Không rõ trường Quốc Gia Âm Nhạc có được bao nhiêu học viên?
Láng giềng nó, trường Cao Đẳng Mỹ Thuật vào thời điểm 1973-1974 đếm chẳng quá
50 chuẩn hoạ sĩ, chuẩn điêu khắc gia. Cứ cho là vậy, cứ tính đổ đồng bù qua xớt
lại từ đệ nhất niên cho chí đệ ngũ niên, mỗi niên thu giữ mười nhân mạng… Và
như vậy có nên dùng chữ “lèo tèo" để gọi tên về những kẻ ưa dẫm chân vào sạn
đạo của nghệ thuật tạo hình? Ngôi trường rất đẹp quét vôi vàng ẩn mình sát cổng
Hiển Nhơn, đối diện một bức tường đầy rêu bám và cô quạnh đằng kia mọc lên cây
Ngô Đồng được những chùm hoa sứ vây bọc quanh thân. Đại Nội vẫn luôn thu giữ
riêng một hương mùi, một màu sắc. Nó khiến những bước chân buộc phải trì hoãn lại
trong vô thức, lòng bạn chao đi khi dầm thân trong không gian đầy rẫy bóng dáng
người xưa lưu dấu đó đây. Nó chẳng khác Thăng Long nếu nhớ lại cổ thi: “Nền cũ
lâu đài bóng tịch dương”.
Có thể bên Quốc Gia Âm Nhạc chịu cảnh âm thịnh dương suy,
nhưng cách một con đường nhỏ đầy cỏ dại mọc lan, lãnh địa phía này trầm mặc với
dương thịnh âm suy. Đếm lui đếm tới vỏn vẹn “mọc” chừng năm bông hoa (đẹp xấu
tuỳ người đối diện) từ búp non cho tới đã ngậm sương già nắng khai nụ bung
cành. Nhưng cả năm dường như vẫn sáng chiều lẻ loi dáng lụa. Gái Huế, dù ước ao
sẽ là nghệ sĩ mai này nhưng họ vẫn khép nép đi dưới bao lề luật bất thành văn,
đầy kỹ cương nghiêm khắc. Là sinh viên nhưng họ chẳng khác biệt với các em học
sinh, không thể vượt thoát thứ rào cản vô hình qua bao đời giáo huấn nam nữ thọ
thọ bất tương thân. Họ đến trường với gương mặt tinh khôi qua giấc ngủ đầy và về
nhà chẳng gợn nhăn một tì vết phiền muộn. Đường đi có nắng gió, có mưa giăng,
có bao điều khác tác động bủa vây nhưng đôi chân chưa một lần nghi ngại hụt bước
lần khân xao xuyến lỗi nhịp. Đó chỉ là cảm nhận của riêng tôi, một đứa vừa thi
đậu vào năm thứ nhất, tập hoà mình vào thế giới nhiều huyễn mộng. Có thể sai quấy,
hàm oan trong lượng định vô căn cứ. Chân ướt chân ráo thôi mà, đâu đã ăn dầm ở
dề để lộng ngôn.
Như bất kỳ một thằng con trai bình thường nào khác, tôi cũng
biết “nghễ” các bông hoa. Tôi muốn chứng nghiệm thế nào là nỗi sầu khổ dịu
dàng, tôi sẵn lòng đi trên con lộ một chiều, dại khờ ra sân ga để đợi một con
đò cập bến. Nhà không xa nhưng tôi vẫn nguỵ tạo ra cớ để ở lại trường giấc
trưa, bởi có người cô độc bày thức ăn gặm nhấm trong đơn lẻ. Chị ấy học năm thứ
ba, có nghĩa là phải qua những năm căn bản mới trao cho bạn quyền quyết định chọn
ban. Chị ấy học lụa. Tôi chẳng ngạc nhiên vì con người chị là tổng thể những đường
nét dịu mềm, mong manh, dễ thẩm thấu, dễ hoen ướt. Tà áo dài, mái tóc đổ xuống
ngang lưng, da trắng, năm ngón búp măng và mãi mãi rụt rè khi nhát trông ra
tôi. Khép nép, mắc cở như thể suốt đời chưa lần nào phải ngồi ăn trưa trước kẻ
lạ mặt. Học ban lụa có nhiêu khê không? Tôi gạ chuyện. Ừ, rất nhiều thứ phải
gia công khi bồi tranh, rất dễ bút sa gà chết. Giọng nói chị như gió thoảng. Chị
ăn xôi bắp, đậu xanh cùng mè rang. Hương vị đó không thể dồn lên thứ mùi dịu ngọt
mà mũi tôi đang hít lấy để phân chất. Nó phát ra từ chân tóc chị? Từ cổ chị? Từ
ngực chị? Từ thể hình chị? Tự thân, chị là một bức tranh lụa mà dù là danh hoạ,
bạn chẳng thể thêm thắt một nét dư thừa nào cả. Một tác phẩm hoàn chỉnh biết
dâng mùi. Hình như sau sơn dầu thì là ban lụa, không mấy ai chọn sơn mài cũng
như điêu khắc? Cũng chẳng rõ, lụa có vẻ thích hợp cho nữ phái.
Chị ăn không hết gói xôi, chị hỏi: Nhịn đói à? Rồi chị hy
sinh trao thức ăn thừa cho tôi. Xôi chị tự nấu hay do mạ nấu mà ngon quá, thơm
dẻo, bùi và ngọt lừ. Lá chuối sạch trơn, tôi chẳng thể phung phí một hạt bắp một
hột nếp một hột mè. Tôi mọc ra một ao ước, giá mà mình nhuyễn tay đôi phần để
lúc này ký hoạ lại chân dung chị bằng bút chì lên giấy croquis. Ngày mai chị
nên đi tay không, kiểu thõng tay vào chợ… Khuôn mặt chị đã vơi bớt vẻ căng thẳng,
chị nhìn tôi, đôi mắt to, hàng mi dài, có vẻ chờ đợi. Chị ăn bánh mì thịt,
nghe. Đến phiên tôi lo thức ăn trưa. Không, ngày mai mình ăn chay và cũng có thể
cả lớp kéo nhau đi vẽ phong cảnh ngoài trời. Sắp tới giờ rồi, về lại lớp học
đi.
Chị mang cái tên rất Huế, tôi nghĩ vậy: Phạm Thị Sầu Đông.
Chừng như lại vấp sai lạc, ở đây họ kêu bằng Sầu Đâu, nghe không hay, thô thiển
tựa Mù U. Cây mù u và cây sầu đông có mọc trên đường về nhà tôi, những sáng
sương mù có khi tôi ngỡ là sầu đông vừa đánh rơi nước mắt xuống vai áo tôi, ngấm
lạnh một nỗi thổn thức không đâu. Mạ tôi do trực giác hay sao đó đã chép miệng:
Dạo ni mi như hoá thân làm đứa khác, cứ lạc hồn lộn vía ba láp ba xàm. Cứ cà
phê thuốc lá vô cho nhiều. Đổ hư!
Xét theo đơn khai, tôi hưởng được học bổng toàn phần. Hằng
tháng lên văn phòng ký nhận một số tiền chỉ đủ mua hộp màu nước, đôi ba cây bút
lông viết chì và trăm ly cà phê chục bao thuốc lá, năm cái vé xi-nê, ăn tiêu lặt
vặt. Nguồn trợ cấp không mỏi mệt là cứ réo mạ mình để “hư” thêm. Tôi nghe chị Sầu
Đông nói: Họ cho hay, thời gian đào tạo dài bằng nhau, nhưng một người tốt nghiệp
Mỹ Thuật thì tốn kém gấp ba lần một kẻ ra trường Y. Tôi hỏi chị: Nghệ thuật có
thực sự cứu nhân độ thế không? Sầu Đông nhìn ra màu mây tím đang giăng qua bầu
trời: Chắc là không, thời nào hạng nghệ sĩ cũng đớn đau bởi sự phụ rẫy của lòng
người, khốn cùng trong những ngộ nhận. Lần đó, tôi nhớ tôi đã nắm lấy những
ngón mềm mại của chị và lần đó tôi cũng ước ao, giá mà mình học được thuật xem
chỉ tay. Không lâu, chị rút tay về thu trong một vạt áo dài. Vạt áo vẽ những
cánh hoa không tên do chính chị thử nghiệm bản vẽ đầu đời. Chị có thấy bức tượng
Venus de Milo bằng thạch cao đặt sau trường mình không. Nó tật nguyền cụt cả
hai tay nhưng kỳ lạ là nó hoàn chỉnh trong dáng đứng vượt ngoài khuôn mẫu.
Không hẳn những thiếu sót đã khiến chúng ta phải chịu cam phận trong bất hạnh.
Chị Sầu Đông làm thầy bói bất ngờ: Mai sau bạn sẽ thôi vẽ để viết văn.
Gần cuối niên khoá, chẳng rõ do ý tưởng của ai khởi xướng,
trường quyết định in ra một tập san “Mỹ Thuật” bài vở chọn lọc, mẫu bìa màu tím
than chữ đen do thầy Đinh Cường trình bày. Dày 200 trang, những trang sau cùng
có tôi đóng góp với bài nặng phần nghiên cứu mang tên “Bích Chương (Poster) Và
Thế Đứng Của Nó Ngày Nay”. Dĩ nhiên tôi ký tặng chị Sầu Đông, không khô
nét mực khi nhận được cuốn đầu tiên. Trường có tổ chức ra buổi liên hoan văn
nghệ trước đêm Giáng Sinh. Theo trào lưu, sinh viên chơi nhạc của Lobo, Bread,
Carpenters và không thể thiếu mặt nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã ôm đàn lên giúp
vui. Mưa rơi ngoài trời làm bóng tối co lại, màu đêm mềm ra, đầy sũng lạnh. Với
sự rụt rè của kẻ qua sông luỵ đò, chị Sầu Đông không dấu mừng vui khi nhờ tôi
đưa về nhà trên chiếc Honda 50 phân khối vừa mượn được của đứa đang say sưa gửi
hồn vào tiếng hát. “Gọi người yêu dấu bao lần, ngẩn ngơ không nói thành lời…”
Ngoài hương hoa sứ rộ trắng lốm đốm bên tường rêu, tôi lại hít thở lấy mùi thơm
dịu ngọt từ cây Sầu Đông biết di động. Tôi lại đơm ước ao, giá như được ăn phải
bùa mê thuốc lú, khi ấy cả hai sẽ nhắm mắt hôn nhau dưới một vũ lượng dịu dàng
vây quanh thân, chúng sẽ dìu hai đứa nhập vào bản luân vũ của mưa đêm, châm
chích vào da thịt bao mũi kim hân hoan vô bờ, chết điếng, tắc thở, lìa xa hiện
thực. Ếch nhái bên hồ réo gọi. Chạy đi, cứ thoát ra khỏi cổng thành rồi mình sẽ
cho hay địa chỉ. Ra cổng Hiển Nhơn, chị Sầu Đông quàng một tay ra ôm thằng tài
xế chạy xe lảo đảo. Mưa không lớn, đủ để đưa tay vuốt mặt. Mưa chẳng to, nhưng
đủ để nhận chìm tiếng nói Sầu Đông trôi vuột ngoài vành tai. Hai đứa đều mặc áo
đi mưa và đã là mưa Huế thì chẳng có vật thể gì có thể can ngăn sự xâm thực thật
lì lợm của nó. Mưa ngoài trời và mưa cả trong lòng. Ướt gì thì ướt nhưng phải
giữ cho cuốn sách Mỹ Thuật thật khô ráo, đúng không? Sầu Đông nói. Đêm nay
chong đèn xem người nớ viết có đặng không.
Nhà Sầu Đông nằm bên dòng Bến Ngự, khuất lấp, trồng nhiều
cây lưu niên và lộng gió. Mặc dù trời tối đen, tôi vẫn nhìn rõ một mặt sông
đang cau có. Cám ơn hí. Sầu Đông rời khỏi yên xe. Đôi mắt nhoè nước mưa trông
như vừa khóc một trận lâu nín. Đôi cửa sổ tâm hồn nhốt chặt lấy một diện mạo
nhiều toan tính. Về đi. Ngủ ngon. Sầu Đông quay lưng, lối đi có trải sỏi vụn và
có thể cắm lên một tấm bảng: “Coi chừng chó hiền”. Căn nhà đong đầy vũng tối,
tôi tự đánh cược xem Sầu Đông có ngoái đầu nhìn lui? Không. Một chuyển động như
bị ma rượt. Tôi cố gắng, khổ sở để thắp lửa được một điếu thuốc. Tôi loay hoay
cố không cho mưa thấm làm chóng lụn tàn một hơi ấm duy nhất, giờ này. Tôi nhìn
số nhà, khắc ghi. Tôi biết địa chỉ này rồi sẽ đón nhận những lá thư tôi chăm gửi
về. Bến Ngự mê thiếp giấc sâu chẳng vọng động một âm thanh. Chỉ có tiếng máy xe
nổ, ngọn đèn đơn độc quét lia trên hoang lộ dẫn về thành phố.
Rồi tên bay đạn lạc thế mưa rơi phủ chụp xuống vùng địa đầu
giới tuyến. Thuật ngữ ấy luôn nằm trên trang nhất các tờ nhật báo phát hành tận
Sài Gòn. Những chuyến xe lặt lìa chất đầy các khuôn mặt ám nặng tử khí từ Quảng
Trị đổ dồn xuôi Nam bất kể ngày đêm. Trường học đóng cửa, chẳng buồn ghim vội một
tờ giấy loan báo sự tình. Tôi chạy qua con sông nhỏ “nắng đục mưa trong”, thực
sự dẫm chân vào lối đi rạo rệu những hòn sỏi trở trăn dưới giày. Rõ là coi chừng
chó hiền, rõ là chẳng một rào cản, rõ là muốn làm phường đạo chích cũng dễ như
trở bàn tay. Sầu Đông cùng gia đình đã di tản. Hai chữ này quá mới lạ trong vốn
tự điển của chúng tôi. Vì sao là di tản mà chẳng gọi là chạy giặc? Và rất khôi
hài nếu bảo “giặc đến nhà đàn bà phải đánh”. Vườn hoa vẫn trì chí nở bông, có nụ
hồng lay lắc bên tầm tay với, khoe thầm một đốm màu đỏ lẻ loi. Nó nhắc tôi nhớ
về giọt máu loang đi sai trình tự chu kỳ để thấm hoen vào vạt sau tà áo dài cuống
quýt của Sầu Đông. Tôi đã cởi cái sơ-mi ra cho Sầu Đông cột thắt quanh bụng và
cúp cua giờ anatomie thồ đi cái nhăn nhó vụng tính của người bị kinh nguyệt hành.
Với mười hai ống màu đầy đủ đi từ trắng tới đen, bạn không thể nào hoà được thứ
sắc hồng ngượng chín ửng lên trên gương mặt Sầu Đông lúc đó. Và tôi cũng nhớ là
đòi lại tức thì chiếc áo ấy mà không đợi chờ chính tay Sầu Đông sẽ giặt giũ
qua, hôm sau trả lại như lời đề nghị. Chiếc áo với đốm màu đã khô quắc, đã biến
thành nâu đen để khi nhìn ngắm tôi gọi đó là đoá uất kim hương.
Tôi chưa bao giờ thấy mặt ngang mặt dọc loài hoa mang cái
tên kiêu sa đến vậy. Tôi biết chữ đó khi đọc một cuốn sách dịch từ nguyên bản
Pháp văn tả về một cuộc tình đầy khổ luỵ. Và tôi luôn yêu những thứ liên hệ tới
nghiệt ngã, oan khuất. Uất kim hương, nghe như một lời than van không đi tới cuối
đường, mãi dây dưa, chẳng siêu thoát. Hồn tôi cũng không nơi nương tựa, vật vờ
cho đến một hôm, trên chuyến tàu Thống Nhất chất người như nêm, thoi thóp những
con cá trầy vi tróc vảy, tình cờ tôi ngó ra một hình bóng chừng nhìn thấy ở kiếp
trước. Kiếp này trí nhớ con người đã mòn hao, lao lung bởi mắt quen nhìn một
hoá hai hoặc nổ đom đóm bởi bao ngược ngạo chỉ diễn ra tự thiên cổ. Quen quá,
mà cũng xa lạ quá. Một con chim bồ câu thúc thủ giữa đám lông vũ hỗn tạp nhặng
xị quang quác đè đầu cỡi cổ chuyện sinh tồn. Tôi để trí óc chạy đi hoang, nín
thở chờ nghe cơn gió thoảng vừa reo tên mình.
Tàu lắc lư như kiểu vừa ôm một đoạn cong bẳn gắt dưới chân đèo, tiếng còi vừa
hú thoắt cái chìm trôi lui sau. Xao động vừa lắng thì người ấy nhận diện được
tôi. Quang gánh, đồ đoàn, kiện hàng, nồi niêu, gà vịt là thứ biên giới mà tôi
phải vượt qua. Bởi trong hai kẻ bị phân ly, tôi đáng là đứa biểu tỏ sự gan dạ.
Mấy sông cũng lội mấy đèo cũng qua. Có đón nhận buồn tủi ngỡ ngàng cũng phải hỏi
cho ra lẽ. Vì sao và tại sao? Cớ gì và nguyên do? Răng ri rứa. Nên tin vào
duyên kiếp hay hoài nghi tới định mệnh? Tên mang có vận vào người không? Chẳng
phải mùa đông nhưng sầu thì vẫn hoài huỷ sầu, sầu mút mùa xuân hạ thu.
Trước mặt tôi là bức tranh lụa nhàu úa. Những gì liên hệ tới
mỹ thuật đã chết chìm sau hồng thuỷ. Người ta đang học lấy vạn điều xấu xa và để
cứu chuộc, người ta phải xiêu thân sống với hoài niệm. Chiếc áo bà ba sờn cũ,
mái tóc dài đã cắt, đoạn lìa trên vai gầy, da thôi trắng, năm ngón thôi búp
măng, đôi mắt thôi long lanh. Đôi mắt nhốt chật một vũng màu vụng pha, ngờ nghệch.
Ngay cả hương mùi cũ, khứu giác chừng như đã phản bội, phôi pha. Con tàu mãi lắc
lư, nó muốn xúi giục tôi phải bổ nhào vào nhân dáng tiều tuỵ ấy. Người ta đang
bỏ công hô hào thể hiện nếp sống văn minh và tôi đang tìm cách để gượng giữ sự
thăng bằng. Nếu làm đứa lạc hậu, tôi đã siết ôm lấy Sầu Đông? Ôm giữ tựa một
cái phao luôn bị sóng nhồi giữa vùng biển động. Có ngờ được không, tôi vừa ăn hết
một gói xôi bọc lá chuối giá năm hào?
Tôi là phú ông tìm chẳng thấy thằng Bờm với quạt mo. Phải mà được làm phú ông với
ba bò chín trâu, tôi biết dâng hiến những gì cho Sầu Đông khi nhớ về nắm xôi
ngày nọ? Sầu Đông đã đoạn lìa với lối đi từng chọn, buông bút. Mình biết vẽ gì
khi giờ này chỉ rặt một thứ tranh cổ động, tuyên truyền và đầy lọc lừa. Phi nghệ
thuật, mình còn vẽ thì đồng nghĩa với thoả hiệp những thứ xấu xa. Chị ấy nói,
mình đã tập tành đóng vai một con buôn lê la mấy năm nay. Nhưng cái phỉnh gạt của
đứa chuyên mua đi bán lại e dễ thứ tha hơn việc vẽ vời đen thành trắng. Từ hoạ
sĩ biến thành con buôn, vách ngăn chỉ mỏng tựa một khung lụa? Đâu có gì kiên cố?
Ngay một guồng máy cũng bị sụp đổ!
Chị xuống ở một ga xép. Tôi nhảy theo. Nhảy không toan tính.
Sầu Đông bối rối, chừng hoảng hốt. Làm chi rứa? Đi mô đó? Tôi đeo ba lô lên,
tôi muốn kiếm một quán nước, mời chị vào để kể nhau nghe sự nổi trôi của từng
cá nhân. Mình đang buôn hàng quốc cấm, không sợ bị liên luỵ à? Không. Tôi nói.
Tôi muốn có một ràng buộc dài lâu cùng chị, kể cả cùng ngồi bên nhau sau chấn
song. Giờ đây thì tôi đã vững tay, tôi có thể vẽ ra giấy khuôn mặt nếu chị ngồi
yên. Để làm gì? Để khiến người ta ghen tuông à? Tôi phát hiện là bàn tay trái của
Sầu Đông có chiếc nhẫn vàng tròng vào ngón. Đó là thứ chứng minh phiền hà về điều
chị vừa thổ lộ? Phải tách ra, họ bảo vậy, tới chiều anh ấy mới đến, đi bằng xe
đò. Bạn có quen ai ở đây không? Tôi nhìn quanh, trống trải. Trong gió hiếm, nó
xô qua chút vị mặn thuỷ chung của trùng khơi biển rộng. Không nghe tiếng sóng,
nhưng hiểu được một bờ bãi đầy lưu lượng muối xát nằm đâu đó, không xa.
Rất tiếc là chúng ta gặp nhau không đúng thời điểm cũng như
nơi chốn. Mình luôn thương bạn, tin vào tình bạn, nên mình phải thú nhận, mình
sẽ đánh liều vượt biển đêm nay. Mình sẽ hôn bạn, thế một trao gửi yêu thương lần
cuối. Hãy nguyện cầu cho mình được bình an. Tàu hoả đã rời ga xép, hành khách
đã tản mác tứ phương. Ngoài kia là hai đường sắt luôn song song và Sầu Đông vừa
cho tôi nếm được vị mặn có trên môi nồng. Chị cởi chiếc nhẫn vàng đeo vào tay
tôi. Hãy bán nó nếu bạn túng quẫn, bằng không thì…
Tôi chôn chân trên nền xi măng nham nhở găm nhiều vết lở.
Tôi như một đầu tàu vô dụng, một khối sắt đen đúa vô tri đơn thân giữa ga lạnh.
Sầu Đông bỏ chạy như ảo ảnh, như một điều không thực vừa ghé qua. Như thế, đời
sống đã lấy đi hạnh phúc mong manh sau cùng của tôi. Và kỳ lạ thay, bạn nhìn
kho báu của mình dật dờ trôi xa để thầm mong thứ vật bất ly thân ấy sẽ sớm gặp
một bến đậu an lành, ngoài tầm tay với. Tôi ngó quanh, thực sự chẳng biết đang
toan tính gì? Đang chờ đợi điều chi? Bóng chiều theo mây vừa trôi qua đỉnh núi,
vẽ lên bầu trời những vệt màu bẩn, nát tan.
Hồ Đình Nghiêm
(Montreal, Canada)
(Montreal, Canada)