Hồi Ký Của Một Người Việt Nam.
Cuộc chiến Việt Nam 1954-1975 sau cùng xét lại chỉ là một cuộc
chiến tranh tàn hại trong lịch sử nhân loại nói chung, và của nước Việt Nam nói
riêng. Sự kết thúc của nó đã đẩy ra khỏi đất nước gần 3 triệu người Việt và làm
dân tộc này vào một sự chia rẽ vô phương hàn gắn.
Thường thì sau mỗi cuộc chiến
tranh như vậy xuất hiện những tác phẩm văn chương nói lên thân phận của những
người vì tai trời, ách nước phải trở thành nạn nhân bất đắc dĩ của thời cuộc. Họ
không phải là những người lãnh đạo, cũng chẳng có danh phận, chức tước nào
ngoài danh phận phó thường dân nhưng ở vị trí này, họ trở thành những nhân chứng
quan trọng cho một thời đại, một biến cố mà Lịch Sử chính thức không thể ghi lại
một cách trung thực được. Chúng ta đã đọc Chiến Tranh và Hòa Bình, Cuốn Theo
Chiều Gió, Bác Sỹ Gi Va Gô, Giờ Thứ 25.. và say mê với các tác phẩm này.
Thế nhưng cuộc chiến vừa qua tại đất nước chúng ta thì chỉ thấy xuất hiện về
sau những tập hồi ký ghi lại những sự kiện riêng biệt của một nhân vật nào đó,
vào một giai đoạn nào đó, có thể là một trận đánh, một thời gian cải tạo, một
cuộc vượt biên, một cuộc đời làm lại nơi xứ người. Hiếm có một hồi ký nào ghi lại
cả một cuộc đời, tương tự như cuốn tiểu thuyết BS Gi Va Gô của nhà văn Nga,
Boris Pasternak . Rất may, cuốn hồi ký Sống Chẳng Còn Quê của Trần Xuân Dũng vừa
xuất hiện năm 2018 đã giúp chúng ta và con cháu thấy được cái thảm kịch của Việt
Nam thế kỷ 20 qua những gì ghi lại của một người Việt Nam , một thanh niên tầm
thường như hàng triệu thanh niên khác, không phải là một nhà cách mạng hay lý
thuyết gia, cũng không phải lãnh tụ tôn giáo như các ông Hồ Chí Minh, Ngô đình
Diệm, Ngô đình Nhu hay Thích Trí Quang…v..v
Cuốn Hồi Ký Sống Chẳng Còn Quê của Trần Xuân Dũng dầy 683
trang, trình bầy trang nhã. Hình bìa là hình một căn nhà bằng gỗ, có dàn muớp
hoa vàng, trái xanh. Hình bìa sau là một nông trại tại Úc, với cây cổ thụ cao
ngất trời. Hai tấm hình, hai nơi chốn, hai giai đoạn của một đời người, đời tác
giả. Nếu chỉ hiểu cuốn sách này là một hồi ký của một cuộc đời, thì cuộc đời đó
đầy chông gai, nước mắt. Tuy nhiên, người đọc có cảm tưởng là mục đích của tác
giả khi ngồi viết 683 trang sách không phải là chỉ để ghi lại cuộc đời mình, mà
tác giả muốn qua nó, viết lại lịch sử của toàn thể Việt Nam, từ năm 1939, là
năm sinh của tác giả, cho đến ngày hôm nay. Có thể nói, tác giả khi ngồi viết lại
cuốn hồi ký này, ông đã làm cái việc mà nhà văn Đoàn Thêm gọi là Đem Tâm Tình
Viết Lịch Sử.Có lẽ chúng ta không cần biết đến thân thế của chàng trai Việt
này, tuy việc tìm hiểu không khó . Cái mà chúng ta cần biết là ông là một nhà
thơ rất có tài, và đồng thời ông là một nhiếp ảnh gia, đồng thời là một nhà
khoa học. Hai yếu tố này khiến ông mô tả rất chính xácx những sự kiện ông chứng
kiến trong cuộc sống hàng ngày.
Trần Xuân Dũng đã trải qua một thời thơ ấu rất gian truân,
đánh dấu bằng nạn đói năm Ất Dậu 1945 . Năm đó, vì sự ác độc của quân đội Nhật,
bắt dân bỏ việc trồng lúa để trồng đay cung cấp cho chiến trường (Thế Chiến Thứ
2), Việt nam trải qua một nạn đó vô cùng khủng khiếp. Hãy xem ông thu vào ống
kính cảnh tượng thê thảm của nạn đói này :
Một buổi sáng, tôi đang ngồi trong cửa sổ nhìn ra ngoài
đường, chợt nghe tiếng lọc cọc. Tiếng xe bò lăn trên đường. Từ phía thành Vinh
về hướng nhà Ga. Xe tới gần, không thấy bò kéo xe mà là người. Hai người gầy yếu
cố kéo cái xe đi từng chút một, trên xe có vài xác chết trộn lẫn với một ít bột
vôi trắng. Những cái xác nằm trên xe đã rất gầy. Mặt thụt vào, da nhăn nhúm,
tay chân không còn thịt. Có xác chỉ mặc có một cái quần đùi. Có xác mặc áo quần,
nhưng đã tả tơi rách nát. Nhưng có điều là khuôn mặt nào cũng gần như giống
nhau. Da bám sát vào xương mặt. Mầu trắng bệnh nhợt nhạt, như không có máu đã
lâu ngày. Môi họ đều khô cong, dường như có nhiều lằn nứt dọc….Những đám ruồi
hiện đang bay hay đậu vào mặt những xác này.
Như thế đó, nạn đói năm Ất Dậu tại thành phố Vinh
Chính trong hoàn cảnh đau thương này mà đảng Công Sản Việt
Nam có cơ hội nắm chính quyền.Việt Minh, thuở khởi đầu, chỉ là một bọn cơ hội
chủ nghĩa. Với quyền sinh sát trong tay, nhân danh Cách Mạng, chúng làm mưa làm
gió, giết người qua những bản án trời ơi đất hỡi, tuyên án bởi những quan tòa
chưa từng học qua một ngày tại các trường Luật.. Những ai tưởng rằng những người
CS hồi đó trong sạch, có lý tưởng lầm to. Cha của tác giả chỉ vì đã làm việc
trong một nhà ga nên coi như là đã cộng tác với thực dân Pháp nên bị họ bắt cầm
tù. Việc đó khoan nói là oan hay ưng.Chỉ biết rằng việc ông được thả ra hoàn
toàn là do đút lót và mỹ nhân kế, qua sự trung gian của một người đàn bà có nước
da trắng, ăn mặc tân thời, người ta gọi là cô giáo, nhưng có vóc dáng của một
cô đầu. Việt Minh tham nhũng và dâm ô kể từ những năm cuối của thập niên 40 chứ
không phải sau này.Tiếng cách mạng chỉ là trên đầu môi chót lưỡi, và người dân
cũng biết là như vậy nhưng với vũ khí cung cấp bởi Mao Trạch Đông,người dân Việt
không làm gì được để chống đối. Họ chỉ có thể bỏ vùng do Việt Minh kiểm soát để
về Hà Nội, tuy là thành phố này do người Pháp cai trị.
Trái với những gì CS sau này tuyên truyền, tác giả cho biế
quang cảnh Hà Nội trước Genève :
Năm 1953, tình hình Hà Nội sáng sủa nhất. Thủ đô phát triển
về mọi mặt rất nhanh. Sự thịnh vượng và huy hoàng lộ rõ (Trang 179).
Rất tiếc tại các nơi ngoài thành phố, vùng do họ kiểm
soát, Việt Minh khủng bố người dân với những việc đấu tố của Cải Cách Ruộng đất
, chém giết thẳng tay. Bởi vậy, việc người dân Miền Bắc di cư vào Miền Nam sau
Hiệp định Genève chỉ chứng tỏ một điều là lòng dân chán ghét CS ngay từ những
năm 50 của thế hệ trước. Chẳng có chiến đấu vì độc lập, tư do gì hết. Tất cả đều
do họng súng và do Cộng Sản Quốc Tế, đạc biệt là Công Sản Tầu.Cuốn hồi ký của
TXD nói rõ điều này và những gì CS tô hồng chuốc lục cho sự nhiệp Cách Mạng của
họ sau này đều là nói láo. Việc này mọi người đều rõ, và sự sợ hãi, cúi đầu cam
chịu của người dân trước sự lộng hành của CS chỉ cắt nghĩa được bằng sự sợ hãi.
Sợ đến nỗi một người như Nguyễn Tuân sau này phải thú nhận là ông ta sở dĩ sống
sót được là vì biết sợ. Nói điều này chỉ là để xác nhận một điều : Công Sản
chẳng qua chỉ là một bọn cướp, một bọn Mafia gieo rắc kinh hoàng cho người dân
chẳng khác Al Capone tại Nữu Ước ngày xưa.
Sau hiệp địmh Geneve, tác giả theo gia đình di cư vào Miền
Nam. Tại đây, dưới chế độ Tư Do của Việt Nam Công Hòa , TXD đã có những năm
tháng hạnh phúc. Tại trang 267 của tập hồi ký, ông viết : Học sinh vui
sướng, tinh thần thoải mái. Chẳng ai bảo ai, toàn bộ học sinh CVA đều rất kính
phục TT Ngô đình Diệm. Và cảm ơn nữa. Nhưng dòng này tác giả viết tại Úc,
sau khi TT Ngô đình Diệm đã qua đời trên 60 năm, không thể nói là để tuyên truyền
hay vì áp lực nào khác. Đó là sự thực, 100% sự thực. Những ai thuộc thế hệ tác
giả, trong đó có tôi, có thể xác nhận điều này. Nếu không có bọn CS và cuộc chiến
sau này do chúng gây ra, thì chắc chắn là Việt Nam ngày nay đã khác xa, đã tiến
bằng hay tiến hơn Đại Hàn.
Cuộc sống của người dân Miền Nam sau 1954 là một cuộc sống
đã dược tác giả tả lại tại trang 279 : Sài Gòn sống trong cảnh thanh
bình, thịnh vượng. Tôi đậu tú tài một, rồi tú tài hai, ban toán. Nhờ Việt
Nam Công Hòa, TXD lên đại học và vào trường Y Khoa. Rất tiếc, đến giai đoạn
này, cuộc sống của người Miền Nam không còn được CS để yên nũa. Chúng đã một mặt
mua chuộc được những người Miền Nam nhẹ dạ (như một ông trưởng giả người miền
Nam là hàng xóm của ông trong đồng Ông Cộ), một mặt xua quân vượt vỹ tuyến 17 vào
Miền Nam gây nên một cuộc chiến tranh vô cùng thảm khốc kéo dài mãi đến 1975,
trong đó gần 3 triệu thanh niên đã bỏ mình, lãng nhách, không có gì có thể biện
minh cho sự cần thiết của cuộc chiến này. Như đa số các thanh niên Miền Nam,
TXD đã vào quân đội , không vì muốn chiến thắng ai, mà chĩ để bảo vệ nếp sống
mà mình đã chọn. Nhưng người thanh niên Miền Nam, ưa hoà bình nhưng không còn một
lưa chọn nào khác là hy sinh. Hãy nghe tác giả nói về trường hợp một người lính
Miền Nam : trang 373 : Một người từ ngày nhập ngũ tính đến nay
đúng mười năm. Anh ta cứ ở nguyên một chỗ trên một nơi hẻo lánh, đó là một ngọn
núi trong tình trạng vô cùng nguy hiểm, Hàng ngày, pháo kích của Việt Công rơi
xuống chỗ đóng quân đều đặn. Từ ngọn núi này đi ra, không thể dùng đường bộ. Xe
cộ sẽ bị Việt Công phục kích. Đời sống của những người tại đơn vị nhỏ này lệ
thuộc vào những chuyến tiếp tế. Từ lương thực đến súng đạn , tất cả đều phải bằng
máy bay…Anh lính này cưới vợ xong là đi lính, mỗi năm về phép hai lần, mỗi
lần 7 ngày. Anh ở Long An. Những người như người thanh niên Miền Nam này sau đó
bị gán cho hai chữ ngụy quân. Không có gì vô lý hơn việc này. Nếu không có chiến
tranh mà người CS gây nên, anh ta đã có mười năm hạnh phúc bên vợ con tại Long
An. Anh ta có buôn bán gì với người Mỹ mà nói đến chuyện bán nước ?? Nói đi nói
lại chỉ để nói lên một sự thực là đảng Công Sản phải chịu trách nhiêm về những
đau đớn hy sinh của thế hệ này, trong Nam cũng như ngoài Bắc.
Sau khi cuộc chiến chấm dứt một cách tức tưởi dưới súng đạn
mà Tầu Công cung cấp để người Việt Nam chém giết nhau dẫn đến cuộc Bắc Thuộc hiện
nay mà nguy cơ mất nước lên cao độ hơn bất cứ thời đại nào, TXD còn phải chia sẻ
với những người thanh niên Miền Nam thuộc thế hệ anh 3 kiếp nạn khủng khiếp nữa
là Học Tập Cải Tạo, Vượt Biên và làm lại cuộc đời nơi xứ người (Úc).
Học tập cải tạo của bọn Việt Cộng thưc ra chỉ là một loại ngục
tù giống như Quần Đảo Goulag bên Nga mà Soljenitsyne đã mô tả, trong đó bọn cai
tù dùng những biện pháp khủng bố về vật chất và tinh thần để triệt tiêu ý chí
người tù, sao cho đối với họ, chỉ còn miếng ăn là quan trọng. Không còn chống đối,
không còn ý chí, không còn danh dư, không còn nhân phẩm. Thời gian ở tù dài hay
ngắn, người đi cải tạo hoàn toàn không biết. Trong đêm tối, họ dùng phương pháp
chuyển trại, kẻ đi không biết tại sao mình đi, kẻ ờ lại không biết tại sao mình
phải ở lại, từ đó phát sinh ra những lời bàn bạc , phỏng đoán vu vơ, chủ yếu
gây sự hoang mang, và người tù sống trong một không khí kinh hoàng, tuyệt vọng,
đến nỗi nhiều người phải đi đến chỗ tự tử, vì họ không chịu được sư tra tấn về
tinh thần này. Nếu không tự tử, thì sự thiếu dinh dưỡng, bệnh tật cũng tàn phá
thân thể người tù. Đó là chỉ tiêu, là mục đích của cái gọi là học tập cải tạo.Hãy
xem TXD tả lại quang cảnh trong trại học tấp :
Mỗi sáng, để chối bỏ tình trạng xuống dốc của cơ thể, anh em ráng tập đi bộ
quanh những căn nhà….Nhìn họ, tôi biết họ đang lâm vào một chứng bệnh thuộc về
thần kinh tâm lý. đó là chứng bệnh khước từ hiện trạng, chối bỏ sự thật, tiếng
Anh Denial .
Và cái đêm kinh hoàng anh bị chuyển trại :
Vài tháng sau, đến lượt tôi bị gọi tên. Gói ghém vật dụng, lên xe Molotova.
Khuya đến, đoàn xe chuyển bánh. Xe không có mui, không có ghế. Cả người lẫn
hành lý chồng chất lên nhau. Xe chạy suốt đêm. Lệnh cai tù là tiêu tiểu tại chỗ.
BS Chi, thuộc bô binh, vãi cứt đái ra quần. Gió bạt hơi thối, lúc hương này,
lúc hương khác.
Tất cả bài bản học tập cải tạo này, thực ra Việt Công học từ
bọn Nga, mà tác giả của nó là những chuyên viên tâm lý lỗi lạc. Chúng ta đã
nghe nói về những trại giam vùng Tây Bá Lợi Á bên Nga, không phải chỉ là tàn bạo
đâu, có nghiên cứu, có bài bản khoa học hẳn hoi.
Nếu cuộc sống trong trại cải tạo đen tối, thì cuộc sống bên
ngoài cũng không hơn gì. Người dân Miền Nam đã được hưởng tư do trong khoảng
hai chục năm, dưới thời Cộng Hòa I, rồi Cộng Hoà II, khác với người Miền Bắc, họ
không chịu nổi cái chế độ hà khắc là chế độ Cộng Sản, với sự quản trị cái bao tử
của người dân, và những đợt dánh tư sản, đổ tiền làm họ khánh kiệt. Thời gian
này là thời gian họ tổ chức những chuyến tầu vượt biên, nhất quyết rời bỏ Việt
Nam, là quê hương họ, không luyến tiếc, chấp nhận những rủi ro, chết chìm tại
biển đông, hay chết vì hải tặc. Nếu cái cột đèn Miền Nam có chân, chúng cũng bỏ
đi. Mấy chục năm sau, hiện nay, năm 2018, ra ngoại quốc vẫn là giấc mơ của người
Việt Nam. Tại sao như vậy, nếu không là việc lòng dân đã quá chán ghét Cộng Sản.
Giấc mơ rời bỏ Việt Nam dù có hấp dẫn đến thế nào chăng nữa cũng không phải là
dể thực hiện. Phải có phương tiện, có tiền và nhất là phải có sự may mắn
nũa. Giỏi giang cách mấy cũng không thoát khỏi cái số phân con người, cái phước,
cái đức mà tổ tiên để lại cho con cháu, Trần Xuân Dũng đã được hưởng cái phước
đó và đã đem được gia đình sang Úc. Xem những trang giấy anh viết về quãng đời
này của anh, không thể không có cảm nghĩ là anh này có phước quá. Cuộc đời của
anh coi như 99% tàn tạ, chỉ có 1% may mắn thoát, vậy mà anh có được cái 1% đó,
không hiểu tại sao.
Trần Văn Thủy, một đạo diễn Miền Bắc viết trong tác phẩm của
ông Nếu Đi Hết Biển đại khái :
Nếu đi hết biển qua Các Đại Dưong, Châu Lục, đi mãi, đi
mãi, thì sau cùng cũng lại trở về với quê mình, làng mình.
Ý của ông này là tình Quê Hương trong một con người mãnh liệt
và không gì có thể tiêu diệt được tình cảm này. Trần Văn Thủy đã lầm. Người ta
yêu quê hương nhưng khi quê hương ấy nằm trong tay những kẻ trời không dung, đất
không tha như bọn Việt Cộng, thì thà Sống Chẳng Còn Quê như Trần Xuân Dũng còn
hơn.
Hãy nghe lời tâm sự của tác giả :
Lúc nào tôi cũng khắc khoải về nước Việt Nam đã mất.
Và bài thơ này của thi sỹ :
Nghe chó sủa khuya, thấy não nề
Nhắc đời đất khách kéo lê thê.
Ta vì thảm họa Miền Nam mất.
Sống chẳng còn quê, thác chẳng về
Tôi đã đọc say mê liền một lèo trong một đêm mùa đông năm
2018 tại nơi tôi ở là thành phố Montréal, kho tuyết rơi, và ngoài trời giá lạnh,
tập hồi ký của người bạn đồng môn. Gấp cuốn sách lại, tôi trầm ngâm suy nghĩ .
Ái nữ của tác giả, cô Chim Khuyên viết trong trang cuối cuốn sách : Tôi
coi nước Úc là nhà, nhưng tôi biết rằng bố mẹ tôi lúc nào cũng vẫn cảm thấy như
ở ngoại quốc.
Tôi biết rằng cũng như tôi, Trần Xuân Dũng lúc nào cũng vẫn
thiết tha với Việt Nam, nhưng không về Việt Nam nếu vẫn còn Việt Công.
Lời kết của bài viết này, đã khá dài, là tôi xin nhắn các
nhà đạo diễn điện ảnh Việt Nam, trong và ngoài nước : Nếu các bạn muốn
tìm một tác phẩm để thực hiện một cuốn phim ngang hàng với Guerre et Paix,
Autant en emporte le Vent, Docteur Jivago, thì xin hãy đọc Sống Chẳng Còn Quê của
Bác Sỹ Trần Xuân Dũng theo địa chỉ trên Internet : txdung399.blogspot.com.
Trân trọng.
Trần Mộng Lâm