Chiến tranh
Việt Nam đã chấm dứt 43 năm rồi mà tài liệu viết về cuộc chiến tranh nầy vẫn
còn phong phú. Không kể các tài liệu còn nằm im trong các kho lưu trữ chưa được
khai thác, chỉ kể đến tài liệu các thể loại đang lưu hành trong các thư viện,
con số thật khổng lồ.
Tham khảo
thư mục World Cat (World Catalog) vào ngày 10/04/2018, với cụm từ Vietnam
War, độc giả có thể tìm thấy 202 070 tiêu đề (notice), với cụm từ Guerre
du Vietnam có 6 590 tiêu đề và với Chiến tranh Việt Nam có
935 tiêu đề, đó là chưa kể với những tiêu đề khác như Vietnam History,
Histoire du Vietnam, Lịch sử Việt Nam. Phải hiểu là với hơn
200 000 tiêu đề như trên được sử dụng trong hàng trăm thư viện trên thế giới
với nhiều ngôn ngữ khác nhau, khối tài liệu liên quan đến chiến tranh Việt
Nam phải có đến vài triệu. Chiến tranh VN được xem như cuộc chiến tranh tàn khốc
nhứt trong thế kỷ 20 kể về thời gian, mức độ thiệt hại tài sản và nhân mạng. Chỉ
riêng về Mỹ, chi phí khoảng 150 tỉ Mỹ kim (thời giá hôm nay gần 1000 tỉ),
12 tướng, 238 đại tá và 58 000 quân nhân tử trận, 300 000 bị thương.
Về phía VN, có 7 tướng lãnh và 12 đại tá tử trận, số thiệt hại nhân mạng và tài
sản cả hai phía thật khổng lồ.
Sở dĩ chúng
tôi đề cập đến khối lượng tài liệu và mức độ tác hại của chiến tranh VN như
trên, chúng tôi muốn nói đến nhiều thông tin chính yếu của cuộc chiến, mặc dù
đã lần lượt được giải mật, nhưng thực sự không giải tỏa hết được những tranh luận
và bất đồng. Đối với người Việt, sự mâu thuẩn trong dữ kiện và nhận định lại
còn sâu sắc hơn tùy theo vị trí bên thắng cuộc hay bên thua cuộc, và ngay cả
trong mỗi bên.
Ngoài ra, chiến
tranh VN còn trở nên quá phức tạp lúc kết thúc vì có quá nhiều cấp
thẩm quyền có mặt trong một thời gian quá ngắn để đối phó với quá
nhiều biến cố kinh thiên động địa, do đó chính trong giai đoạn nầy
lại có rất nhiều mảng đen. Để làm sáng tỏ phần nào những mảng
đen nầy, chúng tôi ghi lại những quyết định chiến lược của những giới chức thẩm
quyền trong cuộc chiến tranh nầy để từ đó thử tìm hiểu những lý do chính yếu của cuộc
bại trận của miền Nam.
Bước đầu
của cuộc kết thúc : hiệp định Paris (27/01/1973)
Hội nghị Paris bắt
đầu ngày 13-05-1968 với cuộc gặp mặt chính thức giữa Lê
Đức Thọ, Xuân Thủy và Averell Harriman, Cyrus Vance vào cuối thời Tổng Thống
Lyndon Johnson (đảng Dân Chủ) và được ký kết ngày 27-01-1973
vào đầu nhiệm kỳ thứ 2 của Tổng Thống Richard Nixon (đảng Cộng Hòa). Lúc bắt đầu
chỉ có 2 bên là Bắc Việt và Mỹ, đến ngày 25/01/1969 trở thành 4
bên có thêm VNCH và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Tuy kéo dài 4 năm với hơn 100
phiên họp, nhưng những phiên họp công khai đa số chỉ là những màn kịch diễn lại
từ các cuộc mật đàm giữa Lê Đức Thọ và Kissinger tại nhà của Jean Sainteny ở
Paris. Hội nghị thực sự kết thúc không phải tại Paris mà tại Bắc
Kinh khi Nixon gặp Mao Trạch Đông vào tháng 2-1972, sau 2 năm Kissinger bí mật
qua lại để giàn xếp cuộc gặp gỡ. Số phận của Việt Nam Cộng Hòa kể như đã được định
đoạt tại đây, Mỹ sẽ rút quân khỏi Việt Nam theo những điều kiện của cộng
sản.
Nixon - Chu Ân Lai trong buổi dạ yến với món vịt quay tại Bắc Kinh tháng
2/1972 đánh dấu ngày Mỹ quay lưng với VN (Ảnh: Internet).
Để trấn an
sự lo ngại của Tổng Thống Thiệu về cuộc gặp gỡ nầy, Nixon đã gởi thơ TT
Thiệu :
White
House ngày 31 tháng 12, 1971
Thưa Tổng
Thống,
Nhân dịp
tôi chuẩn bị cho chuyến đi Bắc Kinh sắp tới để nói chuyện với những người lãnh
đạo Trung Quốc, tôi muốn chia sẻ với Ông vài quan điểm của tôi về các cuộc
đàm đạo tại đó… Ông có thể tin tưởng tuyệt đối rằng tôi sẽ không làm một thỏa
thuận nào có phương hại tới các quốc gia khác… Xin Ông tiếp tục tin
vào sự yểm trợ của Hoa Kỳ về những nỗ lực của Ông nhằm đem lại
hòa bình cho VN và xây dựng nền thịnh vượng mới cho nhân dân VN (Nguyễn Tiến Hưng. Khi Đồng
Minh tháo chạy, bản chụp nguyên tác bức thơ, tr.79).
Nhưng trong
buổi họp với Chu Ân Lai, Nixon lại tuyên bố khác: « nếu như bất cứ người
lãnh đạo nào của Bắc Việt chấp nhận cuộc ngưng bắn và trả lại tù binh cho chúng
tôi, chúng tôi sẽ rút quân khỏi Việt Nam trong vòng 6 tháng kể từ ngày đó
». ( Richard Nixon. Memoirs, p. 568)
Kissinger lại
càng lớn lối hơn. Theo ký giả Elaine Sciolino trong bài Records
Dispute Kissinger on His‘71 Visit to China, đăng trong New York
Times ngày Feb 2, 2002, căn cứ vào tài liệu giải mật của National Security
Archive dựa vào biên bản phiên họp ngày 9 tháng 7, 1971 với Chu Ân Lai,
Kissinger đã nói : Chính phủ Nixon đã nhứt quyết rút quân ra khỏi Việt
Nam, ngay cả đơn phương dù cho điều nầy đưa đến việc lật đổ chánh phủ miền
Nam..
Khi Nixon
ra tái cử năm 1972, Nixon-Kissinger ráo riết làm áp lực để TT Thiệu ký vào hiệp
định. Một mặt, Kissinger thảo một loạt thơ cho Nixon ký (tổng cộng 27 mật thơ từ
1972 đến 1973, không kể những trao đổi giữa TT Ford và TT Thiệu sau khi Nixon từ
chức), hứa sẽ ủng hộ ông Thiệu và VNCH, một mặt dùng chánh sách đe dọa,
lúc ban đầu là dọa đảo chánh, sau đó là ám sát. Trong bức thơ Nixon gởi TT Thiệu
ngày 06 tháng 10, 1972 có đoạn chót như sau :
«…I would
urge you to take every measure to avoid the development of an atmosphere which
could lead to events similar to those which we abhorred in 1963 and which I
personnaly opposed so vehemently in 1968 » (Nguyễn Tiến Hưng, KĐMTC.
p.91)
Tôi yêu
cầu Ông phải áp dụng mọi biện pháp để tránh xảy ra một trạng huống có thể
đưa đến biến cố mà chúng tôi ghê tởm như hồi năm 1963 mà chính tôi cũng cực lực
phản đối năm 1968.
Rõ ràng là
Nixon đã nhắc lại cuộc đảo chánh và cái chết của ông Diệm năm 1963 để đe dọa
ông Thiệu. Sự đe dọa tiếp tục khi Nixon đã đắc cử mà Hiệp Định vẫn chưa ký,
Nixon cần có sự vẻ vang khi làm lễ đăng qưang, nên gởi tối hậu thơ cho TT Thiệu
trước khi nhậm chức.
White House
ngày 14/1/1973
Thưa Tổng
Thống,
«…Tôi nhất
quyết cho phê chuẩn bản Hiệp định vào ngày 20 tháng 1 và sẽ ký vào ngày
27 tháng 1, 1973 tại Paris. Tôi sẽ làm việc nầy dù phải một mình, trong
trường hợp đó, tôi sẽ công khai tố cáo chính phủ của Ông làm cản trở cho công
cuộc vãn hồi hòa bình tại VN. Kết quả không tránh khỏi là Mỹ sẽ cắt viện trợ
quân sự và kinh tế lập tức mà dù cho có sự thay đổi nhân sự cũng không thể cứu
vãn được.» (NTH, tr.101).
Nên hiểu là
trong ngôn ngữ ngoại giao, cụm từ «thay đổi nhân sự» phải hiểu là đảo chánh.
Như chưa đủ,
3 ngày sau (17/1/1973), Nixon lại gởi thêm một bức thơ, lập lại lời đe dọa
như trên cộng thêm vài lời phủ dụ:
«…Tôi xin
nhắc lại những cam kết của tôi như sau: Thứ nhất, Hoa Kỳ công nhận chính phủ của
Ông là chính phủ duy nhất hợp pháp của miền Nam VN; thứ hai, HK không
công nhận sự có mặt của một quân đội ngoại quốc trên lãnh thổ Miền Nam và thứ
ba, HK sẽ phản ứng mãnh liệt nếu Hiệp định bị vi phạm. Tôi nghĩ rằng Ông có hai
lựa chọn chính yếu: một là ông tiếp tục cản trở việc ký kết, đó là hành động có
vẻ hiên ngang nhưng thiển cận, hai là dùng bản Hiệp Định như một phương tiện để
xây dựng một căn bản mới cho cuộc bang giao giữa HK và VNCH.» (NTH.
KĐMTC, p.102-103)
Ngày 20
tháng 1, 1973, Nixon làm lễ nhậm chức nhiệm kỳ 2. Ngày 27 tháng 1, 1973,
Hiệp định Paris được ký kết, giữa 4 bên: VNCH, Mỹ, Bắc Việt và Mặt Trận GPMN.
Mỹ rút quân
(thực ra lúc đó Mỹ chỉ còn lại có 25 000 quân) và tù binh Mỹ được thả,
nhưng Nixon bội hứa cả 3 điều đã long trọng cam kết : 170 000 quân Cộng
Sản (Miền Nam và miền Bắc) được quyền ở lại miền Nam; viện trợ quân sự Mỹ vẫn bị
cắt giảm từ 2.1 tỉ USD năm 1973 còn 700 000 triệu năm 1975; và Mỹ đã
làm ngơ trước sự tấn công vũ bão của cộng sản Bắc Việt vào lãnh thổ VNCH .
Miền Nam
đã bị bức tử bởi người bạn đồng minh Mỹ và người đao phủ chính là Kissinger. Nhiều nhà chính trị và sử học đều
nhận định là miền Nam không mất hay mất một cách tàn bạo nếu không có
Kissinger. Ngạo mạn và khinh rẻ VN, Kissinger đã để lại nhiều câu nói tàn
ác để dời.
Khi Đà Nẵng
bị thất thủ ngày 30/03/1975, hàng ngàn người dân chết trên đường trốn chạy cộng
sản, ông ta tuyên bố: Sao những người nầy không chết hết cho rồi. Điều tệ hại
nhứt là chúng cứ sống dai dẳng hoài. «Why don’t these people die
fast.The worst thing that couls happen would be for them to linger on» (Ron
Nessen. It Sure Looks Different from the Inside, p.98).
Ngoài ra,
ngày 17 tháng 4, khi Đại sứ Graham Martin, một trong số ít người Mỹ có
lòng nhân đạo với nhân dân VN, cố trì hoản cuộc di tản người Mỹ để có thể di tản
càng nhiều càng tốt số người Việt, thì ông nhận được mật điện của Kissinger
ra lịnh ông phải rút chạy cho nhanh. Chẳng những Martin không
thi hành, mà khi ông nhận được lịnh di tản 50 000 người Việt, ông cho là
con số nầy ít quá nên ông diễn dịch là 50 000 gia đình, do đó sau cùng số
người di tản đến đất Mỹ là 140 000 người. (Vietnam Evacuation: Testimony
of Ambassador Graham Martin, Jan.27, 1976, p.545). Nếu nước Mỹ có những
Kissinger gian ác thì cũng có những Martin nhân ái và có nhân phẩm.
Tổng Thống
Thiệu và thế giới đâu có thể ngờ được ông Tổng Thống của một quốc gia vĩ đại nhứt
thế giới lại có thể phản bội một cách nhục nhã như vậy, và khi biết thì quá trể.
Kissinger đã không giấu diếm: Nước Mỹ không có kẻ thù mà cũng không có bạn
trường cửu, chỉ có quyền lợi mà thôi, và ông Thiệu đã cay đắng than
thở: Làm kẻ thù của Hoa Kỳ thì dễ, nhưng làm bạn với họ thật khó.
Ông Thiệu
có lý do để nói như vậy. Ông bị CIA theo dõi từng bước một, bị đặt ống nghe đến
nổi có lúc ông nói chuyện với bí thư Hoàng Đức Nhã phải viết trên giấy. Về chuyện
nghe lén trong Dinh Độc Lập, ông Trần Văn Đôn, trong nhật ký Việt
Nam nhân chứng có viết: «Trong lúc Dinh Độc Lập được sửa chữa
sau vụ ném bom năm 1962, trong mấy năm trời xây cất, Mỹ đã đặt máy vi âm để
nghe tất cả những gì xảy ra trong Dinh Độc Lập. Từ đó suy luận ra thì chắc chắn
Việt Cộng đã cho cán bộ trà trộn khi làm công việc xây cất chỉnh trang đã
lén đặt máy truyền tin cũng như người Mỹ đã làm (sđd, tr.498).
Trở lại
chuyện bạn - thù với Mỹ, khi TT Thiệu đến Đài Loan ngày 25 tháng 4, 1975, TT
Ford, người thay thế Nixon đã gởi bà Anna Chennault, người sứ giả thân tín, yêu
cầu ông đừng đến Mỹ. Mãi cho đến năm 1985, khi Reagan đắc cử, ông mới được đến
Mỹ định cư ở Boston cho đến khi mất (29/9/2001).
Chiến dịch
Tây Nguyên
Khi Hiệp Định
Paris được ký kết, lực lượng quân sự của VNCH còn mạnh hơn Bắc Việt, nhưng với
sự cắt giảm viện trợ của Mỹ trong khi Trung Cộng và Nga Sô tăng cường tiếp tế
cho cộng sản Bắc Việt, và CS Bắc Việt xâm nhập vào Nam như chỗ không người, chỉ
một năm sau, lực lượng miền Bắc đã khống chế Miền Nam. Năm 1974, các nước cộng
sản viện trợ cho Bắc Việt một số tiền tương đương với 1.7 tỉ mỹ kim (so với năm
1973 là 700 triệu), 140 000 tấn quân nhu và vào 2 năm cuối, «quân CSBV
trang bị vũ khí tối tân và mạnh hơn VNCH, với 650 xe tăng, 400 đại pháo 122 ly,
130 ly có tầm bắn xa hơn đại bác của VNCH.
Sau khi ký
Hiệp định Paris, Hà Nội huy động 30 000 nhân công cho khởi công xây xa lộ
Ðông Trường Sơn hay hành lang 613 song song với đường mòn Hồ Chí Minh ( cách xa
nhau 160 km ở đoạn xa nhứt) nhưng hoàn toàn nằm trong lãnh thổ VN, chạy từ
Đồng Hới đến Lộc Ninh. Nếu kể cả đường chiến lược (Bắc Nam) và đường chiến dịch
(Đông Tây) cũ và mới, tổng cộng đường tiếp vận từ Bắc vô Nam dài đến
20 000 km. Dọc theo Ðông Trường Sơn có hệ thống dẫn dầu từ Quảng Trị qua
Tây Nguyên vào tới Lộc Ninh dài 5 000km. Đường dây điện thoại cũng
đã kéo tới Lộc Ninh, từ Hà Nội có thể nói chuyện thẳng với nhiều chiến trường
trong Nam.
Văn Tiến Dũng trong Đại thắng mùa xuân
đã viết: « Nhà nước và nhân dân ta đã dồn sức dồn của rất lớn vào công trình
này. Hàng nghìn xe máy các loại, hàng chục nghìn bộ đội, công nhân, kỹ sư,
thanh niên xung phong và dân công vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ do khí hậu,
thời tiết và bom đạn địch gây ra, ngày đêm phá núi san đèo, chuyển đá đắp đường,
xây cống, dựng cầu, tạo ra một kỳ công rất tự hào ở phía Tây Tổ quốc. Đúng là
"Đường ta rộng thênh thang tám thước", các xe vận tải cỡ lớn, các xe
chiến đấu loại nặng chạy được hai chiều với tốc độ cao cả bốn mùa, đã ngày đêm
hăm hở chuyển hàng trăm nghìn tấn vật chất các loại vào hệ thống kho tàng cho
các chiến trường để bảo đảm đánh lớn.» (ĐTMX, chương 1, tr.25)
Đúng như
Văn Tiến Dũng nói « đường ta thênh thang» vì phi cơ thám thính của
VNCH thấy rõ sự di chuyển của đoàn quân xâm lược Bắc Việt nhưng Hoa Kỳ ngăn cản không cho không quân VNCH
đánh phá, vả chăng VNCH cũng không có dủ phi cơ để làm việc nầy sau khi
Mỹ rút quân. Một số giới chức
quân sự cho rằng viện trợ của Nga, Trung Cộng cho miền Bắc giai đoạn sau Hiệp Định
Paris gia tăng gấp 3-4 lần so với thời gian trước, nhưng sự thực không hẳn như
vậy vì CS đã dốc toàn lực quân nhân và khí giới của cả miền Bắc vào chiến trường
miền Nam qua những xa lộ thênh thang nầy. Chỉ trong 4 tháng đầu năm 1975
« đoàn vận tải Trường Sơn vận chuyển vào Nam Bộ 11 vạn 5 nghìn quân và 9
vạn tấn hàng (trong đó có 37.000 tấn vũ khí, 9.000 tấn xăng dầu). Riêng trong
những ngày "chuẩn bị nước rút" từ ngày 5 đến 26-4, vừa khai thác vừa
vận chuyển, ta đã đưa vào chiến trường 10.100 tấn đạn, 2.300 tấn lương thực, thực
phẩm, thuốc chữa bệnh, 2.600 tấn xăng dầu. Nhiều trạm sửa chữa ôtô, sửa chữa
pháo và tăng được bố trí dọc đường, phục vụ cơ động của chiến dịch.»
Ngoài Trường
Sơn Đông và Trường Sơn Tây, Trung Cộng còn dùng hải cảng Sihanoukville của
Cambot (bây giờ là Kompong Som) để nhận hàng tiếp tế cho quân Bắc Việt, rồi từ
đó dùng xe chở về các mật khu của Việt Cộng ở biên giới Việt- Miên. Cho đến năm
1969, con đường tiếp tế nầy còn quan trọng hơn hơn Đường mòn HCM. Tương tự như
với Cambot, Lào cũng cho phép Bắc Việt chuyển vận người và vật qua đường mòn Hồ
Chí Minh, và tuy VNCH có phối hợp với Bộ Tư Lịnh Mỷ ở VN đánh vùng Mỏ Vẹt
và Hạ Lào để triệt hạ các căn cứ của CS, nhưng chuyện như bắt cóc bỏ dĩa vì sau
một vài trận thư hùng, các mật khu CS vẩn tiếp tục phát triển. Ngoài ra, Mỹ
cũng giới hạn sự can thiệp vì bị kết án tấn công vào quốc gia trung lập. Thì
ra, VNCH bị 3 xứ xung quanh vây đánh trong khi đồng minh của VNCH là Mỹ
tìm cách rút lui.
Đường mòn HCM (Trường Sơn Tây) và Hành Lang 613(Trường Sơn Đông). Nguồn:
Nguyễn Đức Phương.
Sau khi chuẩn
bị kỹ hậu cần, từ mùa hè 1974, Bộ Chính trị, Quân Ủy Trung Ương và các cấp chỉ
huy chiến trường miền Nam đã có nhiều phiên hop tại Hà Nội để thảo luận về
kế hoạch hành động.
Trong quyển
Tổng Hành Dinh trong mùa Xuân Toàn Thắng, Võ Nguyên Giáp
viết: Đầu tháng 12, các anh Phạm Hùng (Bí Thư Trung ương Cục Miền Nam )
Trần Văn Trà (thượng tướng, Tư Lịnh Miền B2 gồm Nam Bộ và Nam Trung Bộ),
Phan Văn Đáng (Nam Bộ), Võ Chí Công, Chu Huy Mân (Khu 5) đã có mặt
ở Hà Nội. Tôi và Bộ Tổng Tham mưu đã gặp và làm việc với các anh, tranh thủ
thêm ý kiến của chiến trường về hướng tiến công chiến lược, về mục tiêu tiến
công. Các anh cũng đã tiếp xúc, trao đổi ý kiến với một số đồng chí trong Bộ
Chính trị, chuẩn bị cho cuộc họp quan trọng sắp tới. Về kế hoạch chiến lược hai
năm 1975-1976, mọi người đều cơ bản nhất trí. Về hướng chiến trường chính, đã
có hai ý kiến: một là chọn Tây Nguyên, hai là chọn miền Đông Nam Bộ. Tây
Nguyên chỉ đánh Đức Lập để mở đường vào Đông Nam Bộ. Về mục tiêu tiến công, đã
có một cuộc tranh luận sôi nổi giữa Bộ Tổng Tham mưu với đoàn cán bộ B2 xung
quanh kế hoạch tác chiến mở đầu mùa khô 1974-1975 của Bộ Tư lệnh Miền. Các đồng
chí ở B2 với thực tiễn và kinh nghiệm chiến đấu, nắm tình hình địch tại chỗ, chủ
trương trước hết đánh Đồng Xoài, chi khu quận lỵ và là vị trí then chốt của tỉnh
Phước Long. Tiếp đó tiến đánh Phước Long, giành một chiến thắng mở đầu vang dội.
Các đồng chí Bộ Tổng Tham mưu, trước tình hình ta rất thiếu đạn, nhất là đạn
súng lớn, chủ trương đánh Bù Đăng, Bù Na là những vị trí quan trọng hơn ở phía
bắc Đồng Xoài để có thêm đạn pháo chiến lợi phẩm đánh Đồng Xoài. Cuối cùng mọi
người thống nhất ý kiến về kế hoạch tiến công và mục tiêu tiến công là Bù Đăng,
Bù Na, Đồng Xoài và cả Phước Long, mặc dù lúc đầu Bộ Tổng Tham mưu không đặt ra
nhiệm vụ đánh mục tiêu này. Các đồng chí trong Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương
và Bộ Tổng tư lệnh cũng chấp nhận kế hoạch và mục tiêu tiến công như vậy. Kế hoạch
mùa khô của B2 vì thế cũng không bị đảo lộn… Thực tiễn chiến trường
đã chứng tỏ ý kiến của các anh ở B2 là đúng (sđd,
tr.91,92, 104).
Các anh ở
B2 là Phạm Hùng và Tướng Trần Văn Trà. Trong quyển hồi ký Kết thúc cuộc
chiến tranh 30 năm, Trần Văn Trà kể thành tích và các trận đánh,
có đoạn chỉ trích và mỉa mai Quân Ủy Trung Ương, đặc biệt hai tướng Văn Tiến
Dũng và Lê Ngọc Hiền mà Trà gọi là «lính nhà vua». Theo Trà, chính ông ta và Phạm
Hùng đã gặp anh Ba (Lê Duẫn) đề nghị đánh Phước Long trong khi Quân Ủy do dự,
và đánh Ban Mê Thuột thay vì Đức Lập, Kontum hay Pleiku . Hãy đọc một đoạn
văn ngắn của Trà : «Điện do tôi tự viết và ký tên nhờ Bộ Tổng Tham Mưu chuyển.
Nhưng chiều hôm đó trong lúc tôi đang ngồi trước bản đồ, nghiên cứu cách bố trí
của địch trong tỉnh Phước Long thỉ đồng chí Lê Ngọc Hiền (Tham Mưu Phó) đến. Đồng
chí đưa ra bức thơ tôi viết và nói chưa gởi đi vì trong điện tôi đã cho phép sử
dụng xe tăng và pháo lớn, điều mà các anh trên đã dặn là không được sử dụng. Bực
mình, tôi nói với đồng chí Hiền rằng tôi là tư lịnh chiến trường, không lẽ tôi
không có quyền điện chỉ huy các lực lượng của tôi sao? Không lẽ điện của tôi bị
kiểm duyệt bắt buộc sửa đổi ngoài ý muốn của tôi. Việc sử dụng võ khí lớn
tôi đã xin phép rồi, tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm. Yêu cầu đồng chí cho điện
ngay và đồng chí sẽ chịu trách nhiệm nếu điện của tôi bị trể, lỡ thởi cơ
(sđd, tr.177-178). Bàn về đề nghị đánh Ban Mê Thuot, Trà viết: «Tôi ví đánh
Ban Mê Thuot như đốn một cây gỗ lớn từ gốc, toàn bộ tàn lá và thân cây phải đổ.
Đánh như vậy mới là đòn hiểm về chiến lược, đảm báo chắc thắng và thắng to. Tôi
trao đổi việc nầy với anh Hùng và anh Hai Văn (Võ Nguyên Giáp). Các anh
đều nhất trí bỏ Đức Lập mà đánh ngay vào Ban Me Thuột. (sđd tr.183).
Trong 3 quyển
hồi ký của Giáp, Dũng, Trà, ai cũng giành ý kiến đánh Ban Mê Thuột là của mình.
Tuy là Cộng Sản và có công lớn trong chiến thắng quyết định, nhưng Phạm Hùng và
Trần Văn Trà bị trù dập bởi là người gốc miền Nam, không vây cánh và trực
tính. Quyển hồi ký của Trà bị cấm lưu hành. Trong số các tư lịnh chiến
trường miền Nam còn có Sáu Dân (Võ Văn Kiệt) được cử làm Chủ Tịch Hội Đồng Quân
Quản Thành Phố Hồ Chí Minh khi cộng Sản miền Bắc ngơ ngáo vào Saigon rồi làm Thủ
tướng một thời gian ngắn để cứu đói và đặt nền tảng cho chánh sách mở cửa,
nhưng chẳng bao lâu bị phe răng đen mã tấu Nguyễn Văn Linh hạ bệ, có tin nói là
chết vì bị đầu độc.
Chiến thắng
Phước Long đã đưa cộng sản đến một quyết định chiến lược tối hậu: Bộ Chính
trị hạ quyết tâm: Động viên nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân
ở cả hai miền trong thời gian 1975-1976, đẩy mạnh đấu tranh quân sự và đấu
tranh chính trị, kết hơp với đấu tranh ngoại giao, xách động quần chúng, tiến
hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa… Ngoài kế hoạch chiến lược 1975-1976, Bộ
Chính trị còn dự kiến: Nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức
giải phóng miền Nam trong năm 1975. (Tổng Hành Dinh trong mùa Xuân Toàn Thắng,
tr. 108).
Để thực hiện
cuộc Tổng công kích và Tổng khởi nghĩa, Bộ Chính Trị đã cử Văn Tiến Dũng
vào Tây Nguyên làm Quân Ủy Chiến dịch 275 với bí danh là Tuấn để
đánh chiếm Tây Nguyên. Tư Lịnh chiến trường là Trung Tướng Hoàng Minh Thảo
điều khiển 4 sư đoàn 310, 316, F10 và 3 sao vàng với hàng trăm chiến xa
T-54, đại bác 130 ly, hỏa tiển 120 ly. Với kế nghi binh giả vờ đánh
Pleiku, Kontum để nhử quân VNCH đến giải tỏa, quân cộng sản cắt các đường dẫn đến
Ban Mê Thuột rồi tấn công bằng biển người, đại pháo và xe tăng vào thị xã
Ban Mê Thuột ngày 10/03/1975. Đạo quân trấn đóng của VNCH chỉ có 1 trung đoàn
phải chiến đấu với quân cộng sản gấp 20 lần, lại thêm không may không quân VNCH
oanh tạc lầm vào Bộ chỉ huy của Trung đoàn, mọi liên lạc với Quân Đoàn 2 bị cắt
đứt, đạo quân tiếp viện bị chận đánh, Ban Mê Thuột thất thủ vào ngày 14 tháng
3. Ngoài yếu tố lực lượng giữa phía phía CS và VNCH quá chênh lệch, nhiều nhận
định của các giới chức Mỹ-Việt, được lập lại bởi báo chí cho là việc mất Ban Mê
Thuột là do lỗi của tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn II đã không nghe theo
tin tức của quân báo, mắc lừa kế nghi binh của cộng sản, tướng Phú không có khả
năng lãnh đạo, thuộc cấp không phục tùng, không am tường địa thế vì mới được bổ
nhiệm 3 tháng thì vùng cao nguyên dậy khói lửa. Tuy nhiên, một số cộng sự viên
của ông thì lại có những nhận định khác, rằng ông là nạn nhân của một trạng huống
vượt quá khả năng quyết định vì sự bất nhất, bất minh của thượng cấp. Lịch sử
nhiều khi có những oan khiên, do đó nếu thực sự tướng Phú có tội với tổ quốc
thì sự tuẫn tiết của ông cũng là một hình thức chuộc tội. Viết tới đây, tôi chợt
nghĩ:
History is
an account mostly false, Of events, mostly unimportant,Which are brought about
by rulers, mostly knaves, And soldiers, mostly fools. (Ambrose Bierce).
Lịch sử là sự kể lại mà hầu hết là sai lầm, Những biến cố hầu hết là
chẳng có gì quan trọng, tạo nên bởi những kẻ cầm quyền mà hầu hết là xảo
quyệt, và bởi những quân nhân mà hầu hết là những kẻ dại khờ.(BTR)
Kết thúc
cuộc chiến
·
Cuộc họp ngày 11 tháng 3 ở Dinh Độc Lập
Một ngày
sau khi cộng sản tấn công Ban Mê Thuột (11/03/1975), TT Thiệu họp với 3 tướng
lãnh chủ chốt của chế độ là Trung Tướng Đặng Văn Quang, Cố vấn An ninh, Thủ Tướng
Trần Thiện Khiêm, Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng. Sau khi duyệt
xét tình hình, ông có quyết định: «Với khả năng và lực lượng chúng ta đang
có, chắc chắn chúng ta không bảo vệ được tất cả lãnh thổ. Như vậy, chúng ta nên
tái phối trí lực lượng và bảo vệ những nơi đông dân, trù phú vì những vùng
đất đó mới thực sự quan trọng» (Trần Đông Phong.VNCH, 10 ngày cuối cùng,
tr.116). Quan điểm nầy cũng trùng hợp với ý kiến của tướng Westmoreland, cựu Tổng
Tư Lịnh quân Mỹ ở VN chuyển qua ông Trần Kim Phượng, đại sứ VN tại Mỹ 2 ngày
sau đó: « VNCH nên vừa rút quân đúng cách, vừa gây cho địch càng nhiều thiệt
hại càng tốt, rồi tiến lần về vùng quan trọng là Nam Kỳ (Cochinchina) gồm
Saigon và Đồng Bằng Sông Cửu Long, nơi có thể cầm cự được rồi tìm thêm tiếp liệu,
và hi vọng cuộc khủng hoảng nầy sẽ làm cho Hoa Kỳ bắt đầu viện trợ lại »
(William Westmoreland.A Soldier Reports, p.400).
Phải chăng
quyết định tái phối trí là một ý tưởng đã nhen nhúm từ lâu bởi lẽ từ đầu năm
1974, tướng John Murray, đại diện cơ quan Quốc phòng Mỹ DAO ở Saigon đã báo động
cho Bộ Tổng Tham Mưu VN phải tiết kiệm đồ tiếp liệu, nhứt là đạn dược bởi sự cắt
giảm viện trợ Mỹ, đồng thời ông cũng cung cấp một ước lượng vùng lãnh thổ VN có
thể bảo vệ được tương ứng với số tiền viện trợ.
-
Nếu tiền viện trợ là 1.4 tỉ MK: có thể bảo vệ được cả 4 vùng chiến thuật
-
Nếu tiền viện trợ là 1.1 tỉ MK: không thể giữ được Vùng I
-
Nếu tiền viện trợ là 900 triệu MK: không thể giữ được Vùng I và II
-
Nếu tiền viện trợ là 750 trìệu MK: chỉ giữ được một số vùng đông dân
-
Nếu tiền viện trợ là 600 triệu MK: chỉ giữ được Saigon và Miền Tây.
Ngân sách
năm 1975 chỉ còn 300 triệu sau khi bị khấu trừ một số thâm hụt trước đó và trả
chi phí cho cơ quan DAO. Sau nầy, Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng khi gặp ông Thiệu ở
Luân Đôn được biết thêm kế hoạch rút quân về Miền Tây của ông Thiệu như sau:
« Sau khi rút khỏi Đà Nẳng, quân chủ lực chỉ còn vỏn vẹn 63 000 người. Phải
bỏ Saigon, nhưng tôi sẽ để một sư đoàn ở lại trấn giữ (để chận đường) rồi rút hết
về miền Tây. Khi nào qua được Bến Lức thì sẽ phá cầu đi, và đây là tuyến cuối
cùng. Sau đó không quân và hải quân sẽ cứu sư đoàn còn lại ở Saigon, được bao
nhiêu hay bấy nhiêu » (NTH.Tâm tư TT Thiệu, tr. 120). Kế hoạch nầy giống ý của
kế hoạch Westmoreland kể trên và phải chăng không thực hiện được vì những biến
cố dồn dập khiến ông Thiệu và nhiều ông tướng khác đã di tản trước khi Dương
Văn Minh đầu hàng. Nếu kế hoạch được thực hiện, chắc chắn sau đó không có
hàng triệu người phải đi kinh tế mới và bị đi tù cải tạo, và VNCH vẫn còn có sở
pháp lý trên trường quốc tế.
·
Cuộc họp ngày 14 tháng 3 tại Cam Ranh
Ba ngày sau
cuộc họp tại Dinh Độc Lập, ngày14-3, một cuộc hop mật khác tại Cam Ranh cũng gồm
4 vị trong cuộc họp ngày 11 /03 thêm tướng Phú. Những quyết định của
phiên hợp lịch sử nầy đã đưa đến những hỗn loạn dây chuyền làm tan rả quân đội
Việt Nam Cộng Hòa 55 ngày sau đó mà hậu quả là xóa tên chế độ VNCH.
Frank
Snepp, phụ tá của Thomas Polgar, Giám Đốc CIA tại VN, trong quyển Decent
Interval xuất bản năm 1977, kể lại một số chi tiết của phiên họp mật nầy nhờ
Đặng Văn Quang, vì « cơ quan tình báo CIA đã trả lương và nâng đỡ ông Quang
trong bao nhiêu năm và đã bảo đảm giúp cho ông ta có một địa vị (Cố vấn về An
Ninh) bên cạnh ông Thiệu» (sđd, p.495). Thì ra, bên cạnh ông Thiệu có nhiều
gián điệp chiến lược cộng sản (Vũ Ngọc Nhạ, Huỳnh Văn Trọng…) và cả một hệ thống
điệp viên Mỹ.
Về Trung Tướng
Quang, ông Lữ Giang, trong bài tựa là Trở lại trận Ban Mê Thuột
đăng trên trang mạng Nguyệt San VN ngày 16/03/2015 có đoạn viết như sau
: «…Tình trạng của vị Tư Lệnh Quân Đoàn 2 cũng bi thảm không kém. Trung Tá
Trần Tích, Trưởng Phòng Quản Trị của Quân Đoàn 2 cho biết, sau khi rút khỏi Cao
Nguyên và chạy về tới Nha Trang, Tướng Phú còn hỏi ông: “Anh xem có ai
muốn đi làm tỉnh trưởng không?” Trung Tá Tích ngạc nhiên hỏi lại: “Giờ
này mà Thiếu Tướng còn tìm tỉnh trưởng làm gì nữa?” Tướng Phú buồn rầu
trả lời: “Tháng này chưa có 2 triệu đóng cho Trung Tướng”! Nếu
sự thật nhơ nhớp như vậy thì hóa ra ông điệp viên số 1 của Mỹ trong Dinh
Độc Lập cũng là ông tướng tham nhũng số 1 của VNCH thì chuyện VNCH mất vào tay
cộng sản là chuyện không lạ .
Theo Nguyễn
Đức Phương, tham nhũng dưới chế độ Thiệu, căn cứ vào Viện Nghiên Cứu Quốc Tế
Rand xảy ra dưới 4 hình thức: buôn lậu, hối lộ, mua quan bán tước và lính kiễng,
lính ma. Tham nhũng là một trong những nguyên nhân xóa tên chế độ VNCH.
Trở lại với
hội nghị Cam Ranh, theo Frank Snepp thì Thiếu Tướng Phú trả lời với TT Thiệu là
có thể bảo vệ được cao nguyên trong vòng một tháng nếu được tăng viên
quân số, vũ khí và không quân, điều mà TT Thiệu từ chối vì không còn trừ bị.
Giải pháp duy nhứt là bỏ hai tỉnh Pleiku và Kontum và dùng những lực lượng nầy
để tăng cường vùng duyên hải và yểm trợ cho cuộc phản công tái chiếm Ban Mê Thuột.
Về việc triệt thoái, Tướng Phú phân vân về hai con đường Quốc Lộ 19 từ Pleiku
đi Qui Nhơn và Quốc Lộ 14 đi từ Ban Mê Thuột về vùng III, vì hai con đường nầy
đã bị cộng sản kiểm soát từng đoạn nên sau cùng Tướng Phú nghiêng theo phân
tích của tướng Cao văn Viên là chọn đường Liên Tỉnh 7B là con đường nhỏ, bỏ
hoang từ lâu để đi về Tuy Hòa. Nhưng cuộc triệt thoái là một cuộc thảm hại
tàn khốc vì không kế hoạch, bị công sản rượt theo tấn công, cầu Ea Pha
bắc qua sông Ba chưa hoàn tất, không quân thả bom lầm ngay vào đoàn quân đi đầu
làm thiệt hại một tiểu đoàn…Hậu quả là trong số 200 000 dân di tản chỉ có
60 000 về đến Tuy Hòa, 75% lực lượng của Quân Đoàn II bị tiêu diệt
chỉ trong 10 ngày.(Trần Đông Phong, sđd, tr.119). Chính cuộc triệt thoái
thất bại nầy làm bại hoại quân lực và niềm tin của quân dân với chế độ, làm sụp
đổ chế độ nhanh không thể ngờ
·
Triệt thoái Vùng I, Vùng Duyên hải phía Nam
Trong khi
Văn Tiến Dũng tấn công Ban Mê Thuột thì Quân Khu I do tướng Ngô Quang Trưởng chỉ
huy tương đối còn yên ổn vì được bảo vệ kiên cố bởi 5 sư đoàn. Sau khi chiếm được
Ban Mê Thuột, Võ Nguyên Giáp gởi điện văn cho Quân Khu Ủy B4 (Trị -Thiên) ra lịnh
đẩy mạnh tấn công để chia cắt Huế và Đà Nẳng.
Ngày 19/03,
Quảng Trị rơi vào tay CS khiến Huế bị đe dọa. Ngày 20/03, lúc 13 g30 TT Thiệu
tuyên bố trên đài phát thanh là Quân Đoàn 1 sẽ cố thủ Huế bằng mọi giá sau khi
họp với Tướng Trưởng ở Dinh Độc Lập, nhưng đến chiều cùng ngày, khi Tướng Trưởng
về tới Đà Nẳng thì nhận được mật điện khẩn số 2238 của TT Thiệu gởi qua Bộ Tổng
Tham Mưu ra lịnh cho Tướng Trưởng «nếu tình hình bắt buộc chỉ giữ Đà Nẳng mà
thôi» và cho rút Sư đoàn Dù về Saigon ngay. Tướng Trưởng đã trả lời : «Tham chiếu
công điện số 2248 của Đại tướng, tôi e ngại không thi hành nổi lệnh nầy. Xin Đại
Tướng tìm người thay thế tôi». Ngày hôm sau, Tướng Viên gởi công điện cho Tướng
Trưởng : « Tình hình hết sức khẩn trương, Trung tướng liệu mà làm».
Khi mà ông
Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng ra lịnh cho ông Tư Lịnh Chiến trường «liệu mà
làm» thì xem như quân đội đó đã tan rả. Dân chúng nhốn nháo «chạy giặc» khắp
nơi từ trên đất liền tới biển, và chỉ trong 25 ngày, từ ngày 19 tháng 3 đến 16
tháng 4, 1975, ba quân khu lần lượt lọt vào tay cộng sản mà họ không cần phải đổ
nhiều xương máu, tướng Nguyễn Vĩnh Nghi bị địch bắt, tướng Ngô Quang Trưởng và
Hồ Văn Kỳ Thoại phải vất vả lắm mới thoát được chạy về Saigon.
Nguyễn Đức Phương. Chiến tranh VN toàn tập.
·
Chiến dịch Hồ Chí Minh (09/04 đến 30/04)
Ngày
06/04/1975, Lê Duẩn (anh Ba) cử Văn Tiến Dũng làm Tư Lịnh Mặt Trận Saigon, Phạm
Hùng làm Chính Ủy, Trần Văn Trà làm Phó Tư Lịnh thứ nhứt kiêm Tham mưu trưởng,
Sáu Nam tức Lê Đức Anh làm Phó Tư Lịnh và Lê Ngọc Hiền làm Tham mưu phó. Bộ tư
lịnh đặt ở Lộc Ninh. Hôm sau, Lê Đức Thọ (Anh Sáu), nhân vật số 2 của chế độ,
từ Hà Nội đến mặt trân để chỉ huy toàn bộ Chiến dịch 275 đổi
tên ngày 14/04 thành Chiến dịch Hồ Chí Minh, mang theo văn thư của Chủ Tịch Tôn
Đức Thắng gởi «Các đồng chí phải chiến thắng, nếu không thì đừng có trở về».
Ngày 9 tháng tư, cộng sản
bắt đầu Chiến dịch Hồ Chí Minh bằng cách huy động 3 sư đoàn 6,7 và 321 tấn công
thị xã Xuân Lộc. Trung đoàn 48 thuộc Sư đoàn 18 BB của tướng Lê Minh Đảo
đã anh dũng chống trả, mặc dù CS pháo kích đến 10 ngàn đại pháo trong một ngày
(theo Snepp thì 1000, có lẽ hợp lý hơn), đã đẩy lui được quân CS, và đây là lần
đầu tiên sau 3 tháng chiến thắng trên nhiều mặt trận, chiếm được 14 tỉnh, quân
CS bị chận bước tiến. Tướng Trần Văn Trà, trong hồi ký Kết thúc cuộc chiến
30 năm, đã nhìn nhận là ba sư đoàn của Hoàng Cầm bị thiệt hại rất nhiều, Tướng
Trà phải tăng viện quân trừ bị của sư đoàn 6 và 7 rồi tấn công Dầu Dây trên Quốc
Lộ số 1.
- Tối
ngày 21 tháng tư, lúc 19g30, TT Thiệu nói chuyện với quốc dân qua đài truyền
hình, trước các đại diện hành pháp, lập pháp, tư pháp. Ông kết tội người Mỹ đã
phản bội VN, ông gằn mạnh từng tiếng và lập lại: « các ông bỏ mặc cho binh sĩ
chúng tôi dưới cơn mưa pháo của Cộng Sản, đó là hành động vô nhân đạo của một đồng
minh vô nhân đạo…» và ông kết luận « Tôi sẵn sàng nhận lãnh sự phán xét và buộc
tội của đồng bào… Tôi từ chức nhưng không đào ngũ. Theo hiến pháp, người thay
thế tôi là Phó TT Trần Văn Hương».
Nguyễn Tiến Hưng, trong «Khi Đồng minh tháo chạy» (tr.389) thì
cho ông Thiệu từ chức vì các tướng lãnh không còn ủng hộ. Nguyễn khắc Ngữ
thì có nhận định tiêu cực hơn « trong bài diễn văn từ chức nầy, ông đã hiện
nguyên hình một tay sai của Hoa Kỳ, bị chủ đuổi lên tiếng chửi lại bằng những lời
bình dân nhất không thể thấy được trong ngôn ngữ của một vị lãnh đạo quốc gia»
(Ngữ, tr. 343).
Hoàng
ngọc Thành cũng
có nhận định tương tự về ông Thiệu «là người thừa hành đắc lực nhất của Hoa Kỳ
trong chiến tranh VN» (Thành tr. 559) là «người hèn nhát, tại sao không chịu
công bố trong năm 1974 và đầu năm 1975 các bức thư hứa hẹn trả đũa Bắc Việt của
Tổng Thống Richard Nixon nếu Cộng Sản Hà Nội vi phạm hiệp định Ba lê, tại sao
không công bố sớm để Quốc hội và dân chúng Hoa Kỳ biết những điều cam kết nầy để
đánh vào điểm danh dự và lương tâm người Mỹ. Làm như thế có lợi cho dân tộc VN,
nhưng Nguyễn Văn Thiệu sợ bất lợi cho ông nên không làm » (Thành, tr.566).
Trong khi ông Thiệu đọc diễn văn từ chức, các đơn vị cuối cùng của sư đoàn 18 của
tướng Lê Minh Đảo rút ra khỏi Xuân Lộc, và vài giờ sau, bộ chỉ huy Quân Đoàn 3
của tướng Nguyễn Văn Toàn phải di tản về Saigon. Biên Hòa và Vũng Tàu bị đe dọa
nặng. Chỉ 2 giờ sau lễ bàn giao giữa ông Thiệu và ông Hương, đài phát thanh Giải
phóng và Hà nội đồng loạt tuyên bố: «Đó cũng chỉ là một chế độ bù nhìn, chánh
phủ Thiệu không có Thiệu » (Todd, p.316).
Trong khi đó, một biến
cố quân sự quan trọng xảy ra sát nách Saigon. Lê Duẩn đánh điện cho Lê Đức
Thọ và Văn Tiến Dũng đang đặt bản doanh ở Lộc Ninh yêu cầu gia tăng các cuộc
tấn công càng mạnh càng mau trên khắp các mặt trận. Mọi chậm trể có thể đưa đến
những hậu quả quân sự và chính trị trầm trọng. Theo Olivier Todd thì Lê Duẩn sợ
rằng nếu chiến trường kéo dài thì áp lực chính trị quốc tế có thể can thiệp để
chia cắt đất đai như hồi 1954 trước hội nghị Genève. Tuân hành chỉ thị này, Văn
Tiến Dũng ra lịnh cho tất cả các lực lượng từ chiến khu C, chiến khu D, Khu Tam
giác Sắt ở miền Đông, và các lực lượng ở vùng đồng bằng Cửu Long và Cà Mau chuẩn
bị tổng tấn công vào Saigon và các tỉnh. Để phân công, bộ phận chính trị do Lê
đức Thọ và Phạm Hùng đóng ở Lộc Ninh, còn tướng Trần văn Trà và Văn tiến Dũng lập
bộ tham mưu mặt trận ở Bến Cát, sát nách Saigon.
-Ngày 25
tháng 4, lúc 20g30,
ông Thiệu, Khiêm và hơn 10 người khác rời Saigon. Đại sứ Martin đợi sẵn ở phi
cơ để tiễn đưa. "Dù buồn thảm và cam chịu số phận, ông Thiệu đi thủng thẳng,
cố giữ phong độ. Ông quay lại cám ơn ông Martin. Với giọng xúc động, Martin đáp
lễ: Thưa Tổng thống, đó là điều tối thiểu tôi có thể làm. Xin tạm biệt và
chúc Ngài may mắn (Nguyễn tiến Hưng, tr. 392 và Todd tr.339). Phi cơ trực chỉ
Đài Loan.
-Ngày 30
tháng tư
*2giờ 30 sáng, tại tòa đại sứ Mỹ còn 1000 người Việt, 53 nhân viên dân sự và
173 thủy quân lục
chiến,
trong khi ở phi trường TSN còn độ 2000 chờ hi vọng vượt thoát.
* 4 giờ 42: chiếc trực thăng mang
tên Lady Ace 9 đáp xuống nóc. Viên phi công trình lệnh của Tổng Thống: Martin
phải lên phi cơ. Nếu Martin không tuân lệnh, viên phi công còn có một lệnh khác
của Gayler, tư lịnh Mỹ vùng Thái Bình Dương là áp giải Martin.
* 7 giờ 53: chiếc trực thăng cuối cùng
chở những binh sĩ cuối cùng (thực ra còn 2 xác thủy quân lục chiến ở Tân Sơn Nhứt),
yểm trợ bằng 6 trực thăng võ trang Cobra rời tòa đại sứ. Họ ném hơi cay trên đầu
420 người Việt còn đứng chờ bàng hoàng, ngơ ngác. Lá cờ Mỹ đã cuốn đi mang theo
nỗi thất vọng, cay đắng, oán hờn, sung sướng, của người Việt bắt đầu một trang
sử mới.
* 8 giờ sáng, tại dinh Phủ Thủ Tướng, ông Dương Văn Minh họp cùng các nhân vật
quan trọng của nội các mới như Nguyễn Văn Huyền, Vũ Văn Mẫu để trình bày tình
hình quân sự và chính trị đã đến hồi tuyệt vọng, cuộc thương thuyết với chánh
phủ Mặt Trận Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam và Hà Nội, qua trung gian của Pháp kể
như không có trong khi thành phố Saigon đã hỗn loạn cực kỳ. «Nhiều toán quân sĩ
VNCH lang thang trong thành phố, họ vứt bỏ vũ khí, quân phục. Bọn cướp bóc tràn
ngập trong thành phố, súng bắn loạn xạ» (Todd, p.390).
* 9g30: sau phiên họp, nội các Dương
Văn Minh đến dinh Độc Lập dự định theo chương trình để bàn giao với Nguyễn Văn
Hảo, Phó Thủ tướng trong nội các Nguyễn Bá Cẩn, nhưng cuộc bàn giao không xảy
ra mà họ chờ quân giải phóng đến.
* 11g30: «tiếng chân người vang dội
trong đại sảnh, có cả tiếng khua vũ khí và tiếng đạn lên nòng. Rồi tiếng hô từ
phía đại sảnh: Mọi người đi ra khỏi phòng… Người bước ra khỏi phòng trước tiên
là tổng thống DVM… Có tiếng hô to: Mọi người giơ hai tay lên. Ông Minh, ông Mẫu
và tôi cùng mọi người đi sau đều nhất loạt giơ tay…Một người bộ đội cấp chỉ huy
nói với ông Minh: Anh hãy viết một bản tuyên bố đầu hàng. Ông Minh trả lời rằng
sáng nay ông đã có một tuyên bố trao quyền rồi. Viên chỉ huy nói: Anh chẳng có
gì để trao. Anh chỉ có thể tuyên bố đầu hàng… Ông Minh vẫn đứng yên lặng. Viên
chỉ huy yêu cầu ông Minh đi đến đài phát thanh để thảo và đọc bản tuyên bố đầu
hàng…Trước khi rời dinh Độc Lập đến đài phát thanh, ông Minh nói với vị chỉ huy
bộ đội: Vợ tôi vẫn ở đây. Xin các anh bảo đảm an ninh giùm. Viên chỉ
huy đáp: Anh hãy yên tâm…Ông Minh và ông Mẫu được đưa đến đài phát
thanh Saigon trên chiếc xe Jeep của bộ đội…Bản tuyên bố đầu hàng do chính trị
viên Bùi Văn Tùng thảo. Ông Minh đọc và đài phát lúc 13 giờ (Lý Quý Chung. Hồi
ký không tên, tr. 407-08)
Pierre
Darcourt kể lại với nhiều chi tiết sống sượng hơn:
« Đúng 12 giờ 10 phút, ba chiếc xe tăng T54 cán dẹp những hàng rào cản sơn màu
trắng đỏ bao quanh dinh Độc Lập. Họ bắn chỉ thiên một tràng dài, ủi sập cánh cổng
lớn, cán lên trên rồi tiến thẳng vào dinh Độc Lập, cày bừa lên các bãi cỏ trong
sân. Hai chiếc xe Jeep và một chiếc xe vận tải chạy đến, qua mặt các chiến xa.
Tất cả mang cờ của Mặt Trận Giải Phóng Miên Nam…
Vị sĩ quan
cao cấp được 4,5 lính CS hộ tống ập vô đại sảnh, nơi mà tướng Dương Văn Minh
đang hội họp với các người thân cận của ông ta. Thấy vị sĩ quan đeo đầy sao
vàng trên cầu vai nền đỏ, Tướng Minh tưởng rằng mình đứng trước một sĩ quan cao
cấp nên nói:
– Thưa quan sáu (nguyên văn: mon général ong sau), tôi đã chờ ông từ sáng để
trao quyền cho ông.
– Mầy (nguyên tác: tu, có thể dịch là anh, nhưng mày có
lẽ đúng hơn trong hoàn cảnh nầy) dám nói là trao quyền à. Mầy chỉ là một kẻ
cướp quyền và một tên bù nhìn. Mầy chẳng có quyền nào để trao cho tao cả. Chúng
tao đạt được quyền bằng khẩu súng trong tay. Tao nói cho mày rõ là tao không phải
là tướng mà chỉ là một trung tá ủy viên chính trị. Và kể từ bây giờ, tao cấm mầy
không được ngồi xuống. Gương mặt tướng Minh co rúm lại. Giọng nói hung
bạo và khinh miệt của người sĩ quan khiến ông Minh hiểu rõ là ông đang đứng trước
mặt một sĩ quan miền Bắc (nguyên tác: Tonkinois) chớ không phải là người Mặt Trận
miền Nam. Tướng Minh cố giữ bình tĩnh và nhẹ nhàng nói:
– Chúng
tôi đã có làm sẵn một bữa cơm để tiếp các ông. Có yến, súp măng cua.
Viên trung
tá xẳng giọng
– Tụi
bây đang ở trong tình trạng bị bắt. Hãy giữ thức ăn tư sản cho tụi bây. Chúng
tao sẽ cho tụi bây ăn cơm dã chiến, một nắm cơm vắt và một hộp thịt mặn.
Tất cả các
tổng trưởng hiện diện đều bị khám xét và bị bắt giam trong một phòng. Dinh Độc
Lập bị tràn ngập bởi phóng viên báo chí» (Darcourt, p.209).
* Lúc 16 giờ 30, tướng Minh được rời khỏi phòng giam lỏng ở tầng dưới
dinh Độc Lập. Một phóng viên của nhật báo Quân đội giài phóng hỏi
ông:
– Ông
nghĩ sao về những biến cố mà ông vừa trải qua?
Ông Minh ngập
ngừng giây lát rồi trả lời với ngôn ngữ tuyên truyền mà CS thường sử dụng:
– «Chúng tôi đã nhận thức được sức mạnh của Chánh phủ cách mạng
lâm thời và của quân đội giải phóng. Các đơn vị thiết giáp của quân giải phóng
thực hùng mạnh, quân đội Saigon không thể nào đương cự được, chỉ còn có việc đầu
hàng không điều kiện mà thôi…Các ông đã đạt được chiến thắng một cách nhanh
chóng, chúng tôi vô cùng sung sướng. Chúng tôi và gia đình chúng tôi bình yên,
thật là may mắn » (Darcourt, tr. 213).
Và sau đó, các nhân vật trong nội các cuối cùng của VNCH lưu xú với những câu
nói bất hủ.
-Ông
Vũ văn Mẫu thì hớn hở, nhảy nhót: «Các anh đánh hay lắm. Tôi rất sung
sướng đã đuổi được người Mỹ ra đi. Bây giờ thì chúng ta với chúng ta mà thôi.
Sau khi nhắc lại quê ông ở quận Thường Tín, phía Nam Hà Nội và chuyện
ông cạo đầu phản đối ông Diệm, ông nói: Kể từ hôm nay thì tôi sẽ để tóc
lại được rồi»
-Ông Nguyễn Văn Hảo đưa tay lên và nói lớn: «Các anh thật đáng phục vì
đã đánh bại được nước Mỹ, chúng tôi hi vọng là tài nguyên của đất nước sẽ được
sử dụng để xây dựng đất nước chúng ta». (Darcourt, tr.213).
Nếu Cộng
Sản Miền Bắc và Miền Nam là những kẻ thù của VNCH thì những người làm chính trị
vọng tưởng, u mê, cơ hội chủ nghĩa, tranh đấu hay núp bóng dưới nhãn hiệu hòa
giải hoà hợp, thành phần thứ ba, tất cả cũng là những kẻ thù của dân tộc bởi lẽ
họ đã vô tình hay cố ý đánh phá phe quốc gia, góp công cho chiến thắng của cộng
sản mặc dù cộng sản vẫn xem họ là kẻ thù. Trong khi các chánh khách ba mươi và thứ ba tranh nhau nịnh bợ chánh quyền
mới, trên khắp các nẻo đường đất nước, quân nhân các cấp phẩn uất, nhiều tướng
tá tử tiết thay vì đầu hàng. Chỉ cần đan kể một vài anh hùng liệt sĩ: tướng
Phạm Văn Phú (tự tử bằng độc dược ngày 29, chết tại nhà thương Grall ngày
30), Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng (tại quân đoàn 4 Cần Thơ), Lê
Nguyên Vỹ (tại quân đoàn 3, Lai Khê), Trần văn Hai (tại căn cứ Đồng
Tâm, Mỹtho), Đại tá Đặng Sĩ Vinh (tại Saigon) tự tử cả gia đình gồm vợ
và 7 người con bằng súng lục. Nhưng đó chưa phải là những phát súng cuối
cùng vì sau đó, nhiều quân nhân vô danh cũng tự sát để bảo toàn danh dự của người
chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa.
Kết luận
Hôm nay, đọc
lại những tài liệu cũ về những ngày cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa, chúng tôi
không giữ được nỗi bàng hoàng nhớ lại nỗi kinh hoàng của những ngày quốc biến
43 năm trước. Chẳng phải là sử gia cũng không phải là chính trị gia, đa số người
Việt ngoài nước lẫn trong nước đều cảm nhận nỗi bất hạnh của quê hương mình và
dân tộc mình đã từ hơn một thế kỷ qua, luôn là mảnh đất để các cường quốc ngoại
bang và các tập đoàn người Việt, nhân danh những khẩu hiệu giả ân giả nghĩa, đã
thay phiên nhau xâu xé, thống trị và bóc lột một dân tộc không ngớt gánh chịu
điêu linh.
Bài viết không mục đích định công buộc tội bởi đó là lãnh vực
của lịch sử, tuy khi từ chức ngày 21 tháng 4 năm 1975, Tổng Thống Thiệu đã nói
trước đồng bào là khi tôi ra đi, tôi xin đồng bào, chiến sĩ cán bộ, tất cả
các đoàn thể nhân viên tôn giáo, hãy thứ lỗi cho tôi những lỗi lầm gì đã có với
quốc dân trong suốt 10 năm qua; và khi gặp Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng ở Luân
Đôn đề cập đến cuộc thua trận, ông nói : Je suis responsable mais pas
coupable - Tôi chịu trách nhiệm nhưng tôi không có tội (Tâm tư TT Thiệu,
tr. 61).
Tuy nhiên, nhìn qua các biến cố, đa số người bình luận có nhận
định là VNCH rơi vào tay cộng sản vì 3 lý do chính yếu :
-Thứ nhứt: Muốn rút quân, Mỹ đã phản bội VNCH bẳng cách nhượng
bộ CSBV nhiểu điều nhục nhã và giảm bớt viện trợ quá nhiều và quá nhanh. Hậu quả
là VNCH không có đủ thời gian và phương tiện cần thiết để tổ chức lại một quân
đội và một chiến thuật quân sự tự lập, khả dĩ chống đỡ lại sức tấn công vũ bão
của đạo quân Bắc Việt hùng mạnh hơn gấp nhiều lần, nhất là lúc CS tổng tấn công
Ban Mê Thuột, VNCH đã can kiệt súng đạn và nhiên liệu mà theo tướng Cao Văn
Viên chỉ còn đủ sử dụng đến
tháng 6/1975;
-Thứ hai: Những
người cầm vận mạng quốc gia của Đệ nhị cộng hòa, một số tướng lãnh, bị
xem là thiếu khả năng lãnh đạo và dũng khí, tham nhũng và phe nhóm, đã làm suy
giảm nhiệt quyết của giới sĩ quan trung cấp mặc dù quân sĩ vẫn can trường trên
các chiến trận;
- Và sau
cùng, sự suy giảm uy tín của chánh phủ TT Thiệu đã dấy lên những cuộc biểu tình
chống đối của những phần tử đối lập chân chính và thời cơ, những thành phần
thứ ba thật và giả, những thành phần thân cộng và cộng sản trà trộn trong các
đoàn thể sử dụng chiến lược tổng nổi dậy của cộng sản làm hậu phương rối loạn
khiến cộng sản thắng nhanh hơn.
Nhưng nghĩ
cho cùng, khi con người đã quá khổ đau, con người chỉ còn biết bám víu vào định
mệnh. Nếu nước VN có một định mệnh thì định mệnh đã bắt VN phải gánh chịu quá
nhiều bất hạnh từ 1945 đến nay mà cái bất hạnh lớn nhứt, nguy hại nhứt, là VN
đã bị Hồ Chí Minh áp đặt chế độ cộng sản trên miền Bắc năm 1954, gây nên chiến
tranh nồi da xáo thịt, rồi thống nhứt chế độ độc tài cộng sản trên toàn cỏi Việt
Nam năm 1975.
Sau 43 năm
miền Nam rơi vào tay Cộng Sản, đất nước càng thêm tang thương, lạc hậu nhất
vùng Á Châu Thái Bình Dương, xã hôi băng hoại đạo đức, bị thế giới khinh rẻ
vì cấp lãnh đạo, từ trên xuống dưới dều là bọn ngu đần, tham nhũng, độc tài
và lưu manh.
Hãy nhìn cuộc
viếng thăm chính thức nước Pháp gần đây, từ ngày 25 đến 27 tháng 3, 2018 của Tổng
Bí Thư Nguyễn Phú Trọng. Trọng lơ láo bước xuống phi trường nội địa Orly
với đám Việt kiều yêu nước và các nhân viên sứ quán VN tại Pháp, không kèn trống
dàn chào, chỉ có một nữ nhân viên Sở Nghi Lễ đến bắt tay. Lần đầu tiên trong lịch
sử bang giao quốc tế, nước Pháp dành cho nhân vật số 1 của VN cái «danh dự» nhục
nhã nầy. Trong suốt 3 ngày, Trọng chỉ có vài buổi thăm viếng xã giao với Chủ tịch
Quốc Hội, không dạ tiệc khoãn đãi (nhưng có ăn trưa với Tổng Thống Macron)
không thông cáo chung. Truyền thông Pháp lặng im về cuộc thăm viếng nên đảng ta
phải viết bài tự đánh bóng và trả hơn 150 000 000 euros để đăng nguyên
trang trong phần quảng cáo của báo Le Monde. Nhục ơi là nhục.
Chưa hết,
tuần lễ trước đó (17/03), Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, khi tham dự Hội Nghị
Asean-Australia ở Sydney ngồi ngủ gục thoải mái trong đủ các tư thế được báo
chí chụp ảnh «triển lãm» khắp thế giới. Năm 2005, khi Thủ tướng Phan Văn Khải công
du ở Mỹ tổ chức họp báo ở Seattle bị dân VN chất vấn không trả lời được bèn ra
lịnh cho đám cận vệ «ĐM đuổi tụi nó ra ngoài» rồi chấm dứt cuộc họp báo.
Nguyễn Đức Phương. Chiến tranh VN toàn tập.
Làm nhục quốc
thể vì cung cách nhà quê, thất học, ăn nói lật lọng kiểu đá cá lăn dưa là sở
trường của các đảng viên lớn nhỏ của bác. Vài câu phát ngôn điển hình:
Đỗ Mười, thợ thiến heo, khi thắng cuộc làm
Tổng Bí Thư đã phun ra câu nói của bọn côn đồ du đảng (xem hình và lời nói
trên), Vũ Minh Giang, giáo sư Đại học Quốc Gia Hà Nội thuộc
loài súc sanh: «Đào mồ tổ tiên tôi thì được, nhưng giật đổ tượng Lê-Nin là thiếu văn hoá; Phạm Gia Yên, Chánh Thanh
Tra : Dự án chục tỉ, sai phạm 1 tỉ là tốt rồi; Bùi Xuân Cương, Giám
Đốc Sở Giao Thông: Kẹt xe kéo dài ở TPHCM chỉ là ùn ứ vì xe vẫn có thể nhúc
nhích được »…
Một quốc
gia bị cai trị bởi một tập thể vô học, vô đạo đức như vậy thì làm sao khá được
? VN đang bị khai thác bởi Tàu Cộng và nhiều quốc gia tư bản. Các nhà đất của
người dân bị tịch thu để xây phố thị với nợ công chồng chất mà người dân phải
trả không biết bao đời mới hết, tất cả chỉ để cho 20 % thị dân thụ hưởng gồm
các đảng viên lớn nhỏ bu quanh bởi các đại gia thỏa hiệp với tham nhũng, trong
khi 80% người dân nghèo khổ, xã hội chỗ nào cũng thấy chuyện kỳ dị không giống
ai.
Nhưng chế độ
độc tài nào cũng có ngày phải tàn rụi. Nào có ai ngờ Liên Sô phút chốc bị tan rả,
Gaddafi cầm quyền sắt máu xứ Lybia trong 42 năm đột nhiên bị dân Lybia xuống
đường giết phanh thây bỏ trên đường phố. Với VN, tuy bị đàn áp, cầm tù, nhưng
những cuộc biểu tình của người dân bất mãn với chế độ, những cuộc gặp gỡ giữa
các linh mục với giáo dân công khai vạch trần tội ác và sự hèn hạ của chế độ
trước Trung Quốc là những đớm lửa cháy ngầm sẽ làm bùng nổ nồi thuốc súng căm hờn
đốt rụi đảng cộng sản một ngày không xa.
Người Việt
ngoài nước, hơn lúc nào hết, cần góp lửa vào cuộc tranh đấu của đồng bào trong
nước, đưa tin vượt thoát bức tường bưng bít, tố cáo với thế giới các tội ác vi
phạm nhân quyền, và điều tối quan trọng, không gởi tiền dưới mọi hình thức,
không du lịch VN để kẻ thù không có ngoại tệ củng cố chế độ. Đối với những người
đang hợp tác hay dự định hợp tác với chế độ, có lẽ đến lúc phải đặt lại vấn đề
vì công sức bỏ ra vô bổ mà trước hay sau cũng sẽ bị dính bùn nhơ.
Để kết thúc, chúng tôi xin mượn lời của Uwe Siemon-Netto,
người ký giả gốc Đức đã có mặt trên khắp các chiến trường Việt Nam từ 1965 đến
1972, đã chứng kiến những cảnh tượng cộng sản tàn sát tập thể dân Huế và các
giáo sư người Đức đến giảng dạy thiện nguyện cho Đại học Y khoa Huế. Ông vìết :
« Chiến thắng của cộng sản dựa vào những căn bản độc ác, khủng bố, tàn sát
và phản bội. Hiển nhiên, tôi không biện minh cho chuyện tiếp tục đổ máu nhằm điều
chỉnh lại hậu quả tàn khốc đó, cho dù có khả thi đi chăng nữa. Là một người ngưỡng
mộ tính kiên cường của dân tộc VN, tôi tin là cuối cùng họ sẽ tìm ra phương
cách ôn hòa và các lãnh tụ chân chính để họ có thể thoát khỏi những tay bạo
chúa. Có thể sẽ phải mất nhiều thế hệ, nhưng điều đó sẽ xảy ra »
(Duc : A Reporter’s Love for A Wounded People / bản dịch của Lý Văn Quý).
|
Vâng, điều đó sẽ xảy ra, chế độ cộng sản sẽ phải chấm dứt, nước Việt Nam sẽ được xây dựng lại từ đầu, trên căn bản đạo lý của dân tôc VN và triết lý của nền giáo dục VNCH : dân tộc, nhân bản, khai phóng và khoa học.
______________________
Thư mục
tham khảo chính yếu
-
Lê Duẩn . Thư vào Nam.
-
Trần Văn Trà. Kết thúc cuộc chiến 30 năm.
-
Văn Tiến Dũng. Đại thắng mùa Xuân.
-
Võ Nguyên Giáp. Tổng hành dinh trong mùa Xuân toàn thắng.
-
Lưu Văn Lợi. Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ-Kissinger tại Paris.
-
Lý Quý Chung. Hồi ký không tên.
-
Nguyễn Đức Phương. Chiến tranh Việt Nam toàn tập. -Toronto : Làng Văn,
2000
-
Nguyễn Tiến Hưng. Khi Đồng minh tháo chạy. - San José: Hứa Chấn Minh, 2005.
-
Nguyễn Tiến Hưng. Tâm tư Tổng Thống Thiệu. - San José: Hứa Chấn Minh, 2010 .
-
Trần Đông Phong. Việt Nam Cộng Hòa: 10 ngày cuối cùng. - California: Nam Việt,
2006.
-
Nguyễn Khắc Ngữ. Những ngày cuối cùng của VNCH.- Montreal : Tủ sách Nghiên cứu
Sử Địa, 1979.
-
Nguyễn Kỳ Phong. Vũng lầy của Bạch Ốc : Người Mỹ và chiến tranh Việt Nam
1945-1975.-Virginia : Tiếng Quê Hương, 2006.
-
Darcourt, Pierre. Viêtnam, qu’as-tu fait de tes fils. -Paris : Albatros,
1975.
-
Nixon, Richard. The Memoirs of Richard Nixon.- New York: Grosset and
Dunlap, 1978.
-
Todd, Olivier. La chute de Saigon : Cruel Avril. - Paris : Robert
Laffont, 2005
-
Snepp, Frank. Sauve qui peut.- Paris : Éditions Balland, 1977. (Dịch từ :
Decent Interval).
-
Uwe Siemon-Netto. Duc : A Reporter’s Love for A Wounded People / Bản dịch
của Lý Văn Quý. Vinh quang của sự phi lý.
-
Westmoreland, William C. A Soldier Reports. - Garden City: NY Doubleday, 1976.
Lâm Văn Bé
Vendredi treize /04/2018
(Quốc hận năm thứ 43)