Anh là công dân Mỹ mà không ở Mỹ. Tôi là công dân Úc mà ở Âu
châu. Nên thường hay gọi đùa nhau là người Việt gốc… cây. Chúng tôi cùng viết lách trên một cái blog nho nhỏ
không nổi tiếng của một người
bạn thi sĩ. Phần lớn người viết là bè bạn thân nhau thời đi học, cùng lớn
lên trong một thành phố ở quê nhà, và số còn lại thì quen biết nhau qua thời
gian cùng cộng tác trên những tờ báo ở hải ngoại. Có người tôi từng gặp ở ngoài
đời, cũng có người tôi chưa biết mặt, nhưng thân và hiểu nhau vì những tâm tình
trao gửi trên chữ nghĩa.
Tôi thường
không thích đọc bài vở được đăng trên internet mặc dầu không gặp
trở ngại trong việc xử dụng những phương tiện điện tử, bởi vẫn thích cái
cảm giác được mở một cuốn sách, được náo nức lật những trang giấy còn thơm tho
mùi mực. Tôi hay nhớ thuở nhỏ, sau giờ ăn trưa là ra hàng hiên ngồi chờ người
giao báo để nhận những tờ nhật trình mới tinh tươm được mang ra từ Saigon. Và
tôi đã buồn biết bao nhiêu khi các tờ
tạp chí văn chương in bằng giấy ở hải ngoại chết dần chết mòn rồi đình bản
hẳn.
Tuy nhiên dầu muốn hay không muốn, cuối cùng tôi cũng phải
chấp nhận báo điện tử, cũng phải đọc bài của bạn bè được “post” lên các trang
báo mạng nếu như không muốn mất dấu nhau. Anh giễu tôi:
- “Thôi thì thôi nhé cũng đành thế thôi”… Sống vào thời buổi
nào thì phải chịu lép vế theo trào lưu phát triển của xã hội thời ấy. Ngày xưa
thì các cụ đồ nhà mình cũng phải vất bút lông xài bút sắt, vất chữ Nôm xài chữ
quốc ngữ, và vất cả áo thụng xài áo chemise, thì văn chương phú lục trên
internet cũng phải nhập môn nhà tụi mình mà…
Anh nhại cải lương, bảo:
- H.N ở toàn các chốn thành đô đầy xa hoa rực rỡ, internet
mà lỡ có trục trặc một chút, gọi điện thoại than phiền một hồi là được sửa
ngay, chứ mình ở đây, “mất mạng” là chuyện thường tình nên đâu có dám chê báo
điện tử!
Tôi và anh
sống cách xa nhau hằng nghìn dặm. Tôi từ Âu châu “qui cố
hương” về lại Úc, nơi đã đón chân mẹ con tôi gần ba mươi năm trước. Tôi về đi học lai rai chờ ngày định cư sang Hoa Kỳ.
Anh giễu tôi:
- H.N đi không biết mỏi
chân, hết sống ở châu này qua châu kia cứ như bươm bướm, như chuồn chuồn mà cũng bày đặt dùng hai chữ định cư!
Tôi hỏi lại:
- Nhưng anh cũng nói anh đã “định cư” ở Mỹ thì sao?
Anh bật cười. Tôi
bị anh trêu là dân Bohemian, dân “international”, sống năm châu bốn bể thì anh cũng đâu có hơn
gì. Nếu
không muốn nói anh còn “rày đây mai đó” như cơm bữa nữa là khác.
Anh đi lính. Nằm
trong lực lượng đặc nhiệm, được (hay bị) thiên hạ đặt cho cái tên thật rùng rợn,
“hunter killer”. Chỗ trú quân thường nhất làTrung Đông, A Phú Hãn và khu vực
Tây Nam châu Á. Vì vậy tùy theo nhiệm vụ được giao mà anh sẽ vác ba lô lên đường. Anh vẫn hay
đùa “đi bất cứ nơi nào khi tổ quốc…chẳng cần mình bảo vệ gì cả”. Gần như tỉnh thành nào ở
các khu vực trên anh cũng phải đi
qua, phải sống ít nhất là vài
năm. Rồi từ Á, Lào, Campuchia, Trung Hoa, Nhật sang Âu, Ý, Đức…,
thỉnh thoảng Do Thái, Iran, Iraq,
anh đều phải có mặt. Miền Trung Đông là nơi anh qua lại, tới
lui y như người ta đi từ Bolsa qua chợ… Phước Lộc Thọ. Nhóm chữ “dễ mất mạng” anh dùng để đùa với tôi gồm
cả hai nghĩa, mất mạng internet lẫn mất cả mạng thật của mình. Tôi nói:
- Việt Nam chiến
chinh hai mươi mấy năm coi bộ còn chưa “đã”, nên qua tới Mỹ anh vẫn đầu quân đi lính. Bày đặt than thở “bận hành quân nên chắc khó thăm nhau” nghe bực cả mình!
Anh bật cười:
- Thì đời lính chiến, đời
quân ngũ giống như cái nghiệp. Y như H.N thích viết văn làm thơ, có phải tự nhiên mà bị dính vào nó đâu… Mà đã “nghiệp” thì phải chịu chứ biết sao
giờ.
Lúc đầu anh không
nói tại sao sang đến tận bên này, sống trong một đất nước tự do, không
ai bắt buộc và tuổi thì cũng đã qua thời phải làm nghĩa vụ quân sự mà vẫn dính vào nghiệp lính. Anh chỉ kể về đời lính chiến cho tôi nghe,“sau Al Asad bên Iraq thì mình bị đi
qua Afgha mất mấy tháng, chỗ Camp Marmal (Mazar-e-Sharif). Cái trại này nhỏ…
híu, thuộc ISAF (*), do lính Đức quản trị, chùm nhum lính của hai mươi ba nước
chen chúc. Mùa đông lạnh có lúc dưới độ âm, lạnh tê tái. Đông đúc quá,
nên tắm nước lạnh cũng phải sắp hàng cỡ một tiếng, và một tiếng khác mới
chen lọt vào nhà ăn là chuyện thường ngày ở những cái huyện cà chớn đó…”
Anh thường
hay chơi chữ khi viết lách và
trò chuyện, nên dùng tựa truyện “chuyện thường ngày
ở huyện” của nhà văn Nga, Valentin
Ovechkin, để nói về cái “huyện cà chớn” mà anh đang sống. Nếu tính ra
từ Mỹ bay qua Afgha mất chừng bảy ngàn dặm, thì thật ra có thể nói đó
làmột đoạn đường không mấy
dài. Với những người hay đi như chúng tôi, mười ba tiếng đồng hồ tính cả lên xuống,
chờ máy bay cất cánh, đáp cánh thật chẳng nhiều. Anh
nói:
- Thì đúng là sau khi yên vị, chỉ cần ngồi ngó chiêu đãi
viên chỉ vẽ những thao tác khẩn cấp
trong trường hợp máy bay gặp nạn, nhấp nháy coi hai, ba bộ phim; ăn một, hai bữa, rồi nghe phi công trưởng thông báo khóa, mở dây an toàn, cộng thêm vài ba cập nhật tin tức vân vân, là đã thấy tới nơi. Thiên hạ nhiều khi đi du lịch, còn phải trải qua cả nghìn nghìn dặm từ
nơi này sang nơi nọ, có người lắm khi có thể ngồi chờ ở phi trường hằng giờ để lấy một cái vé
last minute chỉ vì muốn đi viếng
một phong cảnh đẹp, một
nơi nổi tiếng nào đó... Bảy ngàn dặm
đúng là “chuyện nhỏ”
thiệt!
Tôi đáp:
- Nhỏ thiệt, nhưng vượt bảy ngàn dặm không phải về quê hương thăm gia đình, không phải đi nghỉ mát, không cả vì làm ăn business thường
tình như thiên hạ, mà lại lăn vào một chỗ chẳng biết ngày nào “mất
mạng” như anh thì không biết nhỏ hay không!
Vượt bảy ngàn dặm
để lao vào vùng giao tranh dữ
dội, vượt bảy ngàn dặm để chấp nhận hiểm nguy có thể đến với mình bất cứ lúc nào trong khi có thể an lành mỗi ngày lái xe đi làm, thứ bảy Chúa Nhật ra Bolsa, Westminster, Garden Grove uống
cà phê, tán chuyện đời. Đó là chưa kể còn muốn ăn bất cứ món gì, tắm bất cứ… loại nước nóng lạnh,
vùng vẫy trong bể bơi, đùa giỡn với sóng biển vào thời điểm nào cũng được,
tôi nghĩ thật buồn. Tôi tiếp:
-Lẽ ra với mớ kiến thức, với bằng
cấp, và với khả năng ngoại ngữ giỏi như anh, chuyện ngồi một chỗ nào đó trong văn phòng, sau máy tính,
làm những công việc nhẹ
nhàng không hề bị đe dọa gì đến tính mạng, và hơn hết là không đòi hỏi sự hy sinh phải xa gia đình, xa vợ con như vậy, có khó
khăn gì đâu mà anh không chịu làm?
Anh cười không đáp. Tôi cằn nhằn:
- Lẽ ra mười mấy năm qua, anh đâu nhất thiết phải lội mút
mùa lệ thủy tận biên giới A Phú Hãn, nhiều khi cả hai năm trời không rớ được đến
phương tiện truyền thông internet, mà ngày nay vốn đã trở thành phổ biến, đến tận
cả những vùng nông thôn ở quê nhà cũng có như vậy? Nói thật là nếu như bốn mươi năm trước đây, nhận được những “lá
thư viết từ chiến trường” của anh gửi về, chắc hẳn H.N đã bồi hồi thương cảm vì sự khổ nhọc của đời lính, đã xót xa cho kẻ xa
nhà chịu thiếu thốn và phải đối diện với tử thần trong gang tấc như đã từng thương cho
những người lính Việt Nam Cộng
Hòa ngày xưa… Nhưng đó là hoàn cảnh lúc đất nước còn chinh chiến, muốn hay không vẫn phải chịu cảnh đao
binh, chứ đang sống thảnh thơi yên
lành, đang tự do no ấm, mà nghe anh gian lao chiến trường, nghe anh hành
quân rừng lá thấp hoài, coi bộ khó có phần thông cảm.
Anh cười nhắc lại lời đã nói lúc nào đó với tôi. Có lẽ cái
nghiệp có “licence to kill”, gọi nôm na là có bằng cấp, chứng chỉ để giết người
đã “vận” vào với anh. Và anh hiểu tôi
“la làng”với anh vì tôi biết rõ không chỉ là những lao khổ ở chiến trường anh
phải chịu đựng, mà cả khi về phép thăm gia đình ở Hoa Kỳ anh cũng không thể hưởng được những sinh hoạt bình thường. Anh viết cho tôi: “Mình về nhà được hơn hai tuần rồi, debrief xong
là đi tập huấn tơi tả đến giờ. Tuy ở Mỹ nhưng vẫn tham gia đánh đấm tưng bừng
hoa lá. Nghỉ được có ba bữa, thiệt là ít. Ít xịt! Rồi giờ thì phải đi làm tiếp... ”.
Ít, ít xịt! Ba
ngày phép của anh từ Afgha về đến Hoa Kỳ có thể nói còn ít hơn cả ít mới đúng. Chữ “ít
xịt” ở quê tôi, cũng như ở quê anh, không những chỉ để diễn tả về một điều gì đó nhỏ bé, tí tẹo, very little, mà còn cưu mang luôn cái cảm giác thất vọng.
Tuy không là đồng hương nhưng
sinh trưởng ở nơi gần gần,
cách quê tôi vài chục ki lô
mét, nên thỉnh thoảng khi muốn
tôi hiểu thật rõ ý mình, thư cho tôi, anh vẫn thường dùng những từ ngữ địa phương như
vậy.
Anh kể chuyện về
nhà “ít xịt” với giọng điệu đùa giỡn, nhưng anh làm tôi bồi hồi. Tôi nhớ đến những
lá thư trước của anh. Anh viết, “mấy tuần nay mình lục tục
‘dọn tiệm’ từ Iraq dời qua A Phú Hãn. Hai tuần cuối cùng thì inernet cũng
bị cắt mà nhà ăn cũng đóng cửa luôn. Làm cả bọn phải gặm MREs (Meal
Ready To Eat). Mà buồn hơn là tay
chân ở không, chỉ ngồi thu lu, không biết làm gì cho hết giờ. Thôi thì đành phải nói là để cho cuộc tổng triệt
thoái thêm
nhiều phần bi tráng vậy!”. Và
rồi vẫn với giọng điệu giỡn chơi ấy,
cuối mỗi câu thư, anh thường bỏ thêm hình một mặt người cười toe toét, như
thể mọi sự chung quanh anh đều nhẹ hẫng như lông hồng. Thư khác, lúc tôi còn ở Đức, anh kể “cuộc không vận qua bên này tốn tới mười
chiếc máy bay khổng lồ C-17 về một căn cứ tiền phương ở cực Bắc A Phú Hãn, Camp
Marmal (hỏi ông… google thì
biết, có dính dáng tới Bundeswehrs, quốc phòng liên bang ‘của’ H.N đó.). Mèn
ơi, ở nơi này rừng núi trùng trùng điệp điệp, mà mưa dầm mấy ngày nay không dứt,
nhiệt độ lạnh… bơ phờ luôn, vừa mưa vừa tuyết...”.
Anh viết vậy, nhưng dẫu mưa tuyết bão bùng, hay nắng gắt cháy da, thì anh vẫn ở đó. Anh gửi cho tôi vài ba tấm hình đứng cạnh
những chiếc máy bay có cái bụng thật lớn, tròn vo như cá mập. Tôi đã phì cười,
bảo giống hệt như… đồ chơi con nít. Anh bảo:
- Ngó thì giống đồ chơi thiệt đó, nhưng là những loại máy
bay thiện chiến, chiến nhất bây giờ. Phải chi hồi xưa mình úynh giặc với loại
này mà không là loại dở ẹc thì đâu có phải chạy thục mạng ra ngoài này!
Gần như chuyện gì
cũng bị anh biến thành chuyện tếu, hoàn cảnh nào cũng có thể bị anh đem ra bỡn
cợt. Anh gửi hình chụp với Robin Williams, kể, “bọn này mới đến, lều trại chưa có, chỗ làm việc
chưa setup, cả toán dồn vào một cái lều tạm cùng với cả trăm chú thuộc các đơn
vị khác nhau. H.N cứ thử tưởng tượng đến cả trăm cái giường sắt loại hai
tầng (bunk bed), đầu giường giăng mắc các loại ba lô, mền chiếu, quần áo, vũ
khí..., nên đủ mùi quần áo giày vớ ẩm ướt, nền đất thì chèm nhẹp, lại cộng thêm các loại tiếng ồn hăm bốn trên hăm bốn,
mới biết là sức chịu đựng của cái tai, cái mũi của mình cũng vào hạng khá!”. Tôi
trêu:
- Bác sĩ tai mũi họng mà qua đó chắc ăn nên làm ra. Còn ông
Robin Williams đi một chuyến về bảo đảm sẽ nhớ đời… Nhưng mà quan trọng hơn là
hình như có người hổng thấy quê hay sao thì phải!
Anh cười:
- Lội riết bên mấy cái xứ này, ngày lại ngày qua
phải "xử ní" toàn mấy chuyện máu me nên thành vô cảm mất tiêu
rồi!
Với kiểu đùa giỡn
của anh, thật tình tôi không biết phải chia xẻ điều gì cho đúng, nên chỉ
thường đùa lại mà thôi. Thư cho anh, tôi luôn “chúc anh đánh giặc giỏi”. Cuộc sống của anh và tôi gần như không có điểm gì chung, lại cách
xa nhau đến cả vạn dặm, những
điều anh kể cho tôi nghe càng
lạ lẫm hơn. Thấy tôi từng ở Đức nhiều
năm, anh viết “đây là căn cứ của Nato, mà do Ðức quản trị lâu nay. Giờ thì Mỹ
tăng viện vào cho thêm đông, cho thêm vui. Lính của lực lượng liên hợp gồm
chừng hai chục nước chen nhau trong cái trại chật ních. Có gặp cả mấy
chàng lính thuộc quân đội… Mông
Cổ nữa. Chèn ơi, dân bộ lạc vậy mà xem ra còn có vẻ chính qui và oai hơn…
bộ đội VC rất nhiều mới đáng buồn chứ!”.
Tôi nói:
- Ai biểu anh
đi vào nơi gió cát!
Anh gọi nơi anh ở
là “nơi gió cát”, là một vùng đất của các bộ tộc bán khai nghèo khổ,
man dại, theo đạo Hồi cực đoan, còn làm những chuyện rợn tóc gáy, chẳng
hạn đàn bà con gái có thể bị giết,
ném đá cái một vì những nghi ngờ không đâu từ chồng. Hoặc làng này có thể mang dáo mác súng ống qua tàn sát
mấy chục mạng người chỉ vì một con dê đi lạc, nghi làng kế bên ăn trộm.“Dâu bể
tang thương, hoang sơ tiêu điều. Cả một vùng đất rộng thênh thang là một thung
lũng nhỏ sình lầy, có những ruộng lúa chật hẹp ngập nước bì bõm bao quanh bằng
những vùng núi đồi đất đá và những thảo nguyên liền theo núi đồi trùng điệp,
kéo tận đến mịt mù”. (**).
Thanksgiving
anh viết, “mình đã ‘hồ hởi’ sắp hàng rồng rắn chừng nửa
cây số, chung với non ngàn người lính liên quân, giữa cơn mưa dầm, trước cái
nhà ăn nhỏ xíu, sức chứa cỡ hai trăm người, đợi đến phiên để được ăn một bữa ăn
nóng, hot meal có mash potato, cranberry sauce và một miếng thịt gà Tây cà lồ.
Nói là ‘hot’, nhưng thật ra tất cả đều là đồ hộp khui ra hâm lại cho nóng.... À,
tráng miệng thì có pumpkin pie và pecant pie với cà phê, hể hả chưa!?”. Rồi kết
thúc thư cũng vẫn bằng một mặt người cười, anh khiến tôi bùi ngùi. Anh kể chuyện hằng ngày, chuyện lính
tráng, chuyện Thanksgiving, Tết nhất đìu hiu nơi xứ người buồn bã đến nứt lòng,
những “hể hả” anh có được nghe xót dạ không chịu được. Tôi trả lời thư anh bằng giọng đay nghiến vẫn thường dùng,
“không ai mượn mà cứ xông pha khói lửa,
vác súng ra chiến trường làm gì. H.N
ở Sydney, không có lễ Thanksgiving như Hoa Kỳ, vẫn ăn được nguyên một cái đùi gà tây
thiệt bự vừa mới lấy trong lò ra, uống hết nửa chai shiraz ngon nhất nước
Úc. Và vì no quá nên không thèm đụng tới miếng pie
nào hết!”.
Anh đọc thư xong,
cười ha hả, trả lời rằng cũng vừa mới đọc bài tôi đăng trên một trang web của cơ quan truyền
thông Tin Lành. Anh viết “có chạy vào chỗ ‘vườn Ê đen’ nhòm xem H.N thánh
thiện cỡ nào thì mới thấy một em coi bộ hiền lành, áo dài tha thướt, nhưng
hai con mắt thì ...nghinh ngang quá sức nên biết tình hình ...rất gay go!”. Rồi
gọi là để… bù lỗ, anh gửi cho tôi một lô hình chụp tại Do Thái, con đường khổ nạn
Via Dolorosa, chỗ Chúa Jesus chịu thập hình, nơi thánh Giăng làm phép rửa (báp
têm) cho Chúa Jesus, cạnh bờ sông Jordan, rào biên giới giữa Jordan và Israel…
Anh dặn tôi “coi cho vui hen, như một chuyến viếng thăm thăng tích bằng hình”.
Tôi cám ơn, và viết lại cho
anh, “vui cái nỗi gì mà vui,
chỗ đó
uýnh nhau dài dài như anh viết chớ vui gì!”. Anh đáp thánh địa Jerusalem được dân du lịch cả thế giới tới
thăm, nên là khu được bảo đảm an ninh tối đa. Anh nói tôi đã từng đi Ai Cập,
thì lần sau “chịu khó” đi thêm một đoạn, anh sẽ đãi tôi uống cà phê ở Do Thái.
Rảnh rỗi, tôi hay
gửi những bài viết mới, lẫn cũ của mình không đăng trên mạng internet để anh đọc.
Anh đọc rất kỹ, và lần nào cũng viết đôi lời an ủi, kiểu “văn chương thì dù không
cơm cháo nuôi nổi bản thân
tác giả ngày nào, nhưng cũng là dưỡng chất tinh thần nhiều lắm cho những người
như… tui đây, những con người cùng một thế hệ, sinh ra để nhìn thấy lắm nỗi
thương đau, để chịu lạc loài, đổ vỡ, chia xa miên viễn mà vẫn không ngừng
những nỗi thiết tha...”.
Lần anh về Tết,
lúc tôi đã định cư ở Hoa Kỳ, gọi điện thoại cho anh,
tôi trêu anh bằng hai câu thơ anh làm lúc ở A Phú Hãn:
- Năm nay khỏi
kêu ca “anh còn ở chiến trường xa. Đón Tết, là một ly cà phê đen” nhen!
Rồi tôi hỏi về tới rồi nhưng anh đã “ăn” Tết chưa. Anh đáp:
- Về không dài
nhưng dầu gì cũng được đón Giao thừa ở nhà.
Anh làm
tôi nhớ bài viết cũ của anh từ nhiều năm về trước, kể chuyện đón Giao Thừa
ở một “căn cứ nhỏ xíu, toàn những căn lều
vải bạt, dựng thành từ nhóm, bao chung quanh phi đạo, cách ly với cái làng
ngoài kia bằng ba lớp rào kẽm gai. Nơi gần nhất với khu nhà dân, chỗ cái chợ nhỏ,
thì có bức tường thành dài độ ba trăm thước, đủ cao để ngăn bên ngoài không thấy
được bên trong, thế thôi”. (**) Nơi đó có chừng ba trăm lính Thủy Quân Lục Chiến
Mỹ đồn
trú, và một khu an toàn tạm thời cho những lực lượng đặc nhiệm như toán của
anh. Ở đó, đêm mồng một Tết,
từ nơi trực về lại trại, giữa một cơn mưa dầm dề úng thủy, bất ngờ anh sững chân bởi
giọng hát của một người nữ, một người nam văng vẳng đưa ra từ phía trong lều.
Lúc còn ở Úc, có lần đang đi trong sân trường tôi cũng từng chôn chân ngay giữa
trời mưa chỉ vì một giọng nói nhẹ nhàng mang âm điệu Huế vang lên từ phía sau
lưng mình. Từ một nơi được xem như là một thủ đô tị nạn thứ hai của người Việt
hải ngoại sau California, chỉ cần vài bước ra khu chợ đồng hương là có thể
nghe, có thể tưởng như mình đang sống ở quê nhà, vậy mà một trích đọc đoạn thư
của Trịnh Công Sơn gửi cho Tôn Nữ Dao Ánh được một người nào đó đọc bằng giọng
Huế giữa cơn mưa chiều nơi xứ lạ, cũng đã làm tôi ngẩn ngơ. Anh kể tiếng cổ nhạc,
giọng ca của Lệ Thủy, Minh Phụng mùi mẫn vang lên giữa núi rừng A Phú Hãn ngày
đầu năm níu chân anh như không cách gì gỡ ra được.
Anh viết “Lạ. Nhướn mắt
nhìn kỹ, anh thấy trong góc căn lều, khuất sau những quần áo treo tùm lum trên
các giây nhợ giăng trong phòng, ngồi trên đầu một chiếc ghế bố, một người lính
Thủy Quân Lục Chiến đang cúi gập người, hai tay ôm mặt, vai rung rung…”. Và
anh càng ngạc nhiên hơn khi biết ra người lính Mỹ da đen cao lớn đứng trước mặt
anh khi anh gọi anh ta ra ngoài, “không
có vẻ gì là biết tiếng Việt, đừng nói là hiểu được lời, cảm được ý của cái loại
nhạc mà anh ta đang nghe, mùi mẫn đến độ khóc sướt mướt” (**). Chuyện trò
thêm, anh biết ra người lính Mỹ xa nhà này gốc nửa châu Phi nửa Việt Nam, có bà
mẹ bị gia đình từ không nhìn mặt vì đã lấy ba anh, người lính viễn chinh tại Việt
Nam trước bảy lăm. Khi mẹ anh theo ba anh về xứ lạ, hành trang ly hương mang
theo trong lòng là câu hát cải lương. Anh lính trẻ lớn lên, được ru ngủ bằng những
câu cổ nhạc, được lớn lên bằng tiếng hát Lệ Thủy, Minh Phụng, Thanh Sang…, ngày
giã từ mẹ sau khi nhận lệnh hành quân mười tám tháng nơi chiến trường Nam Á,
anh lén lấy cái CD của mẹ mang theo, nhưng rồi chỉ để thêm nát dạ vì nhớ nhà. Lần
bạn tôi nhìn thấy người lính này khóc là lần anh ta không thể về thăm mẹ mình
đang bị ung thư ở giai đoạn cuối. Thậm chí đến cả telephone cũng phải chờ hai
tuần mới đến lượt để được gọi về. Bạn tôi kể anh đã giúp người trung sĩ Thủy
Quân Lục Chiến này gọi về Hoa Kỳ sau khi “bươn
bả lội sình quay trở lại nơi làm việc, lôi cái điện thoại vệ tinh, loại tác vụ
(***) ra, rồi quày quả đi trở lại căn lều nọ. Trên đường đi, anh đã kêu cho hiệu
thính viên nhiệm sở BTL Trung Đông ở Qatar, dặn “móc” (hook-up) với hiệu thính
viên đường dây dân sự ở Mỹ, khu vực Akansas, và trực máy (Stand-by). Hỏi tên họ
bà mẹ của người lính xong, anh kêu hiệu thính viên liên lạc cho bệnh viện của
County nơi nhà của bà mẹ người lính, xác định tên họ bệnh nhân xong, chuyền thẳng
đến phòng ICU nơi bà mẹ nằm”… (**).
Câu chuyện anh viết và kể thật buồn. Những người lính xa nhà
như anh, như người lính Mỹ da đen mang nửa giòng máu Việt, nhiều tháng năm dài
miệt mài hành quân xa, nương náu trong những lán trại quạnh hiu miền trung Á chỉ
vì một nhiệm vụ mà nghe ra dường như rất vô hình, rất mơ hồ, là để “bảo vệ nền
tự do cho toàn thế giới”. Nhiều người đã tự hỏi, và vô số người đã lên tiếng tại
sao quân đội Hoa Kỳ phải ở lại và chiến đấu tại A Phú Hãn sau khi quân khủng bố
Al-Qaida sụp đổ và Bin Laden đã chết từ lâu! Sau này thân nhau nhiều, anh mới đề
cập đến vấn đề đang gây ra tranh cãi khắp nơi ấy với tôi. Anh nói:
- Cái giá của tự do không thể trả bằng tiền bạc hay những thứ
vật chất thông thường khác, mà đến hơn chín mươi phần trăm là bằng mồ hôi, nước
mắt và máu. Ngày xưa những người lính viễn chinh Mỹ và đồng minh hy sinh trong
chiến trường Việt Nam cũng chỉ vì hai chữ “tự do” mơ hồ kia. Nhưng thử tưởng tượng
nếu tường thành miền Nam sụp đổ sớm hơn, cộng sản tràn ngập Đông Nam Á sớm hơn
và làm ra nhiều điều tang tóc hơn, thì chúng ta đã như thế nào? Thế giới đã ra
sao?
Anh nói mặc cho ai có những suy nghĩ khác, có những nhận định
khác và có hồ đồ cho rằng đó là những cuộc chiến tranh vô bổ chỉ mang lại những
hy sinh vô ích; hay thậm chí có người còn dùng những ngôn từ xấu hơn, tệ hơn
dành cho sự hiện diện của quân nhân Hoa Kỳ tại các chiến trường không phải là đất
nước mình, thì anh vẫn thấy anh và bạn bè anh đang làm điều đúng. Vẫn thấy
chính phủ Hoa Kỳ đã và đang thực hiện điều đáng làm. Bởi anh nói ngày nào những
bóng ma độc tài, khủng bố còn phủ quanh thế giới, ngày nào còn có những tổ chức
làm con người sợ hãi, và còn đe dọa mạng sống của dân lành, thì anh vẫn sẵn
sàng “chiến đấu cho đến giọt máu cuối cùng”.
Anh về thăm nhà vài ngày vội vã. Anh nói:
- Tết, vẫn là Tết ở xứ người, cái xứ mình đang nhận làm quê
hương, không thấy hoa mai vàng, không thấy bầu không khí yên ắng cuối năm,
không thấy rộn ràng đầu làng cuối xóm, nhưng đây là lần đầu tiên mình không phải
hát “Xuân này con không về”, nên vẫn cảm thấy hết sức xôn xao.
Dành thêm chút thì giờ, anh kể chuyện được ăn bánh tét, thịt
kho, được đón giao thừa bên vợ con. Sau đó anh bảo sẽ gửi cho tôi tập truyện
ebook đang nóng sốt về chính trị ở bên nhà. Tôi hứa sẽ đọc và sẽ bình luận cùng
anh.
*
Người ta nói không còn chiến tranh ở A Phú Hãn, không cần
quân đội Mỹ hiện diện ở miền trung Á này nữa, nhưng tin tức đưa về hằng ngày vẫn
chẳng có gì khả quan. Chiến trường vẫn nóng sốt và quân Taliban vẫn tấn công
quân đội đồng minh, và giết hại hàng ngàn người dân thường…
Những ngày sau Tết tôi gọi lại cho anh, nhưng máy anh đã
khóa. Tôi để lại lời nhắn, chờ mãi vẫn không thấy anh trả lời.
Tôi nghĩ chắc là anh đã trở lại vùng hành quân.
Thư cho tôi, anh luôn chúc tôi vui vẻ. Giọng thư đầy lạc
quan và chứa chan yêu đời. Anh cũng hay dặn tôi nhớ làm thơ, viết văn nhiều nhiều
để anh em và bè bạn đọc. Tôi thật muốn nói với anh rằng tôi vẫn còn làm thơ, thỉnh
thoảng vẫn viết văn, và mỗi lần viết xong, tôi đều email cho anh. Nhưng sau
ngày anh về phép ấy, tôi hoàn toàn không nhận được một hồi âm. Cũng như thỉnh
thoảng dầu không viết, tôi vẫn chạy vào blog của anh bạn thi sĩ để xem có bài
hay comment gì của anh hay không.
Tôi viết và tôi luôn hy vọng. Nhưng cho mãi đến tận bây giờ
vẫn chỉ là những hy vọng chưa được hồi đáp.
Lòng tôi vời vợi buồn. Tôi chưa bao giờ dám nghĩ đến mấy chữ
anh thường đùa, “mất mạng”, cho dầu là mất mạng internet đi chăng nữa. Bởi tôi
nhớ anh có nói ở những nơi không lên được internet là những nơi đang giao
tranh…
Tôi chắc chắn anh biết tôi và bè bạn luôn lo lắng cho anh. Chuyện tử sinh, chuyện binh lửa chiến tranh, cổ lai chinh
chiến... là chuyện không ai muốn nhắc đến. Tôi thật lòng vẫn ước mơ một sáng
nào đó thức dậy, sẽ thấy tên anh hiện lên trong vi thư của mình. Sẽ nghe tiếng
điện thoại reo vang và nghe tiếng anh cười bên kia đầu giây từ quận Cam, hỏi
H.N có khỏe không.
Mùa xuân nào bạn tôi tình cờ nghe những bài vọng cổ trên đất
A Phú Hãn, mùa xuân nào anh về thăm gia đình, hứa bàn luận chuyện chính trị với
tôi, mùa xuân nào anh còn làm những bài thơ Xuân đằm thắm, mùa Xuân nào còn rủ
tôi đi uống một ly cà phê ở con đường khổ nạn Via Dolorosa. Mùa Xuân nào còn nhớ
thuở hoa vàng áo lụa, nhớ pháo đỏ rượu nồng, nhớ thời thơm tho sách vở.
Mùa Xuân nào anh viết cho tôi, “cái giá của tự do không thể
trả bằng tiền bạc..”. Tôi ngậm ngùi tự hỏi, mùa Xuân nào như vậy, còn mùa Xuân
này anh có về?
Hoàng Nga
(*) ISAF: Viết tắt
của The International Security Assistance Force, Lực lượng Hỗ Trợ An Ninh Quốc
Tế, là tổ chức được lãnh đạo bởi NATO thực hiện sứ mệnh bảo vệ an ninh tại
Afghanistan do Hội đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc thành lập.
(**) Oki, Ngày Tết
Nghe Cải Lương.
(***) Điện thoại chỉ dành cho tác vụ, có khả năng liên lạc
qua bất cứ vệ tinh nào.