Khi tôi vừa ăn xong mấy củ khoai thay cho bữa cơm chiều, thì
một người cán bộ đi vào. Như những người miền Bắc tôi thường gặp, sau chiến
tranh tràn ngập cả miền Nam, dù không là bộ đội vẫn thường mặc một bộ đồ màu cứt
ngựa bạc phếch, nhàu nhò và đội một cái nón cối do Trung Quốc viện trợ. Bộ đồ
ông mặc hãy còn mới nhưng vẫn không che giấu được vẻ buồn bã nhàm chán của một
thứ quân phục được sản xuất hàng loạt. Ông cũng có một chiếc bị lủng nhủng những
túi những dây gọi là ba lô con cóc (vì đeo lên nó giống như một con cóc khổng lồ).
Ông mang một đôi săng đan bằng nhựa màu nâu nhạt, loại dép mới cũng do – ông
Trung Quốc chi viện thay cho dép cao su.
Ông bước vào sân giữa lúc trời đang còn chút nắng nên mặt
ông sáng lên với những giọt mồ hôi lấm tấm, nhưng hai nếp nhăn từ cánh mũi vòng
qua cái miệng không râu lại sẫm đen giống như hai đường cày. Một cái bớt trên
má trái giống như một giọt mực xạ bị bôi lem. Mái tóc cắt sát hai bên thái
dương chỉ chừa một mảng trước trán như một cái lưỡi rìu. Cái mái tóc sắc nhọn
giống nhau cả triệu người như một ấy, đã từng xuất hiện trong tết Mậu Thân trên
các xác Việt cộng được kéo bỏ ngoài công viên thành phố. Tôi đã nhiều lần hoang
mang tự hỏi không biết có ai trong số họ là cha tôi.
Ông đi qua sân không một chút ngập ngừng, rồi ông bước lên
thềm quay mặt nhìn ra ngõ, hơi bất ngờ khi thấy mấy con “trâu máy” của hợp tác
xã trên đường trở về đang kêu phành phạch thay cho tiếng nghé ngọ. Ông đặt ba
lô xuống thềm, lọ mọ lấy điếu cày, xe thuốc nhét vào nõ rồi rít một hơi dài kêu
roọc roọc. Ông tựa lưng vào cột, lim dim mắt, thở ra một hơi khói đậm và gắt.
Cái vẻ tự tin yên bình, cái vẻ không xa lạ với cửa nhà vườn ruộng, cái vẻ của một
người đi xa về lại nhà mình khiến cho tôi trả lời đúng chóc khi nghe ông hỏi:
Có biết ta là ai không?
Là cha, tôi nói.
Giỏi đó, con còn nhìn ra cha là nhà có phước.
Đó, cái buổi trùng phùng của hai khúc ruột lìa xa nhau hơn
hai mươi năm chỉ có vậy. Không có chuyện mừng mừng tủi tủi. Không có một giọt
nước mắt nào run rẩy nhỏ xuống. Cũng không oái ăm như tôi đã từng tưởng tượng mỗi
khi nghĩ đến người cha chưa từng thấy mặt. Có phải vì chúng tôi là hai người
đàn ông hay vì chúng tôi đã từng ở hai bờ chiến tuyến?
Tôi đã từng vẽ ra những cảnh cha con gặp nhau rất éo le, oan
trái. Như lúc ông bị thương sắp chết sau khi nhận loạt đạn của chính tôi, hay
lóp ngóp chui lên từ căn hầm bí mật dưới những họng súng sẵn sàng nhả đạn,
trong đó có họng súng của tôi.
Hồi đó, tôi thường tự hỏi, trên cái dải đất mỏng manh hình
chữ S này có bao nhiêu người cha và người con, người anh và người em, những người
ruột rà máu mủ lại phải bắn giết nhau. Cả trăm, cả ngàn hay đến cả chục ngàn?
Và vì sao bọn họ phải trở thành kẻ thù của nhau? Có phải vì chiến tranh quá dài
và những kẻ cầm đầu hai bên quá hèn nhát hay quá thủ đoạn, hích vào đầu chúng
tôi như bọn trẻ chăn trâu thúc sau đít để trâu bò húc nhau.
Lô lô ầm
Lô lô ạtThịt nạc dao phayCon nào hay để lại càyCon nào dở dao phay nước mắm…
Bộ máy tuyên truyền của hai bên cũng y chang như vậy đó, chỉ
khác là được khuếch đại to hơn và bền bỉ sâu hiểm hơn mà thôi.
Giờ đây, tôi lại tưởng tượng khác. Nhiều người cha xấu hổ đã
không muốn nhìn mặt con khi biết chúng đã từng “theo giặc cầm súng bắn vào nhân
dân”. Biết con đang “học tập” họ chẳng những đã không ái ngại xót xa, còn bảo
không bị giết đã là nhân đạo lắm rồi, hãy để nó học càng lâu càng tốt. Vì vậy,
tôi chẳng mong gì được gặp ông một cách đề huề cảm động. Tôi chờ đợi những câu
mắng chửi y như bọn họ, những người chiến thắng rồi mà vẫn chưa hết căm thù những
kẻ thua trận là chính con cái anh em mình. Nhiều lúc tôi vẽ ra cảnh ông rút
súng chĩa vào ngực tôi gào lên, mày là thằng bán nước và tôi nhắm mắt để cho
ông bóp cò.
Nhưng bây giờ, “con còn nhìn cha là nhà có phước”, ông nói vậy
là sao? Phải chăng ông cũng đang vẽ ra những cảnh trái ngang: con không thèm
nhìn cha, hay lớn tiếng kết tội bỏ cả vợ con để đi theo Liên Xô và Tàu Cộng? Và
như thế cả hai cha con chúng tôi đều vừa mong mà cũng vừa sợ cái ngày sẽ gặp lại.
Tôi mở cửa mời ông vào nhà, nhưng ông bảo ta muốn đi dạo một
chút. Rồi ông đi quanh vườn. Vườn rộng, trồng rất nhiều cây ăn trái, nhưng đã
già cỗi. Những mít, những xoài ngày nào giờ đã thành cổ thụ. Dừng lại bên cạnh
một cây xoài ngã rạp chắn lối trước mặt, ông nói đây là cây xoài quỳ và quay lại
hỏi tôi:
– Lúc nhỏ con cũng thường leo lên đây?
– Dạ.
– Con có bị bà bắt phạt quỳ không?
– Dạ có.
– Bà cấm leo trèo vì sợ té gãy chân.
– Dạ.
– Ta nhớ cái vườn này lắm. Ngoài đó làm gì có được cái vườn
như nhà mình.
À ra vậy, tôi nghĩ, lúc nhỏ ông vẫn thường nghịch ngợm leo
trèo và ông vẫn nhớ đến khu vườn xưa, ngôi nhà cũ chứ không phải chỉ nghĩ đến đảng
không thôi.
– Ta cứ tưởng bị đốt phá hết rồi.
– Thế nhà ngoài đó của cha cũng có vườn chứ?
– Làm gì có nhà, chỉ có bốn thước vuông thôi. Chỉ rộng
hơn cái áo quan một chút.
Cái giọng điệu chua chát từ miệng một người miền Bắc lần đầu
tiên tôi mới được nghe, thật khác xa với giọng điệu huênh hoang tự hào của những
“ông”, những “bà” cán bộ trong trại cải tạo hay những người miền Nam mới theo
cách mạng.
Sau đó ông vòng ra giếng, cúi nhìn xuống sâu một lúc như tìm
lại hình bóng mình rồi thả gàu múc nước. Ông xối nước rửa mặt, ngửa cổ uống một
hơi, khà một tiếng: Nước giếng nhà mình ngon thiệt! Cái cách ông uống và khen cứ
như vừa làm một cốc bia mát lạnh, khiến tôi rất xúc động.
Vườn nhà mình! Nước giếng nhà mình! Những tiếng ấy dường như
được ông nhốt kín trong lồng ngực suốt hơn hai mươi năm, giờ bỗng vọt ra như những
cánh chim đang bay vút trên bầu trời quê hương. Tôi có cảm giác sẽ còn được
nghe tiếng “mình” thêm nhiều lần nữa. Nhà của mình, ruộng của mình, vợ con của
mình… Những thứ “của mình” đó làm nên một đời người, vì sao ông lại bỏ tất cả để
đi tìm những thứ rất chi xa lạ không phải của mình?
Lúc vào nhà, tôi cẩn thận đi trước, dặn ông coi chừng vấp phải
ngạch cửa cao ngang đầu gối, nhưng ông bảo vấp làm sao được, ta thuộc cái nhà
này như biết rõ trong lòng bàn tay.
Đèn được thắp lên, căn nhà đã một trăm tuổi hơn mở con mắt
ngái ngủ của mình ra nhìn ông. Không biết nó nghĩ gì nhưng ông chủ của nó thì bồi
hồi đứng nhìn trong yên lặng. Nào cột nào kèo, nào trính nào xiên, cái bàn thờ
lạnh lẽo với những bức hình trùm khăn nhiễu đỏ, những tủ giường xưa cũ, tất cả
đã bị mối mọt và nhất là bàn tay của con người làm cho xệch xạc méo mó. Ngôi
nhà đã hai lần bị “mượn”. Lần thứ nhất, chính quyền cũ “mượn” làm nhà tạm giam
những người tình nghi Việt cộng. Lần thứ hai, cách mạng “mượn” làm trụ sở ủy
ban. Cứ sau mỗi lần bị “mượn” là tiều tụy xơ xác. Giá như nó là một người vợ đẹp
mà bị “mượn” đến những hai lần như thế thì không biết người chồng sẽ đau khổ đến
mức nào.
Đến trước bàn thờ, ông có vẻ muốn lật những tấm khăn nhiễu
ra để nhìn lại hình những người đã khuất, nhưng tần ngần một lúc, ông lại thôi.
Ông ngồi xuống cái tràng kỷ mà một chân sau được thay bằng bốn cục gạch. Tự
nhiên ông trở nên bé nhỏ mặc dù ngọn đèn làm cái bóng của ông nở to ra, bôi đen
cả chỗ ông ngồi. Ông có vẻ giống như một đứa con có tội đang ngồi lặng nghe những
lời rầy la của mẹ cha. Phải chăng ngôi nhà đã một thời uy nghi lộng lẫy giờ suy
sụp thảm hại là do ông đã bỏ nó mà đi? Bởi vì có ông thì ngôi nhà này ai dám mượn
đến những hai lần. Và vợ có chồng thì ai dám thập thò tán tỉnh. Nói vậy thôi chứ
trong những ngày cách mạng mùa thu, cả kinh đô nhà Nguyễn nằm soi bóng bên bờ
sông Hương còn bị Bảo Đại “bỏ của chạy lấy người” huống hồ là ông.
– Cha chắc chưa ăn gì, tôi nói, – để con
kiếm cái gì làm bữa tối cho cha.
– Khỏi, ông nói, – ta ăn quà rồi. Kiếm
cái gì nhâm nhi thì được. Ta có hai chai bia đây.
Thật là bất ngờ, thay vì sẽ phải ngồi nghe ông tra hỏi, nguyền
rủa, lại được cùng ông ngồi uống la de. Tôi quá vui nhưng cũng rất lúng túng,
vì mới đi cải tạo về chưa được một tuần, biết lấy gì để làm mồi nhậu đây. Tôi
loay hoay mãi, sau cùng đành chạy ra quán nói thật với bà chủ cho mua chịu mấy
cái trứng vịt. Tôi không đủ dầu để làm món trứng tráng chỉ còn mỗi cách là đem
luộc.
Khi trứng chín đã được bóc vỏ trắng muốt, tôi lấy thêm một
chút muối tiêu, trịnh trọng bày lên bàn để mời ông. Lúc đó đã thấy ông để sẵn
hai chai bia La rue hiệu con cọp, giờ là của hiếm. Hai chai bia được cột chặt
vào nhau trông rất lạ, đem từ miền Nam “Mỹ ngụy” ra miền Bắc chống Mỹ anh hùng,
rồi lại lộn ngược vào Nam, cứ như hai số phận long đong đã được an bài.
– Cái này, ông nói, – ta được phân phối
đã hai năm rồi, để dành mãi đến ngày hôm nay đấy.
– Quán hết đá, cha chờ chút để con lên chợ.
– Khỏi, uống không cũng được.
Đó là đại yến mừng ngày đoàn tụ mà nếu cả tộc họ nhà tôi kể
từ ngày lập làng còn sống, nước mắt tủi hờn chắc cũng đựng đầy hai chai la de.
Cha tôi là người mà chính tôi có bổn phận phải lùng diệt. Còn tôi là đứa con đi
theo “giặc” đáng nguyền rủa của cha. Số phận nào lại đưa chúng tôi đối mặt nhau
một cách nghiệt ngã như thế. Ai cũng bảo là do lịch sử, nhưng cái con mãng xà
dài cả ngàn thước ấy, ai đã nhảy lên lưng khiến nó lồng lên suốt mấy chục năm?
Ai đã khiến nó nuốt một lúc hàng chục tiểu đoàn ở cổ thành Quảng Trị? Ai khiến
nó đuổi theo cả vạn người di tản từ Pleiku? Nếu lúc này cha tôi cầm con dao
đang thái trứng kia đâm thẳng vào ngực tôi cũng là do con mãng xà ấy sao?
– Uống đi cha!
– Uống đi con!
Uống để mừng cha con mình đã thoát khỏi cái tội ác lớn nhất
trong đạo làm người vì chiến tranh quá dài đủ để cho cha con giết nhau!
Đêm hôm đó hai cha con tỉnh như sáo không phải vì bia ít quá
không đủ say mà vì chúng tôi bàng hoàng nhận ra dưới đám lá mục của lịch sử, giấu
mặt bao nhiêu là sâu bọ rắn rít, chúng tôi vẫn là cha và là con. Ông nói gần
như suốt đêm về cái dòng họ Trần “rân rác” (ý nói danh giá), về lúa chín tràn bờ,
về bắp trổ đầy soi, về những ngày giỗ chạp heo gà ngả hết con này đến con khác,
về những xe trâu chở lúa từ đồng lớn, đồng dài kẽo kẹt suốt cả tháng, về bằng
thành chung của ông (cả huyện chỉ có hai người đậu), về những ngày đầu cách mạng
bà nội đã đem cả rổ vàng ra cúng vào quỹ cứu quốc. Nhưng tuyệt nhiên ông không
nói gì về những ngày ông đi tập kết. Cũng không hỏi tôi đi lính gì, gây bao
nhiêu “nợ máu” và phải học tập bao nhiêu năm mới “sáng mắt sáng lòng”. Và, im
như băng giá ở Nam cực, ông không hề mở miệng ra hỏi nói gì về mẹ tôi. Tàu
Titanic có ngày còn được khai quật lên để cho mọi người thấy lại cái bi kịch
hàng hải đau thương nhất thế kỷ, nhưng cái mối tình mà từ đó mới có tôi sinh
ra, đụng phải tảng băng của lịch sử (lại lịch sử) bị gãy làm đôi thì ông nhất định
chôn chặt dưới đáy đại dương của lòng mình.
Hai năm trước ngày ký kết hiệp định Geneve, tôi được sinh ra
với một cái bớt đỏ trên môi. Bà nội nói, cha mày cũng có một cái bớt trên má,
nhưng xấu hơn vì là bớt màu đen. Bà nói như thể biết trước cuộc chiến tranh sẽ
còn kéo dài và cha con chúng tôi có thể phải đối mặt nhau ngoài mặt trận. Cha
tôi phải nhớ là đừng bắn vào đứa có bớt đỏ trên môi, còn tôi thì đừng bắn vào
người có bớt đen trên má. Hai cái bớt ấy đã được tổ tiên nhà họ Trần làm dấu để
cha con nhận ra nhau.
Mẹ tôi lấy chồng khác khi tôi lên mười. Tôi ở lại với bà nội.
Điều ấy chắc làm mẹ tôi đau lòng lắm. Bà ôm tôi khóc như mưa. Tôi không biết gì
nhiều về bố dượng, chỉ biết ông ở trong quân đội và cấp bực sau cùng khi Sài
Gòn thất thủ là trung tá.
Nếu trên đời này có những người đàn bà rất tần tảo, rất giỏi
giang, nhưng cũng rất đau khổ chắc phải kể đến mẹ tôi. Sau 1975, chồng bị bắt
đi cải tạo, nhà bị tịch thu, con cái bị đưa đi kinh tế mới… Bao nhiêu tiền của
dành dụm bị mất sạch khi đổi tiền. Vậy mà vẫn phải mua đường sữa, mắm cá đi
thăm nuôi, hết lặn lội ra tận Bắc để thăm chồng sau, lại lộn vào Nam thăm con
chồng trước. Như lúc này đây, nghe đâu mẹ đang ở Bắc.
Những điều ấy tôi muốn tâm sự với cha nhưng ông đã coi như
không có người đàn bà ấy trên đời, thì tôi cũng đành biết vậy mà thôi. Ông ăn
ít, ngủ ít, không ra ủy ban thôn, không lên huyện, lại càng không vào tỉnh và
chưa hề hỏi han hay gặp gỡ những người bạn chiến đấu cũ nay đã là đồng chí bí
thư này, chủ tịch nọ.
Có một lần, tôi rụt rè hỏi, cha cũng có gia đình ngoài đó chứ,
thì ông bảo, hỏi làm chi chuyện đó. Hãy lo cho con đi. Con phải kiếm một người
đàn bà mới giữ được cái nhà này. Ta có còn gì nữa đâu. Cuộc đời ta như một con
cá, khúc ngon nhất là khúc giữa thì bị mèo tha chó đớp. Chỉ còn lại cái đầu và
khúc đuôi, giữ lại mà làm gì.
Giọng ông u uẩn quá, nghe rất thương. Cái khúc giữa đời ông
phải chăng là hơn hai mươi năm ông đi tập kết. Và trong hai mươi năm đó, với
cái lý lịch con địa chủ chắc là ông đã run sợ xiết bao.
Đến ngày thứ năm, mẹ tôi từ vùng đất đỏ Long Khánh ra thăm.
Bà được tin tôi ra khỏi trại cải tạo ngay lúc bà đến thăm nuôi. Khi nghe mấy tiếng
đã được tha, không kịp quay về nhà, bà liền đón xe đi suốt đêm để ra gặp con.
Lúc bà kêu cửa thì trời chưa kịp sáng.
Không như lúc gặp cha, tôi khóc nức nở khi gặp mẹ. Bà cũng
khóc, nhưng tỉnh táo hơn, hỏi: “Khổ lắm phải không con?” Tôi lắc
đầu, chỉ tay vào trong nhà, nói nói thầm vào tai bà: “Cha con đang ngủ
trong đó”.
Tự nhiên tôi cảm thấy như đầu và ngực bà lạnh ngắt. Bà rời
tôi, ngồi sụp xuống đất, cả người bà rung lên. Tôi hiểu bà đang cố kìm giữ tiếng
khóc. Giá như có thể được, chắc bà đã kêu thét lên rồi.
Tôi dìu bà lên thềm, mẹ và con cùng lặng im ngồi chờ sáng.
Bên trong có tiếng ho nhỏ, rồi có ánh đèn lọt qua khe cửa.
Cha tôi bước ra sân, ngửa mặt lên trời, làm một vài động tác
cho đỡ mỏi. Ông định đi ra giếng nhưng khi thấy mẹ con tôi, ông chớp mắt mấy
cái, nói như thể hai người chưa từng xa nhau:
– Kìa, sao hai mẹ con lại không vào trong nhà?
Mẹ tôi đứng lên, một tay nắm tay tôi, một tay quệt nước mắt
nói:
– Ông mới về?
– Phải, mới về được mấy bữa.
– Ông vẫn khỏe?
– Ờ, vẫn khỏe. Bà thế nào? Đường xa chắc là mệt lắm. Này
Tân, con đưa mẹ vào nhà nghỉ, ta ra vườn một lát.
Tôi chưa bao giờ nghĩ tới lúc cha và mẹ gặp nhau. Mọi sự đã
trôi qua rất xa. Phải nói là thật xa, tận trong mịt mờ của quá khứ. Liệu cuộc
trùng phùng không được báo trước này có làm cho họ vì thế mà bớt xa nhau chăng.
– Mẹ chỉ mang theo đồ khô, chẳng có gì mời cha con ăn
sáng. Hay là để mẹ lên chợ kiếm thứ gì.
– Thôi mẹ, chắc cha không thích bày vẽ. Mẹ có mì gói
không?
– Có đây, để mẹ đi nấu nước.
– Việc đó để con, có cái chõng của con, mẹ nằm tạm mà nghỉ.
Một lúc sau, cha tôi vào. Ba bát mì bốc khói được tôi mang
lên.
– Mời cha, mời mẹ, tôi nói.
– Mời bà, cha tôi nói.
– Mời ông, mẹ tôi nói.
Những sợi mì ngập ngừng trôi qua miệng cha.
Tiếng húp nước rụt rè chảy qua miệng mẹ.
Tiếng nhóp nhép trong miệng tôi.
Bỗng mẹ tôi đặt bát xuống mâm, nhìn thẳng vào mặt cha hỏi:
– Ông thù tôi lắm phải không?
– Không.
– Ông nói dối.
– Để làm gì?
– Tôi biết, ông hận tôi. Nhưng nếu như tôi đợi ông đến
hơn hai mươi năm thì tôi được gì?
– Tôi có muốn bà đợi tôi đâu. Chẳng ai đợi ai. Thành thực
mà nói, tôi rất có lỗi với con và bà.
Đột nhiên tôi vọt ra câu hỏi suốt bao nhiêu lâu cứ đè nặng trong
lòng:
– Cha có biết là mình lầm đường không?
Cha tôi hơi bối rối nhưng cũng nói:
– Vấn đề là đừng hỏi biết hay không biết. Một người đã
rơi xuống đáy vực thì có gào lên cũng chẳng ai nghe.
Tôi nói lớn:
– Vậy thì rõ rồi.. Xin cha và mẹ hãy cùng con ăn hết bát
mì. Dẫu sao cũng là một ngày vui.
Chiều hôm đó mẹ tôi xuôi Nam.
Sáng hôm sau cha tôi ra Bắc.
Tôi còn lại một mình.
Thôi hãy lấy vợ, sinh con.
16/9/2010
Khuất
Đẩu