Vừa sanh ra con Bẹo đã bị thọt chưn bẩm sinh. Ông bà Hai Ớt thuộc giới
thương hồ lấy ghe làm nhà nên con Bẹo cũng theo ghe rày đây mai đó mà lớn lên.
Thấy con tật nguyền, nhưng tánh tình lại hồn nhiên, tươi thắm, ông Ớt càng thương
con không thua gì bà Thìn, vợ ông. Mỗi lần treo trái cây toòng teng trên cây
bẹo, ông lại bật cười nhớ lại vì đâu con gái rượu của hai ông bà có tên là Bẹo.
Nguyễn Thị Bẹo.
Số là một hôm ghe vừa de đít cặp vô bến sông Bảy Háp, Cà Mau thì trời mưa lắc
rắc. Ông Ớt đang loay hoay cột trái giác và lóng mía Lào trên cây bẹo thì bà
Thìn nóng ruột quơ lấy tấm áo mưa ì à ì ạch chạy ra che cho ông.
Thấy cái bụng bầu vượt mặt lệt bệt chạy tới ông Ớt tuy thương vợ cũng phải nhăn
mặt la lên: “Chèn đéc ơi! Mưa gió vầy bà còn chạy ra đây làm gì. Giùm ơn dzô
đi. Coi chừng cái bụng bầu bì kia kìa! Thiệt tình.”. Bà Thìn cười giã lã: “Hông
sao mà. Ông ướt hết rồi nè”. Vừa nói bà Thìn vừa đánh phạch cái áo mưa ra, lầu
bầu: “Mưa gì bất nhơn. Hổng đợi người ta treo cho xong trái giác…”.
Mặc dù mưa lưa thưa rớt hột đủ ướt sàn ghe nhưng cũng vừa đủ để bà bầu bất
ngờ trợt chưn té một cái “ạch” chỏng gọng, đầu thì đập vô cây bẹo nghe một cái
“bốp”..
Đầu gối bể bánh chè, cái trán sưng chù vù khiến bà Thìn nằm ưởn cái bụng lên
trời la làng; đau đến nỗi bà nhăn quéo mặt nghiến răng rặn sao không biết lại
tọt ra một hơi hai cái bào thai non. Đáng lẽ theo lịch ông Ớt đánh dấu ngày đưa
ông Táo lên chầu Ngọc Hoàng bà Thìn mới chuyển bụng. Đằng này…
Ông Ớt xưa nay vốn trầm tĩnh, ít nói thấy vợ té xẩy thai cũng quýnh lên, hối
hả chạy tới trước mũi ghe, gập người hướng xuống bến kêu cứu. Người Ca Mau vốn
hiền lành lại nhanh tay lẹ mắt. nghe tiếng la hớt hải mấy người dưới bến ba
chưn bốn cẳng ù lên ghe xúm đưa bà Thìn xuống đặt nằm lên xe ba gác chờ sẵn đạp
thẳng vô nhà thương, ông Ớt lạch bạch chạy theo, tay quệt nước mắt, tay vịn yên
xe đẩy đi cho lẹ.
Nhớ lại cái ngày bà Thìn xẩy thai, ông Ớt hết hồn. Hớp miếng nước trà nguội
ngắt ông chắc lưỡi thầm than: Cũng may được ông trời thương – dù chỉ thương…
một nửa – giúp cho mẹ tròn con vuông; chỉ tiếc cho cái thai thứ hai mất ngay
khi lọt lòng, âu cũng là phận số thiên định.
Rồi lần theo năm tháng con Bẹo lớn lên trong niềm vui của hai ông bà. Ban
ngày ông bà Hai Ớt tất bật ngược xuôi khắp miền Lục Tỉnh Nam Kỳ, buôn bán đủ
các mặt hàng từ thực phẩm tới như yếu phẩm. Đêm về, thương con mọn, bà Ớt thắp
đèn dầu dạy con học hành. Tuy bị tật chưn nhưng đầu óc con Bẹo lại thông minh,
sáng lán, học đâu nhớ đó. Nhất là tánh tình con Bẹo suốt ngày cứ tíu ta tíu
tít, cái giọng thì trời ơi, cứ tươi roi rói, thánh thót theo câu hát, giòn tan
theo điệu nhạc. Nó không thích nhạc buồn, nghe cái giọng chim hót vui tươi rộn
rã của nó, người trên bến dưới thuyền đều khen con bé có giọng hát trời ban,
cái bản mặt thì bầu bĩnh, sáng rực đến dễ thương quá ể. Khi trở thành thiếu nữ,
con Bẹo càng ngày càng trở nên giỏi giang, quán xuyến cả việc bếp núc lẫn sổ
sách chi tiêu cho hai ông bà.
Có lần Bẹo đòi theo má lên bờ bổ hàng, ông Ớt không cho, nhưng bà Thìn nói
chắc như bắp có tui ông đừng lo. Bềnh bồng sông nước đã quen, lần đầu tiên đặt
chưn lên mặt đất Bẹo cảm thấy ngồ ngộ, là lạ, nhồn nhột dưới chưn. Lỗi tại mặt
đất (nó cứng quá má ơi, như Bẹo than), không bềnh bồng, mềm mại như nước khiến
Bẹo phập phồng, run chưn. Mà thiệt, Bẹo rụt rè bước chưa tới năm bước đã té
nhào đầu. Cú té thiệt tình, dù lúc đó bà Thìn có nắm chặt tay con, nhưng theo
đà té Bẹo lôi cả bà chúi nhủi xuống đất. Rốt cuộc Bẹo trẹo mắt cá, còn bà thì
trầy một bên má.
Ở nhà thương về, bị ông Ớt rầy quá mạng, biết lỗi, cả hai mẹ con đều nín
thinh. Từ đó, Bẹo ở luôn dưới ghe làm bạn với trăng sao, sông nước. Cũng như
ông bà Hai Ớt, Bẹo coi ghe là nhà, nước.là… đất.
Tuy lấy ghe làm nhà nhưng mỗi lần tết nhất nghe bạn hàng than nhớ nhà nhớ xứ
quá mạng khiến hai ông bà cũng xốn xang. Chiều về bên mâm cơm, ông Hai Ớt chạnh
lòng theo nỗi nhớ quê của bà Thìn ở Xóm Thủ, cạnh cửa sông Bồ Đề mà lâu lắm ông
không có dịp đưa bà về thăm.
Hồi thanh niên còn búi tóc, anh Hai Ớt là thợ chuyên môn sửa chữa máy móc
cho ghe thuyền chết máy ở chợ nổi Cà Mau. Lúc đó cô Năm Thìn là khách thương hồ
chuyên buôn bán các loại đặc sản miền Tây, một hôm từ vàm rạch Đường Kéo xuôi
ghe về tới cầu quay Cà Mau thì lột dên… Sau khi rà xét máy móc dưới hầm ghe
không thấy gì, anh đề máy thử thì nghi dưới đáy ghe có vấn đề. Miệng ngậm ống
nước thông hơi anh lặn xuống mới phát giác chưn vịt bị nứt gần gảy đôi, anh cẩn
thận tháo chưn vịt đem về hàn khí đá.
Duyên nợ ba sinh sao đó, mới gặp nhau cả hai đều bị… “sét đánh”. Sau này anh
Hai Ớt thổ lộ anh thương cô Năm Thìn ở sự cần mẫn, tháo vác, chịu thương chịu
khó với nghiệp dĩ; còn cô Năm thì cảm mến anh Hai tuy có tài nhưng tánh tình
thực thà, chất phác. Dần hồi hai anh chị đến với nhau, gần gũi, đỡ đần nhau
riết rồi thành vợ thành chồng.
Từ đó, anh Hai Ớt theo vợ chuyển qua nghiệp thương hồ rầy đây mai đó trên
sông nước; mê nghề đến độ ở tuổi về chiều mới được một mụn con.
oOo
Trải qua những cuộc bể dâu trong cuộc đời làm người, con Bẹo hồn nhiên, liến
thoắng ngày xưa nay đã là bà chủ nghiêm nghị, lịch lãm của một công ty xuất
nhập cảng nguyên liệu máy móc ghe tàu ơ Sài Gòn và ba chi nhánh ở Cần Thơ, Cà
Mau và Châu Đốc.
Bà Chơn Nguyên (tức con Bẹo thọt chưn) có chồng không ai khác hơn là con
trai trưởng của ông chủ tiệm xuồng bè ở Cà Mau, chủ nhơn ông của anh thợ máy
Hai Ớt ngày xưa.
Nhờ có tài kinh doanh cộng với một phần nhỏ tài sản bên chồng, lần hồi bà
Chơn Nguyên tạo nên một cơ ngơi trải dài từ Sài thành cho tới miền Tây Nam
phần. Điều đáng ngưỡng mộ là càng giàu có, bà Chơn Nguyên càng hướng Phật. Khi
đã thành công ngoài đời, với tấm lòng bác ái bà âm thầm đóng góp, giúp đỡ người
nghèo, người sa cơ lỡ vận, trẻ mồ côi, nhất là những người dị tật như bà. Bà tự
nguyện làm việc đó miệt mài, tận tụy.
Không phải vì dáng đi khập khễnh của bà Chơn Nguyên mà người ta không nể
trọng bà. Ở Xóm Thủ, quê mẹ của bà có một trường tiểu học mang tên Chơn Nguyên.
Xóm Thủ cũng là nơi an nghỉ của song thân bà là: ông Hai Ớt và bà Năm Thìn. Mỗi
lần về viếng mộ, bà Chơn Nguyên thường ngồi lặng ở đó hàng giờ. Cũng như về tới
Cà Mau, đứng trên cầu quay nhìn xuống bến đò bà bồi hồi nhớ lại chuyện sanh non
trên ghe thuở xa mờ. Những lúc đó, nước mắt của con Bẹo ngày xưa lại nghẹn ngào
ứa ra để bà Chơn Nguyên ráng nuốt ngược vào lòng mà thương cho đứa em song sanh
yểu mệnh của mình.
Bà Chơn Nguyên, pháp danh Mật Tịnh, mất năm 1969 tại Cà Mau. Bà có bốn người
con, cả bốn đều ăn học nên người và đều thành đạt trong thương trường. Có
điều, cô Xưa, cử nhơn văn chương, cô con gái út của bà Chơn Nguyên, khi có
chồng lại bỏ dạy theo chồng lênh đênh sông nước thương hồ. Anh chị cản cách mấy
cô cũng tỏn tẻn cười “Út đi tìm ba má mờ. Hi hi”.
Sáng nay ở chợ nổi Cái Răng, Cần Thơ, cô ngồi trong mui ghe nhìn anh chồng
dễ thương đang treo lóng mía Lào trên cây bẹo thì trời đổ mưa. Trời mưa lắc rắc
vừa đủ ướt cây bẹo.
Phan Ni Tấn