Mai Hồng
Thu là tên Việt của tác giả Donna Nguyễn/Donna Nguyen. Với ba bút danh này, cô
đã từng góp nhiều bài Viết Về Nước Mỹ và đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ
2013. Sanh tại Sài Gòn, sang Mỹ năm 1985, hiện là cư dân San Jose, California, tác
giả đã dịch thuật và xuất bản 3 tập truyện ngụ ngôn dành cho thiếu nhi của
Thornton W. Burgess dưới bút danh Nguyễn Nhã Đan Na (Nguyễn Donna). Sau đây là
bài viết mới nhất của cô.
***
Nó là tiếng Việt. Tôi là con nhỏ ghiền chữ Việt.
Ngày nhỏ, ngày nào tôi cũng vừa ăn cơm vừa đọc sách. Nhiều lần bị khỏ đầu hoài
nhưng cái tật khó chừa. Người nào vừa đi cầu vừa đọc sách, làm ơn đừng dành cầu
tiêu với tôi. Có lần ghiền đọc truyện, cả nhà đã ngủ tôi bèn chui vào phía sau
rèm cửa nhà tắm mở đèn đọc tiếp. Bà ngoại chợt thức giấc bèn hỏi tôi làm gì
chưa chịu đi ngủ. Tôi trả lời rằng “con còn đang học bài chưa xong”.
Trong những năm tiểu học, môn toán, văn và vẽ, tôi luôn thích và đạt điểm cao.
Cuối năm học nào tôi cũng đứng chung nhóm năm hạng cao nhất của lớp. Tương lai
của tôi tươi sáng biết bao. Tôi biết mình giỏi chữ và cũng sẽ viết được truyện
hay, vì bài tập văn luôn được điểm mười. Từ nhỏ tôi đã biết kèm bạn học làm bài
để được thưởng công.
Tôi đã ước và tôi đã mơ. Vì thế tôi cứ miên man ngốn chữ.
Đọc sách thiếu nhi chưa đủ, tôi đọc cả tiểu thuyết và truyện chưởng. Cuốn sách
dày cộm đối với tôi chỉ là một trò chơi. Khi vô tình nghe được hai dì của tôi
bàn về tình tiết trong truyện tình cảm nào đó, tôi cũng tò mò muốn đọc để xem
ai yêu ai ra sao, đúng là con nít quỷ.
Khi vừa bước vào lứa tuổi dậy, tôi đã thích đọc truyện của Quỳnh Dao dù tâm
tính vẫn hồn nhiên nghịch ngợm như con trai. Tuy nhiên, tâm hồn tôi luôn luôn yếu
đuối, ủy mị và đa sầu đa cảm, trái với cách ăn nói, đi đứng ngang tàng bướng bỉnh
bề ngoài. Nếu là người khô khan thô lỗ, chắc không thể trong vòng chưa đầy ba
mươi phút lại chế ra một bài nhạc có âm điệu, vần nhịp, lời nhạc đều vô cùng ăn
khớp. Tôi thường làm lé mắt bạn bè cùng trang lứa trong xóm bằng những đoạn văn
ngắn vần điệu trôi chảy, ý nghĩa mạch lạc nhưng toàn ghép tên của bài hát hoặc
tựa các cuốn phim.
Nhiều người nói tôi có khiếu văn chương... xuất khẩu thì nên khâu miệng lại tại
không khéo, ủa không phải: Xuất khẩu thành văn, có vần... họ thích.
Khổ nỗi, tôi chỉ biết viết văn ca ngợi cảnh đẹp, người vui, tả cảnh hoặc tả con
gà con vịt gì đó thôi, chứ không biết viết lời nịnh nọt, giả tạo.
Sau 1975, khi thầy giáo ép học trò làm văn ca ngợi cách mạng hoặc lão hồ, tôi
thấy làm bài luận văn là một cực hình và từ từ cảm thấy rất nản.
Gia cảnh bắt đầu sa sút, sức khỏe và tinh thần tôi cũng xuống dốc theo. Tôi thường
có cớ nghỉ học vì suốt ngày ho sù sụ muốn văng cả linh hồn ra. Ngoại tôi nhiều
lúc thương cháu mà nước mắt chảy dài. Tôi hay lang thang hết khu phố này qua
khu phố khác chờ hết giờ tan học rồi mới về nhà để bà đừng sốt ruột lo lắng. Bạn
học bảo nhau rằng con nhỏ vượt biên hụt nên trở lại học vài hôm rồi lại biến mất.
Có hôm trưởng lớp đến nhà kiếm, muốn chứng thực có phải tôi đang tìm đường vượt
biên không.
Thuở ấy tôi lầm lì ít nói, ai nói gì cũng ậm ừ cho qua chuyện nên họ không thắc
mắc nữa.
Tôi không hề nuối tiếc và nhớ nhung trường lớp có những thầy cô giáo Bắc Kỳ mới
vô hung dữ, thô kệch, khó chịu. Tôi nhớ mãi cô dạy môn Văn với gương mặt nhố
nhăng thiếu văn hóa, đứng trên bục giảng đay nghiến Thúy Kiều là gái lầu xanh
thật thụ ,“ngứa nghề” cám dỗ Thúc Sinh. Tôi thấy gương mặt bà giống Hoạn Thư
hơn là những cô giáo Văn dễ thương của tôi ngày trước.
Nhà trường với tôi, là một địa ngục không lối thoát, một bản án không cần xử.
Chữ nghĩa khó nuốt lại không đổi được cơm áo.
Tôi muốn nghỉ học về quê sinh sống và không ngại vất vả. Mọi người khuyên tôi
tiếp tục học, chờ cơ hội đổi đời theo nguyên tắc xưa: học vấn là sức mạnh cho
tương lai.
Không có biến cố năm 1975, chúng tôi nhất định học lên cao vì học giỏi và
siêng.
Nhưng rồi tôi lâm bệnh nặng, thường xuyên ho ra máu nhiều lần. Tôi đến nhà
thương Hồng Bàng thử nghiệm, và biết mình bị nám phổi. Tôi phải uống thuốc hàng
ngày và khám định kỳ suốt hai năm liền để ngừa lao. Nhờ đó tôi được quyền nghỉ
học!
Không cần đến trường, tôi vẫn ghiền đọc bất cứ sách báo phi chính trị.
Là nạn nhân của tin đồn, thành kiến và sự thiếu hiểu biết về bệnh lao, tôi bị
nhiều người kỳ thị vô lý. Sống ở Sài Gòn một mình giữ hộ khẩu, nên sách truyện
là người bạn duy nhất giúp tôi bận rộn và xa lánh những kẻ thất học, vô tâm.
Rồi tôi tìm cách kiếm tiền phụ gia đình, bán lẻ hay đi buôn chuyến đủ mọi món
hàng. Nhiều món rất bình thường như đậu đen, cà phê, thuốc lá, bỗng nhiên thành
hàng lậu, và tôi là dân buôn lậu bất đắc dĩ. Vì ít vốn, nhát gan, nhìn giống học
sinh và luôn đọc sách trên xe, những chuyến đi buôn từ Sài Gòn về Bình Long, và
ngược lại, tôi đều qua trót lọt. Tôi thường dấu tiền ở giữa những trang sách
nên tránh được nạn móc túi nhiều lần.
Rồi dành dụm được ít vốn, tôi sang lại một gian hàng tạp hóa đủ loại. Tôi thường
đọc sách lúc vắng khách, tránh thói ngồi lê đôi mách buôn chuyện.
Người quen thường trêu tôi bày đặt khoe chữ, lúc nào cũng cầm cuốn sách lòe
thiên hạ. Thật ra, tôi vẫn chưa cai được tật ghiền đọc sách. Tôi đọc tất cả
sách mượn được, truyện trinh thám, truyện tình cảm, sách dạy làm người,và sách
tự học đủ loại. Nhờ đó, tôi có chút kiến thức căn bản về mọi mặt.
Hơn một năm sau, cải cách kinh tế khiến chuyện kiếm tiền bắt đầu khó khăn.
Chương trình di dân Mỹ có trật tự bắt đầu rầm rộ, gia đình tôi âm thầm nộp đơn
và được thông qua. Tôi chỉ được báo trước ba ngày khi có vé máy bay rời Việt
Nam. Tôi không có đủ thời gian suy nghĩ và không đành lòng ra đi vì bà ngoại
đang bệnh ung thư thời kỳ cuối. Tôi bất mãn vì đáng lẽ ngoại mới là người đáng
được đi cùng. Tôi muốn ở lại chăm sóc ngoại những ngày cuối đời.
Bạn tôi ở Mỹ thường kể về cái khổ lúc khí hậu lạnh buốt và nỗi buồn không được
nói, nghe và đọc tiếng Việt, sống tự do nhưng lẻ loi giữa những người khác màu
da, tiếng nói và văn hóa. Tôi biết mình sẽ vất vả hơn khi phải sinh tồn nơi xứ
người. Tôi đi Mỹ để khỏi sống dưới chế độ kềm kẹp vô lý, tìm cơ hội giúp ngoại
trị bệnh tốt hơn, nhưng chưa đủ tỉnh để vui vì được may mắn hơn nhiều người.
Tiếng Việt và tôi, lại bắt đầu một cuộc tình gian nan và có rất nhiều cái... nản.
Tôi, mẹ nuôi và em trai, sang trại Phi Luật Tân, học Anh Văn và văn hóa nước Mỹ
trước khi đi Mỹ.
Một tháng sau, thơ báo tin bà ngoại qua đời. Sự bất mãn càng tăng và mọi dự định
tương lai mất hết ý nghĩa. Mẹ nuôi, vì không quen sống chung với người lầm lì
như tôi, thường cáu gắt la mắng hung tợn, gây sự vô cớ suốt ngày, khiến tôi
càng chán đời. Trong lớp Anh Văn, tôi được bạn học đủ mọi lứa tuổi yêu mến, vì
thường nhiệt tình giúp đỡ họ làm bài tập. Ngoài ra, cuộc sống của tôi khép kín
với mặc cảm thua kém mọi người về gia cảnh và tiền bạc. Lòng tôi tràn đầy bế tắc,
căm phẫn về những bất công vây quanh khi luôn bị hạ nhục vô lý. Tôi bảo vệ bản
thân bằng cách tự học hỏi, gom kiến thức từ sách vở. Dạo đó, tiếng Anh của tôi
chưa khá, nên tôi ngấu nghiến sách Việt mỗi khi có dịp.
Đọc và viết tiếng Việt là một thế giới có thể cho tôi ẩn náu dễ dàng, bình an
và an toàn nhất.
Chúng tôi đến Mỹ vào những ngày cuối năm, tuyết trắng phủ ngập đầy thành phố
Indianapolis, Indiana. Người Việt rất ít nhưng chuyện lớn nhỏ gì ai cũng biết.
Em trai may mắn được tiếp tục đến trường. Tôi vẫn bơ vơ và lầm lì. Mẹ nuôi vẫn
đay nghiến hàng ngày vì tôi cứng đầu không dễ bị sai khiến.
Tôi không thấy thoải mái khi chung đụng với những người đồng hương khi họ tin
vào những thông tin không đúng về tôi, nhưng tôi không màng giải thích. Một người
đàn ông Việt đã có vợ được nhà thờ gởi giúp chúng tôi lo mọi thủ tục cần thiết.
Hắn kiếm cớ đưa tôi đi riêng và đã ôm hôn tôi sàm sỡ trong thang máy, còn chế
giễu tôi khờ và ngây thơ. Tôi muốn phản kháng và tố cáo hắn nhưng vì cô thế nên
đành nhẫn nhục cho qua, nhưng quyết không để có lần sau.
Cái lạnh cắt da của miền đông nước Mỹ, không lạnh bằng sự cô độc giữa xứ người.
Tôi không được đến trường, không tay nghề, không tiền, không biết đường đi nước
bước, chờ ngày lấy chồng theo ý mẹ nuôi, ngồi cho người ta coi mắt hoài....tôi
không cam lòng.
Càng lạc lõng, tôi càng sống khép kín và ân nhân duy nhất vẫn là một vài cuốn
sách Việt tôi đã mang từ bên trại sang. Tôi nhớ Sài Gòn, Việt Nam, nhớ người
thân và thèm có thêm những cuốn sách Việt lắm.
Em trai biết chuyện tôi bị sàm sỡ nên khuyên tôi liên lạc bạn bên trại tìm sự
giúp đỡ. Tâm đã từng theo đuổi tôi, bằng lòng giúp tôi tạo cuộc sống mới ở Long
Island, New York nơi anh đang ở. Sau ba tháng sống gò bó, ngộp thở, thiếu thốn
vật chất lẫn tình thương với nhiều bế tắc, tôi quyết định dọn đi.
Qua đó, tôi ở trọ chung phòng với Ngân, hơn tôi 3 tuổi, trong một gia đình Công
Giáo nghiêm khắc. Tiền trọ $150, không có chìa khóa vào nhà, không có sự riêng
tư vì Ngân cũng khó tánh và so đo tính toán đủ điều. Nhiều lần tôi thấy Ngân
nói dối và tỏ vẻ kiêu căng phách lối quá mức, khiến tôi khó gần gũi thân thiện.
Người Việt trong vùng biết có người mới đến, thường gọi làm quen tôi, nhưng chủ
nhà và kể cả anh Tâm, đều tìm cách ngăn chặn. Tôi lại bị lâm vào cảnh lạc loài,
chỉ quen được vài người tử tế sống nơi anh Tâm ở trọ. Không khí trong nhà ngột
ngạt lắm, nhưng tôi phải về nhà trước tám giờ tối, nếu không sẽ không được ai mở
cửa cho vào.
Ngoài giờ học thêm Anh Văn, và cuối tuần sang nhà anh Tâm chơi, tôi bắt buộc phải
bớt nói để tránh thêm phiền phức. Lúc ở trong phòng một mình tôi mới thấy thoải
mái. Lúc Ngân sắp về, tôi luôn ôm cuốn sách Việt trong tay để phòng thân, chăm
chú hoặc giả vờ đọc để tránh khỏi phải giao du với cô ngoài mức cần thiết. Nụ
cười giả dối và cử chỉ kênh kiệu, kiểu nói tiếng Anh khoe khoang lố bịch của
Ngân khiến tôi thấy sự giao tiếp với cô là một cực hình. Ông bà chủ nhà cũng khắc
khe, bắt bẻ từng chút một, nhưng họ vẫn tỏ vẻ bằng lòng vì tôi luôn nhiệt tình
giúp dọn dẹp nhà bếp ngăn nắp gọn gàng. Cuối tuần sơ Lan, rất thân với chủ nhà,
ghé đến sau giờ Lễ, thường hỏi thăm rồi nhăn nhó răn đe tôi đủ điều. Nhìn gương
mặt khắc khổ và lạnh lùng của sơ, tôi tự hỏi mình là người ở trọ hay làm dâu ở
đây.
Thế là tôi với vài cuốn sách Việt trong tay, say sưa đọc hoài, để tỏ vẻ ngoan
hiền và bận rộn, tránh bớt cơ hội bị rầy oan. Đọc và viết tiếng Việt là cứu
cánh duy nhất và cuối cùng.
Sau đó, Sơ Lan giúp tôi tìm việc trông trẻ những lúc không cần học Anh Văn.
Công việc nhẹ nhàng, được đưa rước đến trông bé gái một tuổi. Khi bé ngủ, tôi tự
do đọc sách hoặc xem phim.
Tiếng Anh chưa giỏi, tôi lại đọc sách Việt mỗi khi có dịp để tạo niềm giải
thoát nhẹ nhàng.
Sáu tháng sau, anh Tâm ngỏ lời mong cùng tôi tạo gia đình mới và dọn sang
Danbury, Connecticut dưới sự giúp đỡ của anh Tuyên, đồng hương Hải Phòng. Anh hứa
sẽ lo cho tôi đầy đủ hơn. Anh không thích gia đình tôi đang trọ vì họ chê anh
thiếu học và nghèo. Tôi vẫn không thích hợp với cuộc sống gò bó khắc khe ở trọ,
và đặc biệt là sự chung đụng với Ngân, nên nhận lời.
Những ngày đầu chúng tôi sống chung, mọi việc tạm ổn định. Tuy nhiên, nhiều người
đồng hương Hải Phòng, vẫn mang nhiều thành kiến với người Sài Gòn, không khéo
ăn nói như tôi, khiến tôi vẫn phải thu mình vào một góc nhỏ riêng, làm bạn với
tiếng Việt, những lúc chồng đi làm hoặc giao du với họ.
Một năm sau tôi sanh con gái đầu lòng. Trong thời gian chăm con, tôi vô tình
tìm ra được đơn xin học,
trong xấp quảng cáo gởi kèm trong hộp thư, học lấy bằng high school tại nhà với
giá năm trăm đô. Tôi tự lấy giấy học bạ tiếng Việt dịch sang tiếng Anh và gởi
đơn đi cùng với học phí để học nốt hai năm cuối trung học. Họ gởi cho tôi một số
sách để đọc và làm bài. Lúc rãnh rỗi tôi đọc, làm bài, gởi đi, và nhận được bằng
tốt nghiệp trung học. Mười tám tháng sau tôi sanh thêm con trai thứ. Rồi chúng
tôi mua căn nhà đầu tiên ở đất Mỹ vì chồng siêng làm, tôi giỏi kiếm thêm và biết
dành dụm.
Tôi bận rộn học, chăm con và trẻ khác, và săn sóc căn nhà riêng, lơ là tiếng Việt
một thời gian rất lâu.
Một năm sau, tôi nhận công việc đầu tiên, làm thâu ngân một mình trông nom căn
tin một hãng tiện ca chiều. Khu này nhiều tường kính trong suốt nhìn ra sườn đồi
với cảnh hoàng hôn tuyệt đẹp và thơ mộng. Nhờ làm việc giỏi, tôi dư nhiều thời
gian lại thấy thanh nhàn nên lại đọc và viết Tiếng Việt.
Trong những giờ giải lao, tôi viết được gần một trăm trang thơ tiếng Việt.
Đó là thời gian tôi lại nhớ nhà, nhớ quê hương và thèm nói, nghe, đọc, và viết
tiếng Việt lắm.
Vài năm sau, kinh tế suy trầm, tôi bị thất nghiệp nên ôn lại vốn tiếng Anh thi
vào đại học. Vài tháng sau, tôi nhận việc làm khác, giờ giấc uyển chuyển nên
tôi vẫn tiếp tục vừa học, vừa làm, vừa chăm con. Đời sống tất bật vất vả và tôi
chỉ sử dụng tiếng Anh, giao tiếp với người Mỹ.
Tôi tạm thời không còn dịp sử dụng tiếng Việt mấy năm dài.
Khi tôi sắp hoàn thành chương trình tốt nghiệp kế toán kinh doanh, thì phát
giác chồng tôi đam mê cờ bạc lâu rồi. Làm cương, tính nhu không kết quả, buồn
tình tôi dẫn hai con đi nghỉ mát ở San Francisco hai tuần. Tôi thích khí hậu ấm,
thử xin việc, được nhận và ở lại không quay về Danbury nữa. Chồng tôi dọn theo
năn nỉ nhưng không bỏ cờ bạc. Sau một thời gian níu kéo vật vã đau khổ, tôi ly
dị và một mình nuôi con, không được tiền cấp dưỡng từ một con nghiện.
Tinh thần tôi xuống dốc trầm trọng vì bao dự định tương lai tan thành mây khói.
Học vấn là những thách thức tàn nhẫn, tôi xoay qua chăm chú làm ăn và say mê kiếm
tiền. Tôi học đủ cách, mọi mánh lới làm kinh danh và giao du, học hỏi với nhiều
người trong hầu hết mọi lãnh vực khác nhau. Lăn lộn giữa danh lợi và tham vọng,
tôi nhận ra mình càng lạc lõng hơn giữa sự giả dối ở thế giới bon chen,
kim tiền bạc bẽo đó.
Sức khỏe và tinh thần thêm sa sút, tôi ghiền thuốc ngủ, và những cơn buốt đầu
kinh niên xuất hiện thường xuyên và nặng hơn. Sách vở và tiếng Việt không cứu nổi
tôi ra khỏi cơn đau này. Gia đình, sự nghiệp, bằng cấp, học vấn, danh vọng hoặc
hoài bão, lý tưởng chỉ là những đam mê vô nghĩa kéo lê tôi qua bao tháng ngày.
Tôi quá chán nản, muốn buông nhưng không tìm ra lối thoát. Tôi gồng mình nhẫn
nhịn sống vì hai con.
Lạc lối một thời gian dài, khi hai con học xong trung học và có vẻ nổi loạn,
tôi thấy mình cần phải thay đổi. Tôi lấy nhiều lớp tâm lý học, và tìm cách tham
gia sinh hoạt từ thiện, cộng đồng mỗi khi có dịp. Tôi bắt bạn mới dễ dàng vì
luôn nhiệt tình, thân thiện và sẵn sàng chịu nhường nhịn nếu thấy đáng.
Làm thiện nguyện viên với các tổ chức người Mỹ, luật lệ và giờ giấc khó khăn gò
bó quá, sức khỏe lại không ổn định nên tôi chú tâm vào sinh hoạt với các tổ chức
người Việt nhiều hơn. Tôi theo bạn hoạt động trong ban điều hành của hội United
Vietnamese American Association, đã có dịp kết nối và tham gia nhiều chương
trình gây quỹ của nhiều hội đoàn Việt Nam trong vùng Bay Area. Nhờ đó, tôi quen
thêm nhiều người Việt, bắt đầu gần gũi, nghe, nói, viết và đọc tiếng Việt nhiều
hơn.
Tuy nhiên, tôi vẫn quen sử dụng tiếng Việt chêm tiếng Anh như một phản xạ tự
nhiên.
Cuộc cách mạng Internet ngày càng mạnh mẽ, phim bộ chuyển âm tiếng Việt bắt đầu
được tải miễn phí xem trên mạng. Khi tôi vào diễn đàn hỏi cách tải phim về máy,
tôi có thêm nhiều bạn Việt. Họ chỉ tôi cách bỏ dấu tiếng Việt trên mạng. Họ
thích và chờ đọc tôi viết kể những câu chuyện ngắn chia sẻ kinh nghiệm sống. Họ
thích xem hình tôi tham gia sinh hoạt cộng đồng. Họ yêu cầu tôi chăm viết và chụp
hình nhiều hơn. Tôi có được một số đông độc giả luôn chờ tôi bàn luận và kể
chuyện. Họ là nguồn cảm hứng giúp tôi siêng viết chữ Việt và hòa đồng với người
Việt mỗi khi có dịp. Tôi bắt đầu ôn lại tiếng Việt theo cách viết trên mạng, kiểu
viết không chuyên, lủng củng và có nhiều tiếng lóng. Tôi thích chia sẻ kinh
nghiệm sống lượm lặt đó đây và đăng ở nhiều nơi, luôn được nhiều người ủng hộ
và thích thú đọc. Tôi tiếp tục tìm tòi và biết đến chương trình Viết Về Nước Mỹ,
làm quen một số tác giả.
Tôi bỏ thêm thời gian học hỏi nhiều điều từ các tác giả khác để viết tốt hơn. Họ
giúp tôi sửa lỗi chính tả, gợi ý giúp tôi tìm đề tài viết. Tôi viết thêm được
nhiều truyện ngắn và nhiều bài thơ được bạn bè trên mạng yêu thích. Tiếng Việt
bỗng trở thành người bạn thân thiết gần gũi với tôi hàng ngày. Tôi viết để xoa
dịu những nỗi niềm riêng và chia sẻ kinh nghiệm từ những người quanh mình. Tôi
viết để nối rộng vòng tay với xã hội bên ngoài. Tôi viết để xua tan những bất
mãn trong lòng và củng cố niềm tin vào nhân sinh quan tôi đang kiên trì giữ
gìn. Nhờ có sự ủng hộ và đồng cảm của nhiều bạn đọc, tôi viết về bất cứ điều gì
mình có thể nghĩ tới, nhìn thấy và cảm nhận với vạn vật quanh mình. Tôi viết
miên man như muốn trút hết bao nhiêu mâu thuẫn đã dồn ép xưa nay.
Tôi say viết mà không biết mình đang nhả chữ như nhả đạn liên thanh mà không có
mục tiêu nhất định.
Tôi cố gắng thay đổi nhưng không tìm ra phương pháp hữu hiệu, và tôi lại bắt đầu...
nản.
Trong một lần tôi giúp phỏng dịch bài thơ tiếng Anh theo yêu cầu, nhiều người
giỏi chữ đều thích bài tiếng Việt của tôi. Tôi cảm thấy mình có khiếu phỏng dịch
Anh Việt hơn. Tôi bắt đầu tập trung học, đọc và viết tiếng Anh nhiều hơn. Nhờ sự
giới thiệu của tác giả Nguyễn Thơ Sinh của chương trình Viết Về Nước Mỹ, tôi
dành thời gian ôn tiếng Việt bằng cách phỏng dịch truyện ngụ ngôn của tác giả
Thornton W. Burgess, sẵn dịp giới thiệu những bài học nhân bản đến lớp trẻ Việt
Nam trong nước. Tôi dịch và xuất bản ba cuốn truyện, tình yêu dành cho tiếng Việt
trở nên đằm thắm và rõ rệt hơn lúc dịch thuật.
Tiền thuê nhà tăng cao, nhiều người khuyến khích và cho mượn tiền, tôi mua được
căn nhà cũ. Tôi phải làm thêm hai, ba công việc để trả nợ đúng thời hạn. Tôi bỏ
bớt dần nhiều mối quan hệ xã hội, tập trung chăm nom và sửa nhà. Thỉnh thoảng
tôi vẫn tham gia sinh hoạt cộng đồng. Sẵn dịp cần rèn trí nhớ đã có vấn đề vì lạm
dụng thuốc ngủ, tôi tiếp tục lấy các lớp tâm lý học dù rất mệt.
Tôi lại vô tình bỏ quên tiếng Việt vào một xó mà không hay.
Càng học hỏi nhiều về tâm lý học, tôi tìm cách xây dựng lại những mối quan hệ
xã hội tốt. Có nhiều bạn luôn khuyến khích tôi tập trung và phát triển năng khiếu
viết tiếng Việt. Tôi học sử dụng Facebook để tập làm thơ và ôn lại những bài viết
cũ. Nhờ sự ủng hộ, khuyến khích của nhiều người giỏi chữ và yêu thơ, tôi gắng sức
làm thơ mỗi ngày để giữ lửa. Tôi bắt đầu nhận ra những lỗi lầm tôi đã mắc phải
khi tự học viết và làm thơ xưa nay. Tôi mê, tập chép và học thuộc lòng thơ Đinh
Hùng nhiều hơn những thơ truyện khác. Tôi thích thơ năm chữ, bảy chữ nhiều hơn
những thể thơ xưa và nay. Tôi cố gắng nắn nót và nhớ từng dòng chữ để rèn sự nhẫn
nại và kiên trì trong lúc viết, đọc. Tôi luyện cách “uốn lưỡi” trước khi viết.
Tôi học cách lắng nghe trong lúc đọc. Tôi học cách viết tập trung vào những chủ
đề ý nghĩa hơn. Tôi tự chữa bệnh thiếu tập trung và trí nhớ kém trong lúc đọc
và viết tiếng Việt.
Tôi muốn lập ra một hệ thống tự học viết có hiệu quả hơn xưa. Xưa nay tôi viết
để tuôn ra hết những suy tư mâu thuẫn đang nhảy múa vô trật tự trong đầu. Xưa
nay, tôi chỉ viết để nhẹ lòng không quan tâm mình viết gì, chỉ cần viết xong đầu
óc nhẹ nhõm, tinh thần sảng khoái, níu kéo niềm tin hy vọng để sống vui. Tôi viết
về những suy tư giúp tôi gom hành trang đạp lên chông gai trước mặt, tiếp tục
ngẩng đầu đi tới. Vì thế, nếu bắt tôi phải nắn nót ý và chữ trong những khuôn
khổ gò bó nhất định thì sự viết không còn hấp dẫn với tôi nữa. Tôi không biết
cách uốn nén và gượng ép chữ nghĩa theo quan niệm sống của người khác. Tôi càng
không biết cách đọc và chỉnh sửa lại những bài viết nháp. Ngày xưa, tôi thường
viết một mạch không chỉnh sửa kỷ lưỡng nên đã cho ra đời những đứa con tinh thần
sanh non, chưa đủ dinh dưỡng và ngày tháng. Tôi chưa giỏi căn bản về kỹ thuật để
viết tiếng Việt như đã học viết tiếng Anh trong đại học. Tôi vẫn thường viết lạc
đề, thường nản và bỏ ngang là thế.
Trong quá trình sửa sai về kỷ thuật và thay đổi suy nghĩ, mục đích khi viết,
tôi khám phá ra rất nhiều điều hay. Tôi nhận thấy mình đã ôn tiếng Việt lại giống
như ngôn ngữ thứ hai. Đấy là thói quen xấu bắt đầu từ lúc tôi học suy nghĩ theo
tiếng Anh trong lớp E.S. L, tập trung học tiếng Mỹ, không có dịp sử dụng tiếng
Việt nhiều, và sau đó ôn lại tiếng Việt qua các mạng lưới xã hội. Tôi thấy mình
chọn lọc từ ngữ không được kỹlưỡng và khéo léo, chưa đủ tâm tình và quá vội vã,
vốn từ vựng hơi nghèo nàn.
Tôi thấy mình thiếu chữ và thời gian để học nên cảm giác chán nản, thiếu đam mê
lại trở về.
Bạn bè vẫn tiếp tục khuyến khích và chờ đợi tôi viết tiếp. Rồi tôi tập bỏ dần
cách sử dụng hai ngôn ngữ cùng lúc khi nói và viết. Tôi tập trung đọc nhiều để
làm giàu thêm số vốn ngữ vựng Việt. Tôi luôn luôn gắng sức tránh những chữ tiếng
Việt tối nghĩa đang lan tràn khắp nơi trên các mạng lưới xã hội. Tôi bắt đầu
phân biệt được khá hơn và hiểu ra nhiều người vì muốn nhanh, tiện nên vô tình
rơi vào cái bẫy cách mạng văn hóa của bọn tư bản đỏ Việt Nam.
Bây giờ, tôi không còn muốn viết để tự mình đọc nữa. Tôi muốn viết để chia sẻ,
vẫn để tự chữa những vết thương quá khứ, nhưng cũng để gởi những thông điệp ý
nghĩa đến những người có nhiều tâm sự không tìm ra cách giải tỏa như tôi khi
xưa. Tôi viết như một thú vui truyền bá kinh nghiệm sống đến với độc giả. Tôi học
bỏ nhiều tâm tư vào từng chữ, từng lời, từng câu khi viết. Tôi tập bỏ dần lối
suy nghĩ lan man và cách viết tràng giang đại hải không bến đậu, không tập
trung. Tôi cần viết đúng cách và tập trung vào những thông điệp rõ ràng, và
cũng để góp phần giữ gìn, truyền bá văn hóa Việt.
Tôi bỏ thêm tâm tư tập trung tìm đủ mọi cách để học viết tốt hơn dù vẫn còn nhiều
trở ngại về trí nhớ, sức khỏe và thời gian. Vì kén bạn, không có cơ hội sử dụng
tiếng Việt mỗi ngày, tôi phải tìm tòi thêm cơ hội đọc, tự nói, tự trò chuyện,
thâu lại, nghe và kiểm chứng. Tôi tập đọc truyện và thơ, kể cả hát.
Càng tìm tòi đọc và tự học cách nói, nghe một mình, tôi nhận ra rằng xưa nay
mình đọc ít quá.
Đúng là tiếng Mỹ chưa thông mà tiếng Việt đã lết lết.
Mà thôi, còn lết là còn chữa được, tôi thấy rõ tư tưởng của bản thân cũng thuộc
loại khá, càng khẳng định hơn mỗi khi học thêm được nhiều điều mới. Tôi tập
tánh kiên nhẫn ôn lại tiếng Việt song song với việc rèn luyện trí nhớ. Tôi chép
thơ Đinh Hùng thường xuyên hơn. Đọc một câu thơ trong đầu, khi chép tay tôi thường
chép sai một vài chữ trong một bài thơ, dù vẫn giữ nguyên ý thơ.
Tôi cần phải tập trung hơn khi đọc và viết, đọc đâu quên đấy, lại đọc lại, vất
vả như đứa trẻ học đánh vần. Dần dần, tôi biết để ý chọn lọc từ ngữ thích hợp
và lưu loát hơn trong cách nói và đặt câu. Tôi kiên nhẫn học cách xếp chữ, ý
hài hòa, xúc tích, và mạch lạc, gói trọn vào một chủ đề chính. Tôi đã biết cách
sửa đổi nhiều lần sau khi đọc lại bài viết của mình.
Tôi ôn lại chữ Việt và cách viết, song song với việc chữa bệnh và tu dưỡng tâm
thân tốt hơn.
Cuộc tình “bỏ thì thương, mà vương thì tội” của tôi với tiếng Việt, ngẫm ra vẫn
còn chưa tận duyên.
Tiếng Việt, tình yêu giữa tôi và nó, không chỉ là cái phao nâng đỡ tinh thần
khi tôi gặp khó khăn, cô thế và lạc lõng. Nhờ nó mở lối tâm hồn, tôi không còn
bị những lời nói vô tâm và những gương mặt nhăn nhó, khó tánh khắc khổ của quá
khứ ám ảnh nữa. Giờ, nó là đòn bẩy giúp tôi nhảy cao hơn, sống ý nghĩa hơn,
hoàn thiện tâm linh, tìm tòi học hỏi truyền bá những điều tốt đẹp của văn hóa
Việt Nam. Những gian nan khi ôn tiếng Việt chuyển mình thành sự đam mê tìm tòi,
là lối thoát hiểm gần gũi và an toàn nhất của đời sống nội tâm, thoát khỏi những
đam mê danh vọng, đua đòi vật chất tầm thường.
Nhờ “nó” giúp, tôi mở lòng nhẹ nhàng thanh thản hơn. Nhờ nó, tôi sống vui, giữ
lòng thanh khiết, không bon chen. Nó giúp tôi từ bỏ nhiều tham vọng, tránh xa bạn
xấu, cùng những thú vui vô bổ.
“Nó” và tôi, từ đây sẽ song hành trên mọi nẻo đường tương lai, kiên trì, hoan hỉ
đạp lên những chông gai trắc trở của cuộc sống.
“Nó” cùng tôi vẫn giữ vững niềm tin và hy vọng làm hành trang đi tiếp đoạn đường
đời. “Nó” là người bạn trung thành cho tôi dựa lúc nản lòng, giúp tôi nhắc nhở
mình không quên nguồn cội và sức khỏe tâm linh. Yêu “nó”, nhắc tôi biết yêu
mình, yêu đời và yêu người.
Tiếng Việt, người bạn thân thiết tri kỷ từ lớp vỡ lòng, vẫn mãi lặng lẽ đâu đó
quanh tôi qua bao thăng trầm, đã giúp tôi vượt qua bao nhiêu trắc trở cam go
trong kiếp nhân sinh.
Câu “Tiếng Việt còn, người Việt còn” luôn nhắc nhở tôi tạo cơ hội để bản thân
và thế hệ sau không quên mình là người Việt, thích nói tiếng Việt cùng học hỏi
gìn giữ văn hóa Việt. Nó đã giúp tôi chữa lành vết thương lòng, không còn lạc
loài trong kiếp sống tha hương và dũng cảm mỉm cười nhìn về quá khứ. Tiếng Việt
là thuốc chữa trị và bồi bổ sức khỏe tâm linh cho tôi. Tôi thấy được sự chung
thủy của tôi với tiếng Việt có giá trị hữu ích luôn ươm mầm tin yêu và hy vọng.
Tôi và nó sẽ gắn bó trong từng hơi thở từ giây phút này cho đến cuối đời. Tôi
ngày ngày học thả lòng theo tự nhiên, theo duyên và gắng làm tốt bổn phận người
tử tế, góp một bàn tay nhỏ, phát huy và bảo tồn văn hóa Việt, là tiếng Việt
ngàn đời trong sáng từ thuở nằm nôi.
Mối tình giữa tiếng Việt và tôi, như tình yêu quê hương đất nước đã ăn sâu
trong lòng, sẽ một đời gắn bó. Nó và tôi, cùng nhau trau dồi, đổi mới theo chiều
hướng tốt, và sẽ giàu mạnh, phong phú hơn. Tôi hy vọng sẽ có dịp gởi đến bạn đọc
những dòng chữ giản dị tự nhiên và hữu ích hơn xưa.
Mai Hồng Thu