Nhân đọc bài Phở Việt Nam trên Văn chương Việt, chúng
tôi thử đi tìm cội nguồn của món ăn này trên Internet. Thật bất ngờ, khi gõ từ
khóa nguồn gốc của phở vào ô tìm kiếm Google chúng tôi thấy hàng trăm bài viết
về vấn đề này và nhận ra rằng… người ta đã nói quá nhiều về phở, nhưng chưa thống
nhất quan điểm về nguồn gốc. Vì thế, chúng tôi xin phép tham gia “cuộc tọa đàm”
này, hy vọng rằng có thể làm sáng tỏ đôi điều…
Phở ra đời từ năm nào?
Có thể khẳng định rằng tính đến năm 1838, từ “phở” chưa xuất hiện trong từ điển,
bởi vì trong năm này, quyển Dictionarium Anamitico Latinum của AJ.L
Taberd (còn gọi là Từ điển Taberd) được xuất bản lần đầu, nhưng trong đó không
có từ “phở”. Theo nhà nghiên cứu Đinh Trọng Hiếu, chữ phở lở xuất hiện trong từ
điển Đại Nam Quấc Âm Tự Vị của Huình-Tịnh Paulus Của (1896) với nghĩa là
“nổi tiếng tăm” (trang 200). Năm 1898, phở có mặt trong Dictionnaire
Annamite-Français của J.F.M. Génibrel với nghĩa là “ồn ào” (trang
614). Trong bài Essai sur les Tonkinois (Khảo luận về người Bắc Kỳ) đăng
trên Revue Indochinoise (Tạp chí Đông Dương) ngày 15-9-1907, Georges
Dumonutier đã giới thiệu nhiều thức ăn uống phổ biến ở miền Bắc vào cuối thế kỷ
19, đầu thế kỷ 20 nhưng không hề nhắc tới món phở. Đến năm 1931, từ phở có
nghĩa là một món ăn mới bắt đầu xuất hiện, ít nhất là trong quyển Việt Nam Tự
Điển của Ban Văn học Hội Khai Trí Tiến Đức (NXB Mặc Lâm): phở “do chữ phấn
mà ra. Món đồ ăn bằng bánh thái nhỏ nấu với thịt bò: Phở xào, phở tái” (trang
443)[1]. Một khi từ phở
đã xuất hiện trong từ điển thì ta có quyền tin rằng món ăn này đã phổ biến. Thật
vậy, trong tác phẩm Nhớ và ghi về Hà Nội, nhà văn Nguyễn Công Hoan viết:
“1913… trọ số 8 hàng Hài… thỉnh thoảng, tối được ăn phở (hàng phở rong). Mỗi
bát 2 xu (có bát 3 xu,5 xu)”[2]. Từ yếu tố này
ta có thể khẳng định phở đã ra đời từ đầu thế kỷ 20.
Nguồn gốc của phở
Hiện nay, có ba quan điểm chính, cho thấy sự khác nhau về nguồn gốc của phở, đó
là : phở xuất phát từ món pot-au-feu của Pháp, từ món ngưu nhục phấn
của Trung Quốc và cuối cùng là món xáo trâu của Việt Nam. Chúng ta sẽ lần lượt
tham khảo từng quan điểm để xem phở thật sự có nguồn gốc từ đâu.
Gốc Pháp
Có giả thuyết cho rằng phở bắt nguồn từ món pot-au-feu của Pháp. Phở là
cách nói tắt của pot-au-feu (nói trại âm tiết feu). Quan điểm này được củng
cố bằng quyển Dictionnaire Annamite-Chinois-Français của Gustave Hue
(1937) với định nghĩa: “Cháo phở: pot-au-feu” (trang 745).
Món pot-au-feu (ảnh).
Chúng tôi thật sự không hiểu: pot-au-feu là món thịt bò hầm của Pháp, nước
có thể làm súp, chế biến nước sốt, nấu rau hay mì ống, tại sao lại có thể ghép
món này với cháo phở của Việt Nam, cho dù trong giai đoạn ấy, do ảnh hưởng
người Pháp, người Việt đã bắt đầu làm quen với việc ăn thịt bò và đã biết nấu
món cháo thịt bò. Trên thực tế, xét về nguyên liệu, cách chế biến và cả cách ăn
thì phở và pot-au-feu là hai món hoàn toàn khác nhau,. Theo Wikipedia,
pot-au-feu là món thịt bò hầm với cà rốt, củ cải, tỏi tây, cần tây, hành tây; kết
hợp với rau thơm, muối, tiêu đen và đinh hương… Thịt bò sử dụng cho món này thường
dầy và to (chưa kể đuôi, xương sườn, sụn, cổ chân…), trong khi đó thịt bò trong
phở lại mỏng và nhỏ; mặt khác, những thứ như cà rốt, củ cải, tỏi tây… không phải
là nguyên liệu để làm phở, mùi vị pot-au-feu cũng không giống như phở. Người
Pháp ăn món này với bánh mì, khoai tây, dùng muối thô, mù tạt Dijon, đôi khi
cũng ăn với dưa chuột ri ngâm giấm chứ không ăn với bánh phở. Do đó, thật sai lầm
khi cho rằng phở có nguồn gốc từ món pot-au-feu.
Gốc Trung Quốc
Đây là giả thuyết mà nhiều người đồng ý nhất. Người ta cho rằng phở có nguồn gốc
từ món Ngưu nhục phấn 牛肉粉 của Trung Quốc, một món làm từ bún và thịt bò (ngưu
牛:
bò; nhục 肉:
thịt và phấn 粉: bún, bột gạo dạng sợi). Món này đọc theo tiếng Quảng
Đông là Ngầu-yụk-phẳn. Vào đầu thế kỷ 20, nhiều người Trung Quốc đã bán
món Ngưu nhục phấn tại Hà Nội. Ban đêm họ đi rao hàng “ngầu.. yụk..
phẳn.. a” rồi dần dần hô tắt còn “yụk …phẳn…a” rồi “phẳn…a”
và cuối cùng hô trại thành “phở”. Quan điểm này giống như ghi nhận trong quyển Việt
Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức (đã nêu trên): phở “do chữ phấn mà
ra”.
Củng cố thêm là định nghĩa về phở trong quyển Dictionnaire
Annamite-Chinois-Français (Từ điển An Nam-Trung Hoa –Pháp) của Gustave Hue
(1937), trong đó có đoạn: “Abréviation de “lục phở: phở xào: beignet farci
et sauté” nghĩa là “viết tắt của từ “lục phở”: phở xào: thứ bánh có nhân và
được chiên”. Nhiều người thắc mắc, không biết “lục phở” là cái gì. Theo chúng
tôi đây là từ có thật. Tương truyền rằng ngày xưa, các cụ đồ làng Mịn (xã Văn
môn, Yên phong, Bắc Ninh) có sáng tác một bài thơ nói về chợ Đồng Xuân, để các
cô đi chợ ngâm nga giải trí trên đường đi, trong đó có câu liên quan tới “lục
phở”, xin trích đoạn sau:
Cổng chợ có chị bán hoa
Có chú đổi bạc đi ra đi vào
Có hàng lục phở bán rao
Kẹo cao, kẹo đoạn, miến sào, bún bung
Lại thêm bánh rán, kẹo vừng
Trước mặt hàng trả, sau lưng hàng giò ……
Trong quyển Dictionnaire Vietnamien Chinois Francais
của Eugèn Gouin (Saigon, 1957) có một đoạn viết về từ “lục phở”:
“abréviation de “lục phở”: bouilli – cháo – pot au feu”…, “Lục phở:
prononciation cantonaise des caractères chinois: (ngưu) nhục phấn” bouilli de
boeuf. Vậy, “phở” là từ rút ngắn của “ lục phở”, còn “lục phở” là từ phát
âm của “(ngưu) nhục phấn” trong tiếng Trung Hoa.
Đến năm 1970, Nhà sách Khai Trí ( Sài-gòn) xuất bản quyển Việt Nam Tự-điển,
do Lê Ngọc Trụ hiệu đính thì quan điểm này càng thêm phần vững chắc hơn, trong
đó định nghĩa “phở” như sau: “Món ăn bằng bột gạo tráng mỏng hấp chín xắt
thành sợi nấu với thịt bò (do tiếng Tàu “Ngầu-dục-phảnh” tức “Ngưu-nhục-phấn”
mà ra: Ăn phở, bán phở”, trang 1169, tập 2).
Thật ra, những quan điểm trên chỉ cho thấy chữ “phở” có nguồn gốc từ tên Ngưu
nhục phấn, nhưng đáng tiếc là nhiều người lại nghĩ rằng phở là Ngưu nhục phấn,
hoặc “cách tân” từ món Ngưu nhục phấn, chế biến cho hợp với khẩu vị của người
Việt. Một số người lại dựa theo bài “Phở, phởn, phịa…” của Nguyễn Dư, dẫn
chứng quyển Technique du peuple annamite (Kỹ thuật của người An Nam,
1908 – 1909) của Henri Oger[3] để củng cố
quan điểm này. Họ giới thiệu hai bức tranh khắc, bức đầu tiên (mang số 26 trong
tập tranh 4577 bức) miêu tả một người đàn ông với gánh hàng rong, kèm theo chú
thích “Chinois vendeur ambulant à la tombée de la nuit” (Người Tàu bán
hàng trong buổi tối – Trần Đình Bình dịch). Nhưng họ không thể khẳng định người
đàn ông ấy bán cái gì, chỉ bảo rằng gánh hàng trông giống như gánh phở ở Hà Nội
ngày xưa); bức còn lại là hình vẽ một thùng chứa có dòng chữ hàng nhục phấn
行肉粉,
họ cho rằng giống như thùng của gánh hàng trong bức đầu tiên. Thế là họ vội khẳng
định dòng chữ ấy nói về món Ngưu nhục phấn 牛肉粉, và bán Ngưu nhục
phấn có nghĩa là bán phở, hay nói cách khác, phở chính là Ngưu nhục
phấn (!). Tuy nhiên, nếu nhìn kỹ bức tranh thứ nhất ta sẽ thấy rằng người
bán hàng có tóc đuôi sam, vậy người đó là Hoa kiều, bán món nhục phấn 肉粉 ở Hà
Nội chứ không phải người Việt Nam bán phở. Rất tiếc là không ai miêu tả gánh
hàng Ngưu nhục phấn ra làm sao để đối chiếu với gánh phở. Có khả năng gánh “nhục
phấn” giống gánh “phở” chăng?
Ngưu nhục phấn.
Theo chúng tôi, ngưu nhục phấn và phở là hai món ăn khác nhau. Từ
điển bách khoa Baike của Trung Quốc cho biết, tùy theo địa phương, nguyên liệu
và cách chế biến ngưu nhục phấn có thay đổi đôi chút, song nhìn chung, nguyên
liệu gồm có: thịt bò, nước súp, bánh bột sợi, củ cải chua, dưa cải bắp, bơ,
hành, tiêu, hồi, dâu tây, rau thì là, quế, muối, gừng, hạt tiêu đỏ sấy khô, rau
mùi tây, ớt khô, bột ngọt, tinh dầu hạt cải…Trong khi đó, thành phần chính của
phở gồm có sợi phở, nước dùng (ninh từ xương ống lợn/bò và một số gia vị khác),
thịt bò bắp (để làm thịt chín), thịt thăn mềm (để làm thịt tái), con sá sùng,
tôm nõn, hành khô, gừng, dứa, hạt nêm, thảo quả nướng, hành tây, hành hoa, húng
bạc hà, chanh, ớt, rau thơm…
Xét về nguyên liệu, ngưu nhục phấn sử dụng củ cải chua, dưa cải bắp, bơ, tinh dầu
hạt cải…những thứ không dùng để chế biến phở; ngược lại phở sử dụng con sá sùng
(có thể thay bằng bột ngọt), tôm nõn, dứa, chanh, ớt, rau thơm…những thứ không
thấy khi làm món ngưu nhục phấn.
Cách chế biến hai món này cũng khác nhau, do khá dài dòng nên chúng tôi không
trình bày ở đây, mời bạn đọc tìm hiểu thêm từ những clip giới thiệu cách làm
ngưu nhục phấn và phở trên YouTube. Còn khi nhìn hình dưới đây (bên trái) bạn sẽ
thấy nước phở trong, bánh phở nhỏ; còn hình bên phải là món ngưu nhục phấn
牛肉粉,
có nước sẫm màu, cọng to như bún, nhìn trông giống món bún bò Việt Nam.
Gốc Việt Nam
Trước hết, xin phép nhắc lại đôi điều về chữ Nôm để nhằm khẳng định món phở là
của Việt Nam. Song song với việc sử dụng chữ Hán, chữ Nôm dần dần trở thành văn
tự chính của nước ta đến cuối thế kỷ 19. Sang đầu thế kỷ 20, chính quyền Pháp
quyết định giải thể việc thi cữ bằng chữ Nho (năm 1915 ở Bắc Kỳ và 1919 ở Trung
Kỳ). Họ dùng chữ Quốc ngữ thay cho chữ Nôm để làm văn tự chính thức ở nước ta từ
năm 1908. May mắn thay, cái từ phở viết bằng chữ Nôm đã kịp thời xuất hiện
để chúng ta thấy rằng phở chẳng liên quan gì tới phấn 粉 trong
Ngưu nhục phấn 牛肉粉. Nhìn chung, có một số cách cấu tạo chữ Nôm, ở đây
chúng tôi nêu một cách tạo ra chữ phở để bạn đọc đối chiếu với từ phấn:
- Thứ nhất,
cách vay mượn nguyên xi một chữ Hán để tạo ra một chữ Nôm có cách đọc và
nghĩa khác với chữ Hán đó. Thí dụ: mượn chữ biệt 別(cách biệt, khác biệt)
để tạo chữ Nôm biết 別 (hiểu biết); mược chữ đế
帝
(vua chúa) để tạo ra chữ Nôm đấy 帝 (tại đấy, xem đấy…).
- Thứ
hai, cách ghép hai chữ Hán với nhau để tạo ra một chữ Nôm. Chữ thứ nhất là
thành tố biểu ý, chữ thứ hai là thành tố biểu âm. Thí dụ: mượn chữ nguyệt
月
(biểu ý) + thượng 尚 (biểu âm) để tạo chữ Nôm tháng; mượn chữ thượng
上
(biểu ý) + thiên 天 (biểu âm) để tạo chữ Nôm trời.
Vậy có bao nhiêu chữ Nôm đọc là phở?
Theo những tự điển mà chúng tôi đã tham khảo, từ phở xuất hiện trong phở
lở gồm có ba chữ (𡂄 và 㗞, đều thuộc bộ khẩu; 頗, thuộc
bộ hiệt); còn từ phở trong bánh phở bò có một chữ (普, thuộc
bộ Nhật, âm Hán Việt là phổ); riêng từ phở với nghĩa là món phở thì gồm
hai chữ Hán ghép lại: mễ 米+ phả 頗.
Những thí dụ trên cho thấy hai chi tiết đáng chú ý sau:
- Bánhphở bò: trong Từ điển nhật dụng thường đàm, mục Thực phẩm (食 品 門 Thực phẩm môn) có đoạn giải thích về “bánh phở bò” bằng chữ Nôm. Chúng tôi sắp xếp lại cho dễ đọc: “Chữ Hán: 玉 酥 餅 (âm Hán Việt: ngọc tô bính) giải thích bằng chữ Nôm: 羅 普 (là 羅 bánhphở 普 bò); tiếng Anh : rice noodle. Ta thấy gì?.普 là một chữ Hán, đọc theo âm Hán Việt là phổ. Người Việt xưa đã mượn nguyên xi chữ này để tạo ra chữ Nôm đọc là phở. Tuy nhiên, cách giải thích của Từ điển nhật dụng thường đàm khiến chúng tôi rất phân vân, bởi vì từ tiếng Anh rice noodle có nghĩa là phở, tức món phở mà ta đang bàn, song chữ Hán玉 酥 餅 (ngọc tô bính) lại nói về một loại bánh khác, vì trong đó tô 酥 có nghĩa là món ăn làm bằng bột nhào với dầu. Thí dụ: hồng đậu ngọc tô bính 红豆玉酥餅 (bánh ngọt nhân đậu đỏ), hạch đào tô 核桃酥 (bánh bột trái đào). Vậy từ phở 普 ở đây dùng để chỉ món phở hay bánh bột? Đây là điều cần phải xem lại.
- Theo Từ
điển chữ Nôm của Hội bảo tồn di sản chữ Nôm (VNPF), hai chữ Hán: mễ
米
(biểu ý) kết hợp với phả 頗 (biểu âm) tạo thành một chữ Nôm
có nghĩa là phở (trong cơm phở). Đây là cách ghép từ rất
đáng chú ý, vì mễ 米 có nghĩa là gạo, biểu ý cho món ăn chế biến từ gạo
(bánh phở); còn phả 頗 đọc theo tiếng Hoa là “pho” hoặc
“phỏ”, dùng làm từ biểu âm để tạo ra chữ phở là rất hợp lý.
Bây giờ, xét về ngôn ngữ, chúng ta xem thử những chữ Nôm phở
(𡂄,
㗞,
頗,
普)
có liên quan gì với chữ Hán phấn 粉 trong ngưu nhục phấn 牛肉粉
không, đặc biệt là chữ phở trong món phở? Xin thưa, chẳng có liên quan
gì cả. Nếu thật sự phở là từ đọc trại từ chữ phấn 粉, tại
sao người Việt xưa không mượn nguyên xi chữ này để tạo ra chữ Nôm đọc là phở?
Vì điều này tiện hơn là mượn một chữ khác? Nói rộng hơn, chữ Nôm bò 𤙭
trong phở bò cũng chẳng có liên quan gì tới chữ ngưu 牛 trong
tiếng Hán.
Tóm lại, chữ Nôm phở hay phở bò 𤙭 cho thấy rằng người Việt
xưa rất chủ động trong cách dùng từ, mục đích nhằm khẳng định rằng “phở” là một
món ăn hoàn toàn Việt Nam, chẳng dính dáng gì tới ngưu nhục phấn 牛肉粉 của
Trung Quốc.
Vậy phở có nguồn gốc từ đâu?
Chúng tôi ủng hộ quan điểm cho rằng phở có nguồn gốc từ món xáo trâu rất phổ biến
ở miền bắc, đặc biệt là ở Hà Nội vào đầu thế kỷ 20. Để làm món này người ta chuẩn
bị nguyên liệu : thịt trâu thái mỏng (ướp gia vị cho thấm), hành lá, hành ta
(tím), tỏi, mỡ, rau răm cắt dài 1 đốt ngón tay, khế chua cắt ngang…Sau đó họ
xáo (xào) thịt trong chảo khoảng 30 giây rồi đổ ra bát riêng, kế tiếp bỏ khế
vào, đảo đều tới lúc khế chuyển sang màu trắng; rồi cho thịt, rau răm và hành
vào, đảo cho tới lúc tỏa mùi thơm (khoảng một phút) ; cuối cùng họ chế nước
vào, để lửa liu riu. Khi ăn, họ lấy bún cho vào bát, sau đó gắp vài miếng thịt
trâu bày trên mặt bún rồi chan nước xáo thịt vào.
Nhìn chung, xáo trâu là món ăn thông thường ở các chợ nông thôn, xóm bình dân của
Hà Nội ngày xưa. Trước năm 1884, việc nuôi bò ở miền bắc chủ yếu phục vụ cho
nông nghiệp, người Việt chưa có thói quen ăn thịt bò, nhưng ít nhiều gì người
Hà Nội cũng đã từng ăn món Ngưu nhục phấn do Hoa kiều bán rong trên đường phố.
Có nhà nghiên cứu cho rằng vào thời đó, thịt bò bị chê là nóng và gây nên chẳng
mấy người mua, giá bán rất rẻ, chỉ có người Pháp mới ăn thịt bò. Và chính vì thế
một số người bán xáo trâu mới chuyển sang bán xáo bò. Thật ra không phải vậy.
Thịt bò thời đó khan hiếm và đắt tiền. Theo nhà nghiên cứu Vũ Thế Long, trước
năm 1885 “các quan chức Tây còn không có đủ thịt bò mà ăn nói chi đến người Việt.
Ngay cả đến những năm 40-50 của thế kỉ trước, khi phở đã khá thịnh hành và
thành món ăn “gây nghiện” cho một tầng lớp người khá giả ở Hà Nội thì việc cung
cấp thịt bò ở Hà Nội cũng không phải dư giả cho lắm. Trong bài Phở Gà, Nhà văn
vũ Bằng đã phải thốt lên: “Ở Hà nội có hai ngày trong tuần mà những người
“chuyên môn ăn phở” bực mình: thứ sáu và thứ hai. Hai ngày đó là hai ngày không
có thịt bò. Anh nào nghiện thịt bò, nhớ thịt bò hai hôm ấy như gái nhớ trai,
như trai nhớ gái”…”.
Xáo trâu.
Nhìn chung, từ khi người Pháp vào nước ta, người Việt đã chịu ảnh hưởng phần
nào thói quen ăn uống của người Pháp. Dân ta đã bắt đầu ăn khoai tây, súp lơ,
su hào, cà rốt, bánh mì, bơ, phó mát…, đặc biệt là thịt bò. Những món ăn mới có
thịt bò dần dần xuất hiện, đó là cháo bò và xáo bò… Xáo bò là một món “biến tấu”
từ xáo trâu. Tuy nhiên, do thịt bò ăn với bún không hợp lắm nên người ta mới
nghĩ ra cách ăn với những loại bánh khác, trong đó có loại bánh cuốn chay mỏng
phổ biến ở Hà Nội rồi cuối cùng “sánh duyên” lâu dài với bánh phở. Phải chăng,
để phân biệt với món xáo bò, người ta đã nghĩ ra từ phở bò, xuất phát từ
việc ăn bánh phở với thịt bò ? Nếu bánh phở là từ xuất hiện trước món
phở thì ta có quyền tin vào giả thuyết này. Và nếu đúng vậy thì phở
là từ nằm trong bánh phở chứ không phải do đọc trại chữ phẳn 粉 theo
giọng Quảng Đông.
Phần viết thêm
Trong từ điển Wikipedia bản tiếng Anh, Đức, Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha… đều
có mục riêng viết về phở và gọi đích danh là “Phở”, chứ không gọi bằng tên món
ăn nào đó của Pháp hay Trung Quốc. Điều này cho thấy thế giới công nhận “phở”
là một món ăn của Việt Nam. Riêng bản Trung văn, mục viết về phở có tựa
đề là 越南粉
(Việt Nam phấn), cũng cho thấy rằng người Trung Quốc công nhận “phở” là món ăn
Việt Nam. Do đặc điểm về ngôn ngữ, trong phần nói về nguồn gốc của từ phở,
họ chú thích hình ảnh tô phở là 越 南牛肉粉 (Việt Nam ngưu nhục phấn), có thể
dịch là “phở bò Việt Nam”. Viết như thế thì chấp nhận được. Nhưng có những
website dạy tiếng Trung Quốc lại ngang nhiên giảng phở bò là Ngưu nhục
phấn 牛肉粉
thì thật đáng báo động (!).
________________
[1] Nguồn gốc và sự ra đời của phở của Vũ Thế
Long.
[2] Nguyễn Công Hoan. Nhớ và ghi về Hà Nội, NXB
Trẻ 2004.
[3] “Kỹ thuật của người An Nam” (tựa tiếng Pháp:
“Technique du peuple Annamite”, tựa tiếng Anh: “Mechanics and crafts of the Annamites”)
là một công trình nghiên cứu văn minh vật chất ở An Nam khoảng 100 năm về trước,
chủ yếu phản ánh cuộc sống của người Hà Nội. Quyển này tập hợp 4577 bức tranh
khắc, do Monsier Henri Oger (người Pháp) và những nghệ nhân người Việt Nam thực
hiện trong hai năm (1908 – 1909), phát hành với số lượng hạn chế (60 bản).
(theo Wikipedia tiếng Việt).
Vương Trung Hiếu
March 21, 2017
_______________
Sinh 1959 tại An Giang, thông thạo Anh, Pháp, Hoa và tốt nghiệp tiến sĩ môn Khoa học Lịch sử, Vương Trung Hiếu đã cho xuất bản trên 200 đầu sách thuộc các thể loại biên soạn, dịch thuật và tiểu thuyết. Nguồn gốc của Phở là một nghiên cứu công phu với phân tích chi tiết về từ gốc của món ăn này.
_______________
Sinh 1959 tại An Giang, thông thạo Anh, Pháp, Hoa và tốt nghiệp tiến sĩ môn Khoa học Lịch sử, Vương Trung Hiếu đã cho xuất bản trên 200 đầu sách thuộc các thể loại biên soạn, dịch thuật và tiểu thuyết. Nguồn gốc của Phở là một nghiên cứu công phu với phân tích chi tiết về từ gốc của món ăn này.