Thân tặng họa sĩ Phạm Cung cùng những mảnh
trời đă không còn nữa
Cứ mỗi lần nhớ lại khoảng đời lính biệt động ở Pleiku, anh lại nhớ cái ngày
Luân chết. Một mảnh đạn pháo xé bung ổ bụng của nó, một đống ruột đổ tràn ra
bên ngoài. Sau mấy tiếng đồng hồ ngồi tựa lưng vào vách chờ đợi y tá, một chiếc
xe cứu thương chở đến một bệnh viện dã chiến nào đó, tiếng súng vẫn nổ rền như
đêm giao thừa. Mơ hồ nhận ra là sẽ chẳng có ma nào đến cứu mình lúc này, đôi mắt
nó đã lấy lại được bình tĩnh. Không còn dấu vết của cả tuyệt vọng lẫn hy vọng,
nhìn bâng quơ những làn khói thuốc, Luân nói:
- Chắc tao chết quá. Nhớ lại những ngày ở
trần gian nghĩ cũng vui.
Luân sống dạn dĩ, liều lĩnh, đủ để hưởng một
đôi niềm vui nào đó. Tảng sáng hôm sau, Luân chết thanh thản, bình yên sau khi
hút hết hơn một bao thuốc lá. Khuôn mặt hơi xanh, tựa như đang ngủ, như thể cái
chết thực chất chỉ là một giấc ngủ dài sau khi sự sống đã bị bóc ra khỏi thân
xác.
Dưới chân tường chỗ Luân chết có một vài giấc
mộng cháy nám đen. Chúng cũng lìa đời cùng lúc với cái chết của Luân. Năm đó nó
mới hăm mốt tuổi. Nó mang theo cái gì vào cõi chết? Anh không rõ. Có thể chỉ là
những làn khói thuốc hút suốt đêm đó. Lẫn vào những làn khói thuốc tan bay là kỷ
niệm với những người thân trong gia đ́ình đang sống đâu đó trong một căn nhà dưới
những tán lá dừa ở Long Xuyên mà nó thường nhắc tới mỗi khi có dịp.
Nhắc đến những làn khói thuốc, anh bỗng nhớ
đến Ái. Ái vẫn hay nằm trên gường thổi những vòng khói thuốc hình chữ O, rồi
kiên nhẫn nhìn nó tan dần, biến mất. Anh nhớ đến Ái vì nàng là người đàn bà đầu
tiên biến anh thành đàn ông. Đàn ông theo cái nghĩa là đã nếm trải qua mùi vị
đàn bà. Ái cũng là mối tình đầu của anh.
Một buổi trưa im vắng, anh đang nằm im đọc
cuốn sách gì đó của H. Hesse thì một mảnh giấy nhỏ được vo tròn từ giường bên
kia ném vào người anh. Anh mở ra. Trên tờ giấy chỉ có ghi một dòng chữ ngắn ngủi:
“Qua đây yêu em đi anh”.
Đó là một mùa hè mà nắng về đầy trên những
tàng cây vú sữa. Trưa nào anh cũng đứng trên cái bao lơn đó nhìn bướm cùng những
quả vú sữa tròn lúc lỉu. Những buổi trưa nắng buồn thiu. Năm đó anh hăm mốt, Ái
mới mười chín tuổi. Bom đạn đã lùa nàng ra khỏi một làng quê nào đó với lũ học
trò, trôi dạt đến đây.
Anh nhớ mãi những đàn bò thức sáng đêm
trong thành phố vì lạ chỗ. Ái sống với anh gần nửa năm trời trên căn gác nhỏ
đó. Sống qua ngày, như một trò chơi mất đường chân trời. Nàng quanh quẩn bên
anh như một mảng nắng nhỏ quanh quẩn bên một con chó con. Cả anh lẫn nàng đều nếm
trải hương vị của mối tình đầu như những kẻ từng trải. Không hề có một ly kem,
một chiều dạo phố, một tối xem phim. Quanh đi quẩn lại chỉ có những cuộc chăn gối
mỏi mòn, chán ngắt.
Đã không biết bao nhiêu buổi trưa nắng, sau
những lần yêu nhau, anh mơ hồ thấy một chuyến xe ngựa rã rời chở đời mình đi đến
một chốn mơ hồ tựa nắng. Nó cũng vô định như mấy chục năm sau, hồi tưởng lại mối
tình đầu. Dưới cái đáy giếng khô, anh chỉ có thể vớt lên những buổi trưa của
mùa hè năm đó với một cô gái vừa ngây thơ vừa từng trải, không khác gì một con
bướm non với đôi cánh rách nát tả tơi đậu trên những vòng dây kẽm gai khét mùi
bom đạn.
Có một lần nào đó, nàng nói: “Em muốn sống
hết một lần để rồi sau đó có thể tan ra như một ngọn pháo hoa”. Hình như bom đạn
đã dạy dỗ nàng điều này. Tựa một lời nhắc nhở kín đáo rằng nó có thể mang nàng
hoặc anh đi bất cứ lúc nào nó muốn.
Đêm đêm nàng ngủ cạnh anh như một đứa trẻ
nhỏ. Đôi má bầu bĩnh, thơ ngây đó chỉ khiến anh lún sâu thêm nữa vào những nỗi
buồn. Anh thường xuyên cảm thấy những buổi trưa nắng về trên khu vườn nhỏ có chứa
đấy những nỗi chia xa.
Sẽ có những mùa hạ trở lại khu vườn này. Nắng
cùng bướm sẽ trở lại như chúng từng đã có mặt nơi đây từ những mùa nắng cũ. Lúc
đó anh với Ái đã đi xa. Căn phòng này rồi sẽ vắng im. Chỉ có nắng trên những
tàng lá là có thể nhớ được một thời mà giờ đây giông gió đã thổi dạt xuống một
phương trời nào mịt mùng gió cát.
Bom đạn đã lùa nàng đến với anh như lùa những
con bò rời khỏi những cánh đồng cỏ rộng, và rồi nó cũng lùa nàng đi mất hút vào
lửa đạn, như đi vào một điện thờ để luyện thêm lần nữa cái khảm kha của cuộc tồn
sinh dạo đó. Anh cũng không lạ lùng gì với ba thứ này, bởi anh cũng đã nếm trải
ngay khi còn là một đứa trẻ.
Năm bốn tuổi, anh thường xuyên được đi tàu
hỏa về miền xuôi để tắm suối. Cha anh là người lái tàu. Hai năm sau ông bị bắt
đi tù. Nghe nói ông làm chính trị hay hoạt động cách mạng gì đó. Ba tháng sau
khi ông bị bắt, anh đi theo mẹ để mang cho ông một cái mền. Đến nơi, anh nhìn
ngôi nhà bằng đôi mắt rụt rè, sợ hãi của một đứa trẻ. Đó là một ngôi biệt thự
màu trắng có những ô cửa sổ sơn xanh, đóng kín. Anh với mẹ đã đi quanh ngôi biệt
thự mấy vòng. Ngôi nhà vắng im, không có lấy một bóng người. Cuối cùng phải ôm
cái mền về vì không có ai nhận. Mấy chục năm sau, mỗi lúc có dịp đi ngang qua
ngôi nhà này, anh vẫn thấy có một đứa bé sáu tuổi, tay ôm cái mền đứng bơ vơ giữa
khoảng sân rộng không có lấy một bóng người. Một ngôi nhà với những cánh cửa sổ
đều đóng kín.
Đã không biết bao lần, anh muốn quên hình ảnh
này đi. Nó tựa một vết chàm và anh cứ bị ám ảnh mãi, cho dù cha anh đã mất từ
lâu. Sự ra đi đủ để biến tất cả mọi quyền lực trở thành khói, kể cả cái quyền lực
một thời đã từng giam nhốt ông. Dù vậy, anh vẫn buồn. Cho dù anh cố tin rằng
lòng dạ con người không như những cánh cửa đóng im lìm kia. Và rồi chưa bao giờ
anh vượt qua được niềm tin này.
Hình như ở trên mặt đất này, ngày nào cũng
thế, cũng có hàng ngàn đứa trẻ nhỏ đứng ôm một cái mền hay một cái gì đó cho
cha của chúng. Nơi nào cũng có những nhà tù, những cánh cửa đóng, những trái
tim khô.
***
Có lẽ đây là bãi biển xấu nhất mà anh từng ghé đến và cũng có thể là bờ biển xấu
nhất thế gian mà anh có thể tưởng tượng.
Lớp bùn bên dưới khiến nó như thể vĩnh viễn
có màu chì, ngay cả những hôm trời trong. Cái trại nuôi trẻ mồ côi dựng lên tạm
bợ, những ma soeur mặc áo chùng đen cùng mấy chục mái đầu xanh dưới ánh nến chập
chờn cùng với những hồi kinh nguyện chúng đọc trước lúc ngủ, chỉ khiến cảnh
quan chốn này tồi tệ thêm chút nữa. Tất cả chỉ gợi cho anh cái cảm tưởng rằng nếu
anh có phải rời khỏi trần gian sớm hơn một chút thì cũng chẳng hề gì.
Lần đầu tiên anh quen người nữ tu này khi
bà đang đi dạo một mình trên bờ biển. Trông như một con chim nhỏ côi cút giữa
trời đất bao la. Để rồi sau đó, anh sẽ còn tiếp tục nhớ đến người phụ nữ này
như nhớ những hoạn nạn của đời mình. Bà hấp dẫn anh bởi nỗi cô đơn sâu hút cùng
vẻ lịch lãm hiếm thấy ở một ma soeur. Lớp áo chùng đen bên ngoài không che nổi
sự khoáng đãng của những cơn gió trời lộng thổi trong tâm hồn của người nữ tu
này.
Sau năm 1975, anh đã quay lại chốn này một
lần nữa. Với hy vọng là sẽ gặp lại người nữ tu xưa. Mọi thứ đã bị xóa sạch. Biển
dâu cũng là một thứ sóng thần. Hôm đó anh ngồi một mình suốt buổi chiều ngoài bờ
biển nhìn mây trôi. Biết bao câu chuyện từng trao đổi với người phụ nữ này đã
nhòa vào tiếng sóng. Một vài kỷ niệm cũ trở lại với anh như một vết dao cứa.
Có một buổi chiều tối, người ta mang đến trại
một đứa bé. Đến nơi thì nó chết. Bà ôm nó vào lòng như ôm một con mèo con rồi
khóc tức tưởi. Ba hôm sau, lúc đang dạo chơi trên bờ biển vắng, bà nói:
- Tôi trở thành tu sĩ không phải vì bất mãn
gì với cuộc sống của mình. Tôi chỉ bất mãn với cái hiện trạng của thế gian. Sau
này khi trời đất qua đi, tôi nghĩ tất cả mọi lỗi lầm của con người đều có thể
được tha thứ, trừ sự cuống tín. Bởi không ai có thể tưởng tượng được nó đã góp
phần băm nát trần gian này ra làm sao. Nó làm nghẽn tắc mọi thông giao với đồng
loại, nó giết chết sự sáng tạo, bởi nó từ chối những ý tưởng có khả năng dẫn đến
một thế giới mới lạ. Nó phủ nhận tất cả, trừ cái điều nó cho là đúng. Tôi đã đọc
ra tất cả những điều đó ở cái trại mồ côi này.
Ít nhất thì người nữ tu này cũng đã giúp
anh nhìn ra cái diện mạo của trần gian lúc đó, và có lẽ nó còn đúng đến mãi sau
này. Cái chết của Luân, sự biệt tích của Ái, những mái đầu xanh của lũ trẻ mồ
côi cùng với tuổi thơ anh đã hằn sâu vào cuộc sống của anh những vết bầm. Không
trầm trọng lắm, nhưng cũng đủ khiến những chuỗi ngày còn lại trở nên mệt mỏi lạ
thường.
Dalat 7/1/2018
Lê Công Tư
Lê Công Tư