GULAG Labour Camp
Con đường xương trắng chắc không tránh khỏi gợi nhớ lại “Xương
trắng Trường Sơn “, tập 2 trong bộ bút ký gồm 5 tập “Đường đi không đến” của
nhà văn Xuân Vũ . Nhắc lại truyện “Xương trắng Trường Sơn” là có ý muốn nói nơi
nào có cộng sản là có dân phơi xương trắng lót đường cho cộng sản xây dựng sự
nghiệp .
Ở đây, “Con đường xương trắng” là con đường nối liền Cộng
hoà Iakoutie hay Sakha của Sibérie tuyết phủ quanh năm với thành phố cảng
Magadan của Vladivostok dài 1600 km xây dựng bằng những bộ xương của tù Goulag
.
Sau cách mạng nga một thế kỷ và nhơn dịp Tổng thống Poutine
vừa tái đắc cử, hai ký giả của tuần báo Marianne (4/2018), Michael Prazan và
Louis Didaux, tới xứ Iakoutie tìm lại vết tích của “Con đường xương trắng” do
Staline chủ trương xây dựng .
Con đường xương trắng
Hai nhà báo pháp tới phi trường Iakoutie được một thanh niên
ra tận phi trường đón với lời chào vui vẻ và thân thiện “Chào mừng hai vị khách
tới thành phố lạnh nhứt thế giới” . Thanh niên này độ chừng ba mươi tuổi nói tiếng
pháp sành sỏi, hiện là giáo sư văn chương và cổ ngữ la-tinh của Đại học
Iakoutsk . Ông phải làm thêm công việc hướng dẩn du khách ngoại quốc để đủ
trang trải qua tháng . Nhưng du khách tới thăm viếng vùng đồng bằng lạnh lẻo
này và nhứt là vết tích trại tù “cải tạo” (goulag) của Staline cũng không phải
là nhiều .
Hai nhà báo đặt chơn xuống thủ đô Sakha, một vùng mênh mong
hoang vắng ở trung tâm Sibérie (Tay-bá-lợi-á) vào đầu mùa xuân nên nhiệt độ
tương đối dễ chịu . Tuy nhiên, nhìn lại điện thoại cầm tay thì đã mất điện mới
biết trới đang -32°c . Một cái lạnh khô nhưng cắt da mặt và chỉ trong vài giấy
là điện thoại trở thành vô dụng .
Ở Iakoutie, mọi người đều còn giử kỷ niệm về trại tập trung
(goulag) vì đều có liên hệ xương máu với nơi đó . Dỉ nhiên có cả giáo sư Vadim
. Bà nội của ông là lao động khổ sai để xây dựng con đường Kolyma mà sau này
dân chúng đặt tên là “Con đường xương trắng” vì số tù khổ sai mỗi ngày gục ngã
không dưới 25 người do đói, kiệt sức hoặc bị cán bộ quản giáo bắn . Con đường
dài 1600 km quanh năm phủ băng giá . Thế mà nó vẫn cầm cự với thời tiết khắc
nghiệt như vậy chỉ nhờ những khối gổ và những hố tập thể chất đầy những bộ
xương của tù cải tạo (zeks) làm nền móng .
Iakoutsk có 300 000 dân phát triển dựa theo hệ thống trại tù
. Nhà cửa gồm những dảy nhà tù mù theo kiểu staline bên cạnh một số kiến trức
tân thời nhưng vẫn còn khá nhiều những căn nhà sàng tồi tàn lợp tole và gổ .
Nơi đây quanh năm bị phủ một lớp tuyết cao nhiều thước nên người ta chỉ ở từ từng
2 trở lên .
Ở đây người ta nói tiếng iakoute, tức tiếng nói của xứ
Iakoutie, hoàn toàn khác với tiếng nga . Vết tích của thời Lien-xô vẫn còn . Tượng
Lénine đứng ngay trước Thủ phủ Sakha, chìa tay như để đón tiếp những người tù
đã giác ngộ xã hội chủ nghĩa nhờ được cải tạo trở về .
Cộng hòa Iakoutie một nước thành viên của Liên xô thế mà lại
không bao giờ chịu phụ thuộc vào chánh quyền trung ương ở Mạc-tư-khoa (Moscow),
trái lại thường xuyên nổi loạn chống lại Moscow . Vào mùa hè không thể tới đây
bằng đường bộ được vì sông ngòi làm lũ lụt . Mục tiêu hàng đầu của chế độ liên
xô là giáo dục kẻ thù giai cấp và đào tạo những con người mới bằng cách, năm
1923, thiết lập những trại tập trung .
Thời gian qua, Cộng hòa Iakoutie trở thành một thứ quốc gia
trong một quốc gia, nhờ trên 20 triệu sanh mệnh nhân dân . Những người tù khổ
sai đầu tiên là những tù chánh trị, những kẻ phá hoại, tức những người cộng sản
bị nghi ngờ theo Tostkistes hoặc xu hướng khác, không tuyệt đối trung thành với
Staline, và sau cùng là những kẻ thù giai cấp. Staline chủ trương phải xây dựng
con người mới xã hội chủ nghĩa bằng lao động và sự thiếu thốn kham khổ .
Đến giữa thập niên 30 và cuộc đại khủng bố, chủ trương bắt đầu
thay đổi . Phải cung cấp nhơn công cần thiết phát triển các trại tập trung
(goulags) . Trước tiên Moscou nhắm tới vùng trung tâm Sibérie nơi có nhiều
khoáng sản và khí đốt . Thế là nhiều đảng viên đảng cộng sản, sĩ quan của Hồng
quân, cán bộ hành chánh, nghệ sĩ được đưa tới . Trong những người bị đày này có
cả không ít tù thường phạm . Vì nhu cầu nhơn công quan trọng nên nhiều người đầu
hôm sớm mai có thể bị công an chỉ mặt là kẻ thù của nhơn dân để bị đưa đi tới
trại lao động .
Một phụ nữ ngày nay giữ bảo tàng viện do chính sáng kiến của
bà lập ra cuối năm 80, sau khi bà nghỉ huu, ở từng trêt của ngôi trường mẫu
giáo để trưng bày những thứ như cuốc xẻng, đinh ốc rỉ xét, giày giép, đồ dùng của
tù nhơn tìm được dọc theo Con đường xương trắng, kể lại bản thân của bà bị đi
tù lao động khổ sai 6 năm, bị buộc tội phá hoại tài sản xã hội chủ nghĩa vì bà
ăn cắp một củ khoai lang . Nhưng sau đó, bà bị tăng thêm 6 năm tù nữa do bà lao
động chểnh mảng, thiếu tinh thần tích cực phục vụ .
Theo bà thì bảo tàng viện của bà chỉ thu hút du khách ngoại
quốc . Người Nga không có mấy ai quan tâm đến lịch sử của con đường này .
Người phụ nữ này là di dân tới đây do mức lương ở đây khá
hơn nhưng phải làm việc trong điều kiện khí hậu khắc nghiệt trong lúc đó ở
Moscou kinh tề bị khủng hoảng. Tù cải tạo (zeks) phải làm việc ngày 12 giờ . Bửa
ăn luôn luôn chỉ có 1 miếng bánh mì đen với 1 dỉa súp lỏng . Ai cũng đói khát
thường xuyên . Người nào kiệt sức liền bị cán bộ bắn bỏ . Kẻ còn chịu đựng được
chiều đến tranh nhau phần ăn còn lại của kẻ xấu số .
Đến năm 1956, các trại tập trung bị giải tán thì vùng này trở
thành hoang vắng bóng người . Có nơi trước kia khi còn các trại cải tạo có hơn
2000 người sanh sống thì nay chỉ còn không tới 600 người . Nhưng những vết tích
những trại tù cải tạo hảy còn lại đây đó cầm cự dưới áp lực của lớp tuyết và độ
lạnh -50°c – 60°c . Có nhiều nơi vào mùa đông đi tới dễ dàng vì khắp nơi phủ
băng giá nên xe chạy trên đó được và nhờ đó khoảng cách trở thành ngắn hơn đường
bình thường . Có vài căn trại còn khá tốt với cả dụng cụ bằng thép như chảo,
như lò sưởi .
Ngày nay, giử và bảo tổn những gì còn lại từ các trại tập
trung và nhà nước có nên ban hành luật nhìn nhận là di tích lịch sử hay không
trở thành những cuộc thảo luận chưa ngã ngũ . Vì nhiều người muốn thanh toán sạch
những vết tích thời Staline để tránh nhắc lại một giai đoạn đen tối của lịch sử
đát nước .
Ở các trại tù, rất ít quản giáo và lính canh gác bởi tù nhơn
không trốn trại được . Không có lối thoát . Người ta chết trước khi gặp được một
căn nhà để có thể vào xin tạm trú lạnh . Tuy nhiên, theo dò hỏi thì thỉnh thoảng
vẫn có người vượt thoát .
Cộng sản ở Việt nam lập trại tù khắp nơi nhưng đó có phải
là goulag không ?
Từ năm 1917, nơi nào cộng sản tới là lập tức ở đó xuất hiện
trước tiên những trại tập trung để nhốt kẻ thù giai cấp, cải tạo những người
chưa giác ngộ cách mạng . Dĩ nhiên Việt nam từ khi có Hồ Chí Minh không thể ngoại
lệ . Nhưng trại tập trung ở Việt nam có phải là goulag hay giống goulag
của Staline hay không, thiết nghĩ có lẽ nên tìm hiểu goulag để có
ý niệm rõ ràng .
Nghĩa của chữ goulag là Ban Tổng Giám đốc những
trại giam . Nhưng tiếng goulag được dùng để chỉ hệ thống những trại
lao động khổ sai ở Liên xô nơi giam giữ tù chánh trị, những người chống lại chế
độ . Mục đích là dùng sự trừng phạt và sợ hải để bảo đảm đặc tính không thể đảo
nược của cách mạnh liên xô .
Thành lập từ năm 1918, nối tiếp nhà tù khổ sai của chế độ
Nga hoàng, những trại tù lao động khổ sai của cộng sản đặt dưới quyền các Bộ
như Nội vụ, Tư pháp . Tới năm 1934, những trại tập trung này do một cơ quan duy
nhứt quản trị, đó là Tổng Giám độc các trại tập trung (Goulag), trực thuộc Ủy
ban Nhơn dân Nội vụ, một thứ công an chánh trị của Liên xô .
Ngoài nhiệm vụ chánh trị, Goulag dưới thời Staline còn có
vai trò kinh tế và đó là một trong những động cơ kỹ nghệ hóa Liên xô . Những tù
cải tạo (zeks) được sử dụng xây dựng hạ từng cơ sở giao thông như hệ thống kênh
đào, đường sắt …, khai thác lâm sản, hầm mỏ, sản xuất kỹ nghệ .
Goulags giam giữ những người bất đồng chánh kiến, ly khai,
chống chế độ Liên Xô . Dĩ nhiên cũng có ít tù thường phạm . Năm 1953, Staline
chết, Liên xô có nhiều ngàn trại tù, gom lại thành 476 trung tâm, nằm rải rác ở
vùng bắc cực và Sibérie . Theo các sử gia, có từ 15 đến 18 triệu tù nhơn bị
giam giữ ở đây trong số đó có lối 10% tử vong .
Dưới chế độ Staline, có nhiều nhứt các trại tập trung . Và
các trại được giảm dần và đời sống của tù nhơn cũng lần lần được cải thiện khi
Staline bị hạ bệ . Đến năm 1986, các trại đều đóng cửa khi Gorbatchev nắm quyền
và ban hành chánh sách glasnost .
Theo nghĩa rộng và phổ thông, goulag chỉ hệ thống
trại giam tập trung giam giữ tù chánh trị trong một chế độ cộng sản toàn trị .
Như Liên Xô. Như Tàu, như Khờ me đỏ, … . Ở Việt nam, Hồ Chí
Minh vốn là đệ tử chân truyền của Staline (40%) và Mao (60%), thì các trại tù tập
trung tổ chức rải rác từ Nam ra Bắc cho tới ngày nay chắc chắn không gì khác
hơn là «goulag ma-dê in hồchí minh»!
Nguyễn thị Cỏ May