Là học trò lớn lên ở miền Nam,
tôi nghĩ chắc các bạn biết đến đoạn văn ngắn của Thanh Tịnh: “Hằng năm cứ vào
cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc,
lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường…”
Thanh
Tịnh sinh năm 1911 tại xóm Gia Lạc ven sông Hương, học tiểu học ở trường Đông
Ba, trung học ở trường Pellerin, Huế. 1945 chủ nhiệm tạp chí Văn Nghệ Quân Đội.
1957 tham gia thành lập Hội Nhà Văn VN. Trước khi nghỉ hưu mang quân hàm Đại tá
QĐND. Mất năm 1988 tại Hà Nội nhưng mộ phần lại đặt tại núi Thiên Thai, phía
tây thành phố Huế.
Sở dĩ ghi lại vắn tắc những cột mốc trong tiểu sử của Thanh Tịnh bởi tôi đồ
chừng tác giả truyện ngắn “Tôi đi học” (viết năm 1941) nổi tiếng kia đã gắn bó
với Huế, không ít thì nhiều. Huế, nơi sản sinh ra những đứa con lưu lạc, từng
cảm thán và từng được lắm kẻ đồng tình: Là nơi đi để mà nhớ chứ không phải ở để
mà thương.
Chạy giặc đầu năm 1975, vô tới
Sài Gòn, tưởng êm, hoá ra giọt dầu loang bắt lửa, nuốt chửng toàn bộ. Tuy chẳng
bị phỏng tới lột da tôi cũng dấu che tơi tả lộn lui Huế để hoang mang ghi danh
học tiếp và 1976 tôi chính thức được đối diện với Thanh Tịnh do ông Trần Hoàn,
tác giả bản nhạc “Sơn nữ ca” đang giữ chức trưởng ty Thông tin tỉnh Bình Trị
Thiên dàn xếp một buổi tâm tình với sinh viên con em nguỵ quân nguỵ quyền ở
Huế. Có lẽ vì là nhạc sĩ nên Trần Hoàn đã chọn địa điểm là trường Quốc gia Âm
nhạc làm buổi “giao lưu”, đốc thúc bọn học Mỹ thuật láng giềng xếp hàng tề
chỉnh xé rào qua tham dự. Thời điểm đó nếu bạn đi xem chiếu bóng mà bỏ về nửa
chừng ắt bạn sẽ đối mặt với một kết thúc không có hậu. Nhưng tình ngay diễn giả
là Thanh Tịnh thì nghe thế, anh em chúng tôi thực bụng cũng hồ hởi phấn khởi
lắm. Trần Hoàn thì quê quán ở Hải Lăng ngoài Quảng Trị, không kể tới; nhưng
Thanh Tịnh rõ là Huế mềnh, lắng nghe xem giọng nói “chàng” đã hao mòn phai nhạt
nước sông Hương bao phân sau tháng ngày dài đầu tắt mặt tối phía bên kia vĩ
tuyến 17 trời mãi bàng bạc những đám mây trì nặng trôi trên bầu trời hẹp bất kể
xuân hạ thu đông.
Có những khuôn mặt nổi tiếng
trong giới văn nghệ sĩ mà khi lỡ mang cảm tình với họ, bạn chớ nên gặp mặt.
Hình bóng tốt đẹp nằm trong tâm tưởng bạn chóng sụp đổ ở phút “vô duyên đối
diện bất tương phùng”. Trước mặt tôi là một ông Thanh Tịnh dáng dấp thường
thường bậc trung, hơi đen đúa hơi cốt cách nông dân, hơi ngần ngại… thứ tác
phong chẳng phải người ở phía thắng cuộc. Kể chuyện nhạt nhẽo, ấp a ấp úng. Ông
luôn ngó trước trông sau và chừng như sự thành thật của phút tâm tình đã không
cách gì thể hiện được. Thanh Tịnh áo rộng thênh bỏ ngoài quần dài ngang mắt cá,
mang dép Bình Trị Thiên và như tất cả các cán bộ khác, ngôn ngữ của họ đều
khoác một thứ “đồng phục” y trang nhau. Cuối bài nói chuyện về “đời sống văn
hoá cao ở ngoài ta” là phần hội thảo, giải đáp thắc mắc. Tôi đã rất muốn dong
tay: Thưa bác, rứa thì ngoài nớ trong giờ dạy văn họ có mang một đoạn trong bài
“Tôi đi học” ra giảng cho học trò như ở miền Nam không? Lại muốn thực lòng ngợi
ca đó là một áng văn đẹp khó mờ phai trong lòng mấy em học trò mãi hồn nhiên
chẳng biết chuyện đấu tranh giai cấp với xung phong diệt thù. Nghĩ bụng là thế
nhưng cứ ngồi im re đầu óc trì nặng chứa lắm mây vân cẩu. Chuyện không có gì để
ầm ĩ. Phật nói mọi khổ đau đều do miệng lưỡi phát sinh ra. Tôi cúi đầu, xin
chay tịnh vá mồm để tránh phong ba.
Kể lại chuyện xưa chẳng mang hậu
ý gì, ngoài gợi nhớ đoản văn kia dễ làm đầu cầu cho một hình ảnh thấy sang bắt
quàng làm họ: Hằng năm cứ vào tháng Tư, đầu mùa xuân mà lá ngoài đường rụng
nhiều và lòng tôi lại nhức nhối những kỷ niệm hoang mang của đứa phải bỏ trốn
quê hương. Huế là nơi đi để nhớ mà ở thì chẳng rõ có êm không… Tháng Tư, ôm đồm
mà nói vậy chứ thực chất một đứa xứ Huế bị “lá rụng” từ hồi tháng Ba lận. Đám
mây bàng bạc cứ dồn cục trên đầu đến cả tháng trời mới chịu tan đàn sẩy nghé
bao phù vân. Ngày tựu trường mẹ nắm lấy tay tôi dắt đi học, hình ảnh an lành đó
biết tìm đâu thấy khi cả mẹ lẫn con đã bỏ của chạy lấy người, hoang mang nhìn
mưa-rơi-trên-mầu-cờ-đỏ.
Trước 75, trong 12 ống của hộp
màu nước, dành cho chủ đề của từng bài vẽ dường như chúng tôi biết cách dung
hoà chúng. Nhưng khi “quê hương thống nhất”, màu đỏ trở thành khan hiếm do bởi
chúng phục vụ cho tất cả mọi đề tài, đặc biệt là tranh cổ động. Đỏ: màu phát quang
rất mạnh, đứng xa cũng thấy. Quan trọng hơn, đỏ là màu cách mạng, màu chiến
thắng, đạp đổ các thứ. Hoạ sĩ Cuba, hoạ sĩ Bắc Hàn, hoạ sĩ Trung Quốc và hoạ sĩ
đàn em Việt Nam thảy đều mê mệt màu đỏ. Hỏi một ông đang ngồi ngáp vặt: Sao
không chịu lao động? Mặt nhăn nhó khổ sở: Chẳng có màu đỏ, lấy gì vẽ?
Hằng năm cứ vào tháng Tư, lá
ngoài đường rụng nhiều và lòng tôi lại hoang mang thắt ruột khi nhớ về những
tháng ngày chịu sống ngộp thở trong sắc màu đỏ. Để mong nguôi ngoai ít nhiều,
có đứa “nhân thân xấu” đã kể chuyện tiếu lâm: Một ông Tây ba-lô băng qua đường
khi đèn xanh vừa bật sáng. Hậu quả dính thương tật tới 75%. Bác sĩ ở bệnh viện
giải thích: Khổ quá, bác đến từ hành tinh nào thế? Đèn xanh tại sao không chịu
đứng lại đợi đèn đỏ? Màu đỏ là màu chiến thắng, nhắc bác hãy xông pha tiến lên
bất chấp nguy nan, nhớ? Tây ba-lô hoá ra cũng chán thằng lạc hậu, nhỉ! May mà
chưa bị gọi là thái tử, nôm na: chết không toàn thây.
Có đứa rảnh rỗi sinh nông nỗi
làm tài khôn: Đố chúng mày vì sao thành hôn, vu quy, song hỷ nói chung là đám
cưới người ta đều trang hoàng toàn sắc đỏ? Vì họ coi trọng giọt máu trinh tiết
của cô dâu chảy ra ở đêm động phòng. Đơn giản vậy mà nghĩ không ra. Cái đứa mau
miệng ấy, nghe đâu bị rụng răng vì bị ba thằng bặm trợn vây đánh hội đồng trong
đồn công an. Người bạn tôi thuật chuyện khi tại ngoại sau bảy đêm (khoái lạc)
ăn nằm sau chấn song. Bạn tôi vào tù vì bạn láu táu không chịu tính bề dài của
bức tường làm khi viết sơn khẩu hiệu bị thiếu mất một chữ “ta” nằm cuối câu:
Bác Hồ vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp của chúng.
Bảy ngày trong lao hắn ngộ
chuyện: Tiếng nước ta thật quá nguy hiểm, thiếu hoặc thừa, có dấu hoặc mất dấu
sắc huyền hỏi ngã nặng, chữ đang hiền lành bỗng trở nên hung ác ngay. Con dao
hai lưỡi mày ạ, người ta chưa gắp lửa bỏ tay thì mày đã bị lưỡi thép cứa đứt
rồi. Để minh hoạ thêm dưới câu nói hắn kể là ông anh hắn giờ này vẫn chưa học
tập cải tạo xong, trước đây ông ta có viết văn. Mà văn ông ấy cũng mềm như hàng
năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều…
Lá rụng? Chữ này tuồng như bà
con với qua đời, với nghỉ chơi, với khuất núi, với chu du miền cực lạc? Ai sao
chẳng biết, chứ riêng tôi nghĩ trước năm 1975 mặc dù đang lâm vào cảnh chiến
tranh nhưng đón nghe tin người chết không nhiều như giờ đây. Ngoài thân bằng quyến
thuộc đến anh em bạn bè cứ người này phủi chân xong đến người khác leo lên ngồi
trên bàn thờ. Có phải hệ luỵ đến từ cơn buồn đau mất nước? Mỗi năm đến tháng Tư
lá ngoài đường rụng nhiều và người tôi quen biết lần lượt vác mạng qua đèo đi
vào chốn cát bụi.
Tháng Tư, do vậy trăm người cười
thì có vạn người khóc. Đau thương bao giờ cũng vượt mặt, đụng trần so với nụ
cười. Chuyện diễn ra hằng ngày kiểu như đọc thấy ở mục tìm bạn câu khẩu quyết:
Buồn nhiều hơn vui, ai đồng cảnh ngộ xin thư về… Qua ngày đoạn tháng còn vậy
huống hồ là niềm đau nhức của tháng Tư, vốn vô bờ, vốn còn mới bao vết đoạn
trường cũ. Tháng này, trên các diễn đàn văn chương đọc thấy bao thơ văn của
“những người đồng cảnh ngộ”. Đọc lấy và xin hãy nhìn thấy mình còn may hơn
những phần số bất hạnh chẳng thể bày tỏ khác.
Lời Phật: Bốn chín năm truyền
đạo, ta không nói câu nào.
Khổng Tử ngôn: Dư dục vô ngôn.
Thiên hà ngôn tai. Không muốn thuyết giảng (bởi ngay cả) Trời có nói gì đâu.
Nhưng hằng năm cứ vào tháng Tư,
đành vượt khuôn phép để gửi chút “tâm tư” theo chiếc lá rụng ngoài đường. Mây
bay chốn này muôn năm bàng bạc và lòng tôi bất chợt hoang mang tuổi nghỉ hưu.
Không thanh, chẳng tịnh.
Hồ Đình Nghiêm