
Bức “Vạn Lý Tường Lửa” của Trung Quốc dựng lên biên giới trên mạng. Hình:
Dailydot
Năm 2006, nhà hoạt động Trung Quốc Lưu Hiểu Ba đã viết rằng “Internet là món
quà của Đức Chúa Trời ban cho Trung Quốc”. Lưu ca ngợi triển vọng cho nhân
quyền của Internet, rằng nó sẽ mở ra một diễn đàn xã hội dân sự đa dạng và thúc
đẩy trách nhiệm giải trình của chính phủ.
Cái nhìn lạc quan của ông không phải là không có căn cứ.
Trong mười năm trở lại đây, lượng người dùng mạng xã hội ở Trung Quốc lớn
hơn bất cứ nơi nào khác trên thế giới. Ước tính, vào năm 2018, sẽ có hơn 600
triệu người sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội tại Trung Quốc trong số
hơn 730 triệu người dùng Internet, chiếm khoảng 1/4 người dùng toàn cầu. Mỗi
người trong số đó lại dành ra khoảng ba tiếng mỗi ngày lướt điện thoại.
Nhìn thấy được sức lan tỏa của Internet, vào năm 2008, Lưu và hàng trăm nhà bất
đồng chính kiến, học giả, nhà văn, luật sư và nhà báo đã công bố lên mạng một
bản tuyên ngôn dân chủ và nhân quyền có tên gọi là “Hiến chương 08”, lấy cảm
hứng từ “Hiến chương 77” do những người bất đồng chính kiến Tiệp Khắc xuất bản
năm 1977. Bản hiến chương này, ngay khi vừa được tung lên mạng, đã thu hút hàng
chục ngàn công dân Trung Quốc ký tên trực tuyến.
Chính quyền phản ứng dữ dội ngay tức thì. Lưu Hiểu Ba đã bị bắt trước khi
Hiến chương được chính thức công bố. Trong lúc đó, chính quyền Trung Quốc đã
khóa trang web nơi công bố bản Hiến chương, đồng thời cử một đội nhân lực cần
mẫn xóa toàn bộ các bản sao trên mạng. Thậm chí, cảnh sát còn được cử đi chất
vấn 303 người ký tên đầu tiên vào bản Hiến chương.
Một năm sau, vào tháng 12 năm 2009, Lưu Hiểu Ba bị kết án 11 năm tù vì “lật
đổ chính quyền nhân dân”. Chưa mãn hạn tù thì ông đã qua đời trong năm 2017, vì
mắc bệnh ung thư. Tin tức về cái chết của ông đã làm dấy lên nỗi đau buồn và
phẫn nộ trên khắp thế giới, với vô số những đêm tưởng niệm tôn vinh vị học giả
xuất sắc đã dành cả cuộc đời để đấu tranh bảo vệ nhân quyền.
Nhưng ở Trung Quốc không mấy ai hay biết gì về chuyện này. Tài liệu về Lưu
bị kiểm duyệt toàn diện trên khắp các nền tảng truyền thông xã hội và internet
– từ các bài thảo luận công khai cho tới những cuộc trò chuyện riêng tư.
Mười năm đã đi qua, thái độ của chính quyền Trung Quốc không có gì quá khác
biệt. Có chăng, cái khác là, chính quyền Trung Quốc đã phát triển khả năng giám
sát mạng xã hội tới mức họ đã có thể bóp chết những ai có tư tưởng kiểu Lưu
Hiểu Ba ngay từ trong trứng nước.
Bài viết này sẽ liệt kê ba cách Trung Quốc nhốt vào lồng sắt cả một hệ thống
mạng xã hội với hơn nửa tỷ người dùng, theo báo cáo mới ra tháng Ba vừa rồi của
tổ chức PEN America.

Một tiệm Cafe Internet ở tỉnh Sơn Tây (Trung Quốc) vào năm 2010.
Ảnh: REUTERS/Stringer.
1. Kiểm soát bằng công nghệ
Nếu như Donald Trump, một trong những người quyền lực nhất thế giới, có 48
triệu người theo dõi trên Twitter, thì nữ diễn viên Trung Quốc Nana, người dẫn
chương trình Khoái lạc đại bản doanh, có tới 90 triệu người theo dõi
trên Sina Weibo.
Weibo có nghĩa là “microblog”, là một nền tảng mạng xã hội cực kỳ phổ biến ở
Trung Quốc. Nó có đầy đủ các tính năng chia sẻ văn bản, ảnh, video, tag tên người
khác, hashtag, v.v. không khác Twitter là mấy.
Song độ phủ sóng của Weibo cũng chưa bằng WeChat. Công ty Tencent của Trung
Quốc ra mắt ứng dụng nhắn tin này vào năm 2011, và cho tới nay nó đã thu hút
hơn 900 triệu người dùng. Nhờ vào mức độ phổ biến này mà WeChat trở thành nền
tảng mua bán hàng hóa và dịch vụ sôi nổi cho các cộng đồng doanh nghiệp.
Trung Quốc không giới hạn mình trong việc phát triển các ứng dụng mạng xã
hội. Qzone, ứng dụng trò chuyện phổ biến trong giới trẻ, có hơn 600 triệu người
dùng, còn diễn đàn Baidu thu hút hàng chục triệu chủ đề thảo luận. Bên cạnh đó,
ứng dụng Douban đóng vai trò như một “đài phát thanh” trên mạng. Giới sinh
viên, trí thức, nhà văn, nghệ sỹ,… sử dụng mạng xã hội này để đánh giá âm nhạc,
sách, phim, và các tài liệu nghệ thuật.
Chúng ta có Youtube thì người Trung Quốc có hơn 200 ứng dụng “live-stream”
(phát trực tiếp video). Ngành công nghiệp này mang lại cho Trung Quốc hơn 3 tỷ
đô-la một năm.
Các hệ thống phủ sóng dày đặc như vậy, không ít thì nhiều, đã cung cấp cho
xã hội Trung Quốc một diễn đàn sôi động, sáng tạo, và phong phú. Năm ngoái, Qi
Xiaoxia, Cục trưởng Cục Hợp tác Quốc tế tại Cơ quan Quản lý Không gian mạng
Trung Quốc (CAC) đã vỗ ngực tự hào mà phát biểu rằng “bạn đoán xem ở Trung Quốc có bao
nhiêu trang web? Chúng tôi có đến năm triệu trang! Điều đó có nghĩa là quyền tự
do ngôn luận và tự do biểu đạt của người Trung Quốc hoàn toàn được đảm bảo.”
Nhưng, ta có thể diễn dịch chữ “tự do ngôn luận” như thế này: người Trung
Quốc chỉ được đảm bảo tự do trước ngôn luận, còn sau đó thì… không.
Mà dẫu có thứ tưởng như là tự do ấy, thì hơn nửa tỷ người sử dụng mạng xã
hội ở Trung Quốc cũng chưa bao giờ thực sự được tự do. Họ còn biết nói về thứ
gì khác nữa, nếu không phải là đồ ăn, phim ảnh, ngôn tình, hoặc là đường lối
Marx, chủ nghĩa Mao, tư tưởng Tập?
Chính quyền không nhất thiết phải nhọc sức thọc tay vào các ứng dụng và bóp
chết những tư tưởng khác lạ. Họ chỉ cần rào hết đất sống của những mầm mống nổi
loạn, bằng một bức tường dày cộp mang tên “Vạn Lý Tường Lửa” – “The Great
Firewall”, nằm trong dự án Golden Shield.

Trung Quốc có đủ các dịch vụ mạng xã hội đáp ứng nhu cầu trong nước
mà khỏi cần đến các dịch vụ nước ngoài. Ảnh: Dragon Social
Lá thư điện tử (email) đầu tiên từ Trung Quốc được gửi đi là vào tháng 9 năm
1987, chỉ hai năm trước khi phong trào dân chủ ở Quảng trường Thiên An Môn bị
đàn áp đẫm máu. Lá thư này do một nhóm các nhà nghiên cứu Trung Quốc gửi tới
một trường đại học ở Đức, với tiêu đề: “Băng qua Vạn Lý Trường Thành, đến mọi
ngóc ngách của thế gian”. Họ, có lẽ, không biết rằng chỉ vài năm sau, viên gạch
đầu tiên của Vạn Lý Tường Lửa đã được đặt xuống để mở màn cho một cuộc rào vây
tư tưởng gắt gao.
Đó là tháng 8 năm 1996, khi chính quyền nhận thức được mối đe dọa từ
Internet và bắt đầu chặn một số trang mạng truyền thông nước ngoài và các nhóm
nhân quyền một cách có hệ thống.
Tuy nhiên, các phương tiện truyền thông xã hội ngày càng nổi lên như một nền
tảng để công dân phơi bày những câu chuyện tham nhũng và quản lý kém của chính
quyền. Lan truyền dữ dội nhất có lẽ là tin tức về trận động đất Tứ Xuyên đã
cướp đi 90.000 mạng sống vào năm 2008. Mặc dù các phương tiện truyền thông nhà
nước như Tân Hoa Xã hay đài CCTV không được phép đưa tin do các nghị định của
chính phủ, song tin tức vẫn nhanh chóng len lỏi khắp các diễn đàn mạng xã hội.
Người dân Trung Quốc chỉ trích phản ứng của chính quyền, tố cáo tham nhũng, lên
án hành vi che đậy thảm họa.
Kể từ đó, truyền thông mạng xã hội ở Trung Quốc bước sang một bước ngoặt
mới: trở thành một không gian thay thế cho công dân để lên tiếng về các sự vụ
khẩn cấp, bên lề các báo cáo chính thức của chính phủ. Nhưng chính quyền Trung
Quốc đủ thông minh để nhận ra điều này.
Vài tháng sau, cả Twitter và Facebook đều bị chặn, vào năm 2009. Một năm sau
đó, Google tự đóng cửa và biến mất khỏi cõi mạng Trung Quốc, vì không đồng ý
tuân theo các mệnh lệnh kiểm duyệt cũng như giám sát người dùng.
Một số trang web khác mà chính phủ cho là có thể nguy hiểm, như Wikipedia,
Bloomberg, tờ New York Times, và các ấn phẩm quốc tế lớn khác cũng bị chặn hoàn
toàn hoặc tạm thời cho vào danh sách đen. Nhiều từ khoá bị chặn tuyệt đối, chẳng
hạn như về vụ thảm sát Thiên An Môn hoặc Phong trào Umbrella của Hong Kong.
Các tài liệu bị coi là đe dọa đối với sự ổn định chính trị cũng bị cấm. Các
nhà kiểm duyệt luôn túc trực ngăn chặn bất kỳ sự cố nào liên quan đến Tây Tạng
hoặc khu tự trị Tân Cương, nơi có nhóm thiểu số người Hồi giáo Uighur, và cả
phong trào Pháp Luân Công.
Các phương pháp chính của “Tường lửa” là điều chỉnh băng thông, lọc từ khóa
và chặn quyền truy cập vào các trang web nhất định, bằng cách sử dụng công nghệ
kiểm tra sâu rộng để phát hiện từ khóa.
Trung Quốc, từ đây, đã phải móc hầu bao để phát triển các hệ thống các
phương tiện xã hội của riêng mình, không chỉ nhằm mục tiêu kinh tế mà còn để
kiểm soát công dân. Đó chính là mảnh đất béo bở cho những Weibo, WeChat, Qzone.

Chính quyền Trung Quốc kiểm duyệt cả Gấu Pooh vì… giống Tập Cận Bình.
Ảnh: Daily Express.
2. Thiên la địa võng các quy định pháp luật
Hiến pháp Trung Quốc, cũng như Việt Nam, ghi nhận quyền tự do ngôn luận và
tự do báo chí của công dân.
Nhưng cả hai nước “bạn vàng” này có một điểm chung: mặc dù Hiến pháp đảm
bảo, nhưng hệ thống luật pháp lại tấn công trực diện vào các quyền này với các
biện pháp xử phạt cả hành chính lẫn hình sự.
Hệ thống kiểm duyệt của Trung Quốc vận hành nhờ mạng lưới phòng ban dày đặc,
như Văn phòng Thông tin Hội đồng Nhà nước (SCIO), Bộ Công nghiệp và Công nghệ
Thông tin (MIIT), Tổng cục Báo chí – Xuất bản – Phát thanh – Điện ảnh – Truyền
hình Nhà nước (SAPPRFT), tất cả các cơ quan này đều có thể ra lệnh kiểm duyệt
đối với mọi tổ chức truyền thông cũ mới.
Năm 2011, Văn phòng Thông tin Internet Nhà nước (SIIO) đã được thành lập như
một nhánh dưới của SCIO, với mục đích hướng dẫn và giám sát kiểm duyệt
Internet.
Tới tháng 11 năm 2013, Trung ương Đảng Cộng sản tuyên bố thành lập một nhóm
chiến lược cấp cao, gọi là Nhóm Lãnh đạo Trung tâm An ninh và Thông tin
Internet, do Tập Cận Bình đứng đầu. Điều này cho thấy mối quan tâm đặc biệt của
Tập đối với việc giám sát Internet. Kể từ đây, SIIO đổi tên thành Cơ quan Quản
lý Không gian mạng Trung Quốc (CAC), bắt đầu báo cáo trực tiếp việc kiểm duyệt
Internet cho nhóm lãnh đạo.
Trong khi CAC nổi lên như một cơ quan trung ương để kiểm duyệt trực tuyến,
thì các nhà cung cấp dịch vụ internet vẫn bị ảnh hưởng bởi các quyết định pháp
lý từ các cơ quan chính phủ khác, nhất là SAPPRFT và Bộ Văn hóa, khi hai cơ
quan này có thể ra các văn bản trực tiếp điều chỉnh hành vi của nhà cung cấp
mạng.
Ngoài ra, các công ty internet cũng phải tuân thủ các chỉ thị do Phòng Tuyên
truyền Trung ương ban hành, một cơ quan trực thuộc đảng Cộng sản.
Nhà chức trách tuy nhận ra rằng các cơ quan quản lý internet đang chồng chéo
quyền hạn lên nhau, song họ coi đây là cách để các cơ quan này phải dè chừng
lẫn nhau và rồi phải tiến hành kiểm duyệt khắt khe hơn.
Với hàng chục luật liên quan đến việc kiểm soát internet, Trung Quốc đã tạo
nên một khuôn khổ pháp lý vững chắc để phát huy tối đa việc kiểm duyệt bằng
công nghệ.
Năm 2000, Hội đồng Nhà nước đã ban hành các Biện pháp Quản lý các Dịch vụ
Thông tin Internet, theo đó sẽ áp đặt các biện pháp trừng phạt lên các nhà cung
cấp dịch vụ khi “sản xuất, hỗ trợ sản xuất, phát hành, hoặc phát sóng” những
thông tin theo một danh sách mơ hồ. Có thể kể ra một vài thông tin xử
phạt trong danh sách này, như “lật đổ chính quyền”, “gây nguy hiểm cho tính
toàn vẹn của sự thống nhất đất nước”, “làm tổn hại đến danh dự hoặc lợi ích của
quốc gia”, hay “làm gián đoạn tình đoàn kết của nhân dân”.

“Uh oh. Anh ta tìm kiếm từ khoá ‘nhân quyền’ quá nhiều lần”.
Tranh: Nicholson.
Vậy là, dưới áp lực từ các điều luật mơ hồ này, giới công ty internet ở
Trung Quốc phải “tự kiểm duyệt”, theo dõi và rà soát người dùng của họ một cách
chặt chẽ hơn bao giờ hết.
Trong vài năm qua, khung pháp lý này thậm chí còn liên tục được nâng cao,
song song với tốc độ phát triển của công nghệ kiểm duyệt của nhà nước.
Điển hình, nhà hoạt động Zhang Guanghong đã bị bắt vào mùa thu năm ngoái khi
chia sẻ một bài báo với một nhóm bạn bè trong và ngoài Trung Quốc chỉ trích Tập
Cận Bình, thông qua ứng dụng Whatsapp. Rõ là đây là ứng dụng của Mỹ, thuộc sở
hữu của Facebook mà hầu như không ai sử dụng ở Trung Quốc.
Không ai biết được chính quyền Trung Quốc tiếp cận thông tin này bằng cách
nào, vì Facebook không có mặt tại Trung Quốc, còn Whatsapp thì tự nhận là có
khả năng mã hóa tin nhắn một cách hết sức bảo mật.
Bộ luật Hình sự của Trung Quốc cũng bao hàm một loạt các tội mơ hồ như “phá
hoại chủ quyền quốc gia” hay “lật đổ chính quyền nhân dân”, kéo theo hình phạt
tù lên đến hàng chục năm. Trong thực tế, các điều luật này được đem ra áp dụng
để chống lại những người bất đồng chính kiến và các nhóm thiểu số. Tội phỉ báng
được quy định tại điều 246 của Bộ luật Hình sự cũng mơ hồ không kém, và nó còn
áp dụng cho cả các phát biểu trên mạng. Ngoài ra, cáo buộc “cãi vã và gây rối”
trong điều 293 của luật này cũng được chính quyền sử dụng để tấn công các phát
ngôn chống đối trên internet.
Cụ thể, vào năm 2013, Tòa án nhân dân tối cao Trung Quốc đã ra một phán
quyết rằng “các tin nhắn hoặc bài viết trên mạng có thể bị coi là vi phạm pháp
luật ‘nghiêm trọng’ nếu nội dung sai phạm được nhấp vào hơn 5.000 lần hoặc được
chia sẻ hơn 500 lần”. Hình phạt cho tội này lên tới ba năm tù.
Khắt khe hơn, vào tháng 5 năm ngoái, CAC phát hành một bộ quy tắc quản lý,
theo đó chỉ các cổng thông tin trực tuyến được chính phủ phê duyệt mới được
phép xuất bản hợp pháp các báo cáo hoặc các bình luận. Đây không khác gì một
lệnh cấm, rằng công dân không được sử dụng mạng xã hội để báo cáo hoặc phân
tích các diễn biến chính trị, thiên tai, hoặc bất cứ sự kiện chính trị nào mà
chính quyền có thể quy là nhạy cảm.
Không chỉ vậy, CAC còn ban hành Quy định quản lý dịch vụ Internet, yêu cầu
nhà cung cấp dịch vụ phải cắt mạng của những ai không xác minh danh tính bằng
số điện thoại, nhận dạng, chứng minh thư. Cùng với đó, người dùng sẽ được xếp
hạng về mức độ tuân thủ các quy định của nhà nước, và chính quyền có quyền truy
cập vào các xếp hạng này.
Từ năm 2012, Sina Weibo đã là ứng dụng đầu tiên cập nhật hệ thống xếp hạng.
Người dùng sẽ có 80 điểm, và nếu bài đăng của họ vi phạm các nguyên tắc kiểm
duyệt thì họ sẽ bị trừ điểm dần dần.
Những hệ thống này không chỉ nhằm kiểm soát hành vi con người, mà còn mang
đầy tham vọng trong việc theo dõi tư tưởng công dân bằng điểm số, từ đó liên
kết điểm số này với các phúc lợi xã hội mà công dân có thể nhận được. Chẳng
hạn, nếu điểm thấp, một công dân có thể bị đóng tài khoản ngân hàng, không được
kinh doanh thương mại, không được đi tàu lửa và mua vé máy bay, vân vân. Chính
những nỗi lo sợ bị cô lập khỏi xã hội như vậy sẽ triệt tiêu mầm mống tự do trong
mỗi công dân.

Người dùng Internet tại Trung Quốc bị chính phủ chấm điểm. Ảnh: Getty.
3. “Chủ quyền không gian mạng”
Nhìn chung, luật pháp Trung Quốc được thiết kế để đảm bảo cái gọi là “chủ
quyền không gian mạng” của quốc gia, tức là kiểm soát không gian mạng bên trong
biên giới. Những cải cách quan liêu gần đây dưới chính quyền Tập Cận Bình đã
cho phép chính quyền thúc đẩy mục tiêu này mạnh mẽ hơn, và nghiêm trọng hơn.
Trong khi cả thế giới đang ngày càng lo ngại về sự lây lan của thông tin sai
lạc, về an ninh mạng, và về một hệ thống internet lành mạnh, thì Tập đã đưa ra
diễn ngôn về chủ quyền không gian mạng như một giải pháp hợp lý và chu đáo. Đây
chính là tầm nhìn từ chối chủ nghĩa toàn cầu của internet, với ý tưởng rằng mỗi
quốc gia có quyền định hình và kiểm soát internet trong biên giới riêng của
mình.
Ý thức hệ này được lồng ghép vào trong Luật An ninh mạng, đã đi vào hiệu lực
từ tháng 6 năm 2017.
Trên danh nghĩa “chủ quyền”, các nhà chức trách đã coi luật này là một nỗ
lực nhằm đảm bảo an ninh thông tin và bảo vệ lợi ích quốc gia. Họ cũng lập luận
rằng luật này giúp bảo vệ sự riêng tư của cá nhân bằng cách yêu cầu các công ty
phải đưa ra các biện pháp bảo vệ dữ liệu.
Song thực sự, Luật An ninh mạng lại áp đặt nghĩa vụ kiểm duyệt lên các công
ty mạng mạnh mẽ hơn bao giờ hết.
Điều 12 của luật cấm các cá nhân sử dụng internet để thực hiện các hoạt động
mơ hồ như “gây nguy hiểm cho an ninh quốc gia”, khi mà khoản cấm đoán này đã
tồn tại trong Bộ luật Hình sự. Điều 47 lại buộc các nhà mạng phải ngăn chặn
việc lan truyền các hành động bất hợp pháp đó, và công ty nào vi phạm có thể bị
phạt tới 80.000 đô-la. Thậm chí, đối với những nhân viên công ty chịu sai phạm
cá nhân, họ có thể bị phạt 15.000 đô-la, tương đương với mức lương cả năm của
một người trung lưu ở Trung Quốc.
Chính quyền nước này không nói suông. Vào tháng 8 năm 2017, cả Tencent,
Weibo, Baidu đều bị điều tra và phạt tiền.
Một khía cạnh khác đáng chú ý của Luật An ninh mạng là, nó buộc các công ty
nước ngoài phải lưu trữ dữ liệu của người dùng Trung Quốc trên các máy chủ đặt
tại Trung Quốc, và dĩ nhiên chính quyền có thể can thiệp vào hệ thống dữ liệu
này. Đây là một phần quan trọng của ý tưởng “chủ quyền trên mạng”. Công ty nào
không tuân thủ có thể bị phạt tới 150.000 đô-la và đối mặt với án phạt hình sự.
Các công ty nước ngoài đầu tư vào Trung Quốc, theo đó, đang phải chịu áp lực
rất lớn cả về pháp lý lẫn kinh doanh và đạo đức nghề nghiệp.

Gã khổng lồ thương mại điện tử Amazon cũng phải đặt một số lượng lớn
máy chủ của mình ở Trung Quốc. Ảnh: Digital Commerce 360.
Vượt tường lửa bất thành
Trước kia, Ultrasurf, Psiphon và Freegate là các chương trình phần mềm phổ
biến cho phép người dùng Trung Quốc vượt tường lửa. Thế nhưng hàng loạt chương
trình này đã bị đội ngũ có tay nghề của Trung Quốc bẻ gãy vào năm 2015.
Về sau, nếu các “dân cư mạng” Trung Quốc muốn đọc được tin tức từ nhiều báo
nước ngoài hoặc truy cập vào các trang web bị chặn, thì cách hữu dụng nhất và
cũng duy nhất chính là sử dụng mạng ảo VPN.
Song giờ đây, những nỗ lực vượt tường lửa đã bị ngăn chặn tức thời. Vào
tháng 1 năm 2017, Bộ Công nghiệp và Công nghệ thông tin của Trung Quốc ra tuyên
bố yêu cầu tất cả các nhà cung cấp VPN phải được chính phủ phê duyệt. Những nhà
cung cấp VPN trái phép sẽ bị đóng cửa.
Trong suốt mùa hè năm ngoái, nhiều nhà cung cấp VPN nổi tiếng ở Trung Quốc
như Green VPN và VPN Haibei đã tạm ngưng dịch vụ sau khi nhận được thông báo từ
các phòng ban chính phủ.
Tới tháng 7 năm 2017, Bloomberg đưa tin rằng chính phủ Trung Quốc đã ra lệnh
cho ba công ty viễn thông lớn là China Mobile, China Unicom, và China Telecom
chặn hoàn toàn quyền truy cập VPN, và lệnh này sẽ đi vào hiệu lực vào năm 2018.
Cũng trong tháng 7, Apple tuyên bố xóa hàng trăm VPN từ App Store ở Trung Quốc.
Cuối năm ngoái, một người tên là Wu Xiangyang đến từ khu tự trị Quảng Tây đã
bị kết án năm năm rưỡi tù giam vì bán VPN không có giấy phép. Song đây chỉ là
một trong số rất nhiều trường hợp tương tự.
Người Trung Quốc đang bị đặt vào một tình thế bức bách hơn bao giờ hết. Đáng
nguy là, tình cảnh thê thảm này rất có thể chính là một tương lai mơ mịt cho
chính cư dân mạng Việt Nam chúng ta, khi chính quyền Việt Nam lúc nào cũng chăm
chăm học theo những trò xảo thuật của quốc gia phương Bắc.
Vi Yên