụ đàn bà nhảy choi choi:
Không bán, tao không bán cho đồ lưu manh chợ trời. Bọn này
ghê lắm, chuyên đi lừa gạt người lương thiện.
Tình thế trở nên gay cấn. Đám đàn ông say rượu hung tợn.
Chúng dám làm thịt tôi cướp hết tiền bạc vốn liếng lắm! Miệng mụ đàn bà điêu
toa độc ác, kinh khủng không kém:
Đồ buôn gian bán lận, trời ơi, đồng tiền cạo gió của tôi bằng
vàng y mà rẻ mạt thế à. Lột da nó ra!
Không còn cách nào khác, chạy là thượng sách. Tôi nhẩy nai.
Tôi phải nhanh hơn bọn say rượu kia, khoẻ hơn mụ nái xề chân yếu tay mềm. Tôi
phóng đi, vẫn nghe tiếng chân đuổi theo đồng thời nghe tiếng ngã ạch đụi. Chín
mươi chín phần trăm tôi thoát hiểm. Nhưng này, sao lại có bàn tay ai túm cổ
tôi. Sợ chết, tôi liền giở mặt hèn ra:
Lạy ngài, tha cho con, con còn phải nuôi mẹ già, vợ dại, con
thơ.
Tiếng cười hề hề:
Bình tĩnh đi...
Gã đàn ông mặt rỗ chằng rỗ chịt, có hàm răng cải mả ố vàng,
nám đen, trông cái mặt như trái xúp lơ. Tôi vẫn chưa hoàn hồn:
Thật tình tôi không thể mua được món hàng ấy của các ông.
Tôi không gian dối gì hết...
Gã đàn ông buông cổ tôi, vẫn cười nhe hàm răng cải mả:
Đúng rồi, tôi hiểu, cái đồng điếu hạng bét đó mà mua gì được.
Vào nhà tôi đi, anh có hàng mua được. Tôi biết anh là “chuyên gia mua đồ cổ”.
Tôi hoàn hồn thật sự, đứng trước mặt anh ta. Hình dạng anh
ta coi xấu xí vậy nhưng cũng chẳng có gì nguy hiểm. Tôi chỉ nhận thấy anh ta có
biệt tài bắt người. Chỉ một cái nắm cổ, hết cựa quậy. Hẳn là một cao thủ, giấu
tung tích.
Tôi theo anh ta vào căn nhà rách nát. Mái lá, tường bằng tôn
thùng phuy. Sàn xi măng loang lổ trơ cả đất. Hai đứa trẻ ở truồng, mặt mày lem
luốc nằm ngủ. Đứa nhỏ đút ngón cái vào miệng mút, dãi dớt nhễu nhão. Căn nhà nhỏ
thấp lè tè, nóng hầm hập.
Gã đàn ông mặt mũi quái gở mời tôi ngồi xuống sàn:
Ngồi chơi chờ tôi chút. Tôi mang ra món đồ “gia bảo” này chắc
chắn anh mua được.
Hắn khom người xuống mở cái cửa tủ nhỏ xíu lục lọi. Tiện tay
tôi lột cái mũ ra quạt cho hai đứa bé. Tự nhiên tôi thấy thương chúng, như
thương hai đứa con tội nghiệp của tôi. Mái tóc tơ của trẻ thơ phơ phất.
Gã đàn ông lục một hồi, lấy ra một vật gói giấy cẩn thận đưa
cho tôi:
Đồ gia bảo đó, sự nghiệp đời tôi, bây giờ phải bán cho anh,
tôi tiếc đứt ruột.
Vật tôi cầm trên tay nặng như sắt thép, có thể một vật gì đó
không bằng vàng cũng bằng bạc, đồng đen? Tôi vẫn chưa mở giấy:
Cái gì đây?
Anh có quyền mở ra xem hàng, mình thuận mua vừa bán, tôi chỉ cần tiền mua đủ
năm ký gạo cho các cháu. Tội nghiệp chúng cả tháng trời nay ăn mì sợi, khoai
lang. Con vợ tôi đi bán tàu hủ mà không đủ tiền mua gạo cho tụi nó. Tôi thất
nghiệp mấy năm nay rồi, không làm gì ra tiền, cứ phải bán dần đồ đi ăn... Tháng
trước tôi bán chiếc xe đạp cũ, sườn hiệu Tabo cho lạc xoong. Người ta tân trang
sơn phết lại lời đáo để đó.
Tôi giở hai lần giấy gói lấy ra món đồ. Tôi thất kinh kêu
lên:
Trời, cái gì thế này, sao lại cái còng?
Ừ, cái còng đó, cái còng gia bảo của tôi, mua đi, rẻ thôi
mà.
Tôi vẫn giẫy lên:
Không được, tôi sợ cái này lắm.
Gã cười, nhe hàm răng cải mả và nướu răng xám ngoét ra:
Xem kỹ hàng đi, hàng tốt, cả một đời làm lính kín của tôi mới
trúng thăm được cái này. Một triệu cái còng viện trợ mới có một cái đặc biệt,
trong nghề tôi biết, không sét rỉ, khóa nhậy đàng hoàng, pặc một cái là khóa
nghiến lại, hết đường cục cựa.
Anh bạn mới say sưa nói đến sự nghiệp lính kín chuyên đi bắt
người của anh ta ngày nào, nay đã là dĩ vãng. Những cái hay cái đẹp và cái tốt
của chiếc còng gia bảo mà anh may mắn làm chủ. Anh nói nó “o li din” đồ ngoại
vì có chữ đề Made in USA. Tôi phải chặn anh ta lại:
Tôi hiểu giá trị của nó rồi, nhưng cái này mua làm gì được?
Để phòng kẻ gian.
Thôi đi cha nội, mua rồi tôi bán cho ai đây?
Sao lại không, công dụng của nó ghê lắm chứ. Bây giờ kẻ gian
hơi nhiều, anh dùng cái còng này khóa xe đạp, ông nội thằng vồ xế nào dám đụng
đến. Mấy cái khóa xe đạp Trung quốc sản xuất đâu có bằng. Công dụng của nó đó,
chưa kể...
Anh ta bỏ lửng câu nói, nhưng tôi cũng hiểu cái oai của cái
còng khiến kẻ gian e ngại.
Nhìn hai đứa bé ngủ say, tôi thấy tội nghiệp quá. Tôi nói
thôi được. Trả cho anh ta năm đồng bạc, ném cái còng vào túi xách khoác vai, ra
khỏi nhà anh cựu lính kín, nói cách khác là công an chìm thời chế độ cũ.
Trời vào trưa, nắng gay gắt, nhưng tôi phải đi nữa, mua được
món gì kha khá một chút. Không thì coi như hôm nay lỗ sở hụi. Tôi nghĩ đến vài
địa bàn hoạt động. Tại sao tôi không đến nhà một bà quen mà ở đó tôi từng mua
được nhiều món quí. Giới thiệu người ăn hoa hồng. Khu đó là nơi béo bở cho những
thằng ve chai như tôi.
Tôi cuốc bộ đến nơi đó.
Nguyễn Thụy Long