wikiLover
Chợ Tết của cộng
đồng người Việt ở Montreal thường được tổ chức trước ngày mồng một Tết, có khi
thì vài ngày, nhưng cũng có lúc một vài tuần, vì còn tuỳ theo sự thuê mướn địa
điểm. Tôi sống ở thành phố Quebec, nhưng năm nào cũng về tham dự chợ Tết, bởi
đây là cơ hội gặp đồng hương, và nhất là bạn bè mà cả năm mỗi người mỗi việc,
ít khi thấy mặt nhau.
Chúng tôi đến
chợ Tết khá sớm, vào bên trong chỉ thấy khoảng năm, sáu mươi người, nhưng phần
lớn có lẽ là người trong gia đình của chủ nhân các bàn bán thức ăn, họ cần đến
sớm để chuẩn bị trước khi khách đến. Khu ẩm thực được sắp xếp ở góc hội trường
gồm những bàn rộng đặt nối tiếp nhau, có đủ các món ăn đặc biệt của người Việt.
Hiền đề nghị:
Anh à! Lợi dụng
lúc ít người như thế này nên đi một vòng, xem có món gì thích thì ăn trước cho
chắc bụng, sau đó ngồi chơi, gặp lại bạn bè tha hồ nói chuyện, không phải lo
cho cái bao tử nữa.
Không đợi tôi trả
lời , Hiền kéo tôi lại các dãy bàn bán thức ăn. Rồi cũng không cần
hỏi ý, đến hàng
bánh bèo lấy ngay cho tôi một đĩa và qua hàng bên cạnh chọn cho mình một đĩa
bánh cuốn. Mỗi người một đĩa mang ra bàn ăn. Tôi hỏi Hiền:
- Em làm gì như bị
bỏ đói lâu ngày vậy, ăn mà không chọn lựa gì cả?
Hiền cười
vui vẻ nói :
- Cũng có nhiều
món ăn để chọn, chỉ liếc qua là biết hết rồi. Gì chứ ăn em lẹ mắt
lắm ...! Nhưng
mình chỉ ăn những món ít khi được ăn như bánh bèo bánh cuốn, gỏi đu đủ... , còn
những món khác có thể làm được ở nhà. Em lấy mỗi người một đĩa chia nhau ăn, nếu
ngon thì mua thêm, còn không ngon mình chọn món mới.
Tôi và Hiền
chia nhau ăn hết hai đĩa bánh, Hiền tự động đứng lên mua thêm các món ăn khác.
Phần vì chưa ăn sáng, phần vì lâu lâu mới có dịp ăn lại các món này nên tôi ăn ngon lành. Ăn xong, trong khi cả
hai cùng ngồi uống nước trà, Hiền mới đưa mắt quan sát chung quanh rồi đưa ý kiến:
- Người ta vào
cũng nhiều nhưng chưa đông lắm. Em nghĩ không biết trong tương lai, các thế hệ
sau mình có còn biết tổ chức được như vầy không?
- Em khéo lo chuyện
bò trắng răng, mỗi thế hệ có một cách thích ứng với đời sống, nếu chúng nó thấy
cần thiết thì làm, không thì thôi!
- Anh nói chuyện
huề vốn, ai chẳng biết như vậy!
- Thật ra anh tin
rằng các thế hệ sau sẽ không quên truyền thống đâu vì luôn được nhắc nhở. Ngày
nay thế giới rất gần nhau, đi lại cũng dễ mà thông tin thì tràn ngập. Thế hệ trẻ
lại thường xuyên tiếp xúc với internet, mở máy vi tính là biết ngày hôm nay là
Tết ta hay Tết tây ngay. Chỉ có khác với chúng ta là lớp trẻ lớn lên bên này
không có cái cảm xúc của phút giao thừa, của ngày đầu năm như chúng ta thôi.
- Anh nói đúng,
mình ở đây đã lâu nhưng mỗi khi Tết đến, thắp nhang cúng giao thừa em đều cảm
thấy xúc động trong giờ phút linh thiêng...
Chợt có người lên
tiếng:
- Chào anh chị,
anh chị đến sớm quá vậy?
Nhận ra Trác, một
người bạn của em tôi, tôi đứng lên bắt tay:
- A ! Chào chú
Trác, khoẻ không? Cô đâu mà thấy chú một mình?
- Dạ, nhà em đang
nói chuyện với bạn ở đàng kia. Còn anh chị như thế nào?
- Anh chị cũng
thường thôi, chú ngồi xuống đây đi.
Tôi vừa nói vừa
kéo chiếc ghế bên cạnh, rồi tiếp:
- Anh nghe Sinh
nó bảo lúc này chú thường xuyên về Việt Nam lắm, phải không?
- Dạ đúng, em có
mở một cơ sở sản xuất ở bên đó.
Hiền lên tiếng:
- Chú về làm ăn
có được không? Thế cô có đi theo chú không?
Trác cười :
- Công việc thì
cũng tạm ổn định, còn nhà em thì cùng về với em, chứ cô ấy đâu dám cho em đi một
mình!
- Cô ấy làm như vậy
là phải rồi, chồng đâu vợ đó mới được. Các ông bây giờ mà thả về Việt Nam một mình chỉ có hư!
Tôi trách
Hiền :
- Em cứ vơ đũa cả
nắm, chẳng lẽ ông nào về Việt Nam một mình cũng bậy
bạ cả sao?
Hiền cười trả lời:
- Em chẳng tin
ông nào cả!
Bà con người Việt
đến tham dự đông đảo hơn, câu chuyện của chúng tôi bị ngắt quãng bởi phải chào
hòi và trả lời vài người quen. Đến trước giờ khai mạc, trước sân khấu đã đầy
người. Sau khi ban tổ chức thực hiện các nghi thức khai mạc chợ Tết là văn nghệ
giải trí, các ca sĩ lên hát những bài ca mùa Xuân quen thuộc. Một người bạn đến
kéo Hiền nhập vào nhóm phụ nữ. Tôi thấy vậy vỗ vai Trác nói:
- Hai anh
em mình ra đây kiếm cà phê uống đi.
Trác theo
tôi ra quầy bán cà phê mua mỗi người một ly rồi cả hai cùng bước ra góc phòng,
tôi hỏi Trác:
- Em về bên
đó làm ăn ra sao, có khó khăn lắm không?
- Em chỉ
đưa về bên đó sản xuất một số bộ phận cho hãng chính ở bên này, khó khăn thì
đâu chẳng có, nhưng ở Việt Nam thì mình biết điều
với chính quyền một chút cũng xong thôi.
Đứng nói
chuyện một lúc có vài người khác nhập cuộc; đó là bạn của Trác hoặc của tôi.
Chúng tôi đứng thành vòng tròn, nói cười rộn rã. Tôi chợt nghe một giọng đàn
ông khá lớn từ một nhóm khác ở sau lưng tôi, cách một khoảng không xa. Sự chú ý
của tôi không phải cách phát âm giọng miền Trung pha thổ ngữ miền Nam mà ở lời nói. Ông
ta đang lên án những sai trái của nhà cầm quyền Việt Nam hiện tại, nhưng nội dung thì không mang được điều
gì mới lạ cho lắm. Như để biện minh cho lời nói của mình, ông lên giọng: “Bây
giờ ở bên đó thì thế này... , hiện nay thì thế nọ...” Nghe những lời như vậy tôi chắc rằng ông ta mới từ Việt Nam sang hoặc mới ở Việt Nam về. Tôi thử liếc xem người đó là ai, nhưng ông
ta đứng xoay lưng về phía tôi nên không thể thấy mặt. Nhìn từ phía sau lưng, đó
là một người tầm thước, có vẻ hơi gầy, tóc bạc và hói, mặc bộ com lê màu nâu đậm.
Không giải toả được thắc mắc của mình, tôi lại tiếp tục chuyện trò với các bạn.
Một người bạn nữa của Trác nhập bọn, được giới thiệu là Sơn, anh ta hỏi Trác:
- Tôi tưởng ông
đang ở Việt Nam và ăn Tết ở bên đó chứ!
Trác trả lời:
- À ! Hai mươi
tám Tết tôi phải có mặt bên đó để ăn tất niên với anh em trong hãng, hai hôm nữa
là tôi đi rồi.
- Ông sướng thật,
đi Việt Nam mà cứ như đi chợ!
Một bạn khác chen
vào:
- Sướng nỗi gì ,
bà xã kè kè bên cạnh còn làm ăn được gì nữa!
- Chẳng lẽ đi đâu
bả cũng theo à, phải có lúc lơ là chứ!
- Ai chứ ông Trác
là thứ chân chỉ hạt bột mà....
Chợt thấy Khoát ,
một người bạn cũ đi qua, tôi tách mình ra khỏi nhóm lên tiếng gọi:
- Anh Khoát !
Khoát quay
lại, bắt tay tôi vui vẻ hỏi:
- Ồ! Anh Giao,
lâu quá không gặp, anh chị vẫn mạnh khoẻ chứ?
- Cám ơn, tụi tôi
cũng thường, còn anh chị ra sao?
- Tụi tôi đều về
hưu cả rồi, bây giờ ở nhà trông cháu, thỉnh thoảng đi du lịch chỗ nọ chỗ kia.
- Thế thì anh chị
sướng quá, tụi tôi còn phải làm thêm vài năm nữa mới được nghỉ hưu. Vậy anh chị
đã về Việt Nam chưa?
Khoát thở dài:
- Không anh ạ!
Tôi nhớ Sài Gòn lắm, nhưng đã có bao nhiêu lần tù tội,
mấy lần vượt biên suýt chết mới đi thoát, bây giờ lại tìm về, tự thấy vô lý
quá, trừ khi chế độ đó không còn.
Vừa nói chuyện với
Khoát, tôi vừa chọn vị trí để có thể trông rõ người đàn ông mà tôi thắc mắc.
Không lẽ đó là Thành! Tôi tự hỏi như vậy và nhìn thật kỹ hơn, chẳng còn phải
nghi ngờ gì nữa. Khuôn mặt Thành khắc khổ hơn xưa, nhiều nếp nhăn nhưng có thể
nhận ra ngay nếu như tóc không bạc và đừng đeo kính lão. Thành là một bạn học của
tôi từ lúc còn học trung học, và cuộc đời của tôi có ít nhiều ảnh hưởng bởi anh
ta.
*
Vào ngày đầu
niên học của tôi ở lớp đệ tứ, trong khi thầy hướng dẫn đang chuẩn bị những công
việc cần thiết cho lớp như bầu lớp trưởng, tổ trưởng..., chợt có một học sinh lạ bước vào, trình cho thầy một tờ giấy nhỏ. Xem xong
thầy nhìn quanh lớp, thấy chỗ ngồi bên tôi còn trống, quay lại bảo người học
sinh mới xuống ngồi cạnh tôi. Giờ ra chơi, tôi được biết tên người bạn mới tên
Thành, vừa từ miền Trung chuyển vào Sài Gòn. Thành có dáng người tầm thước, hơi gầy, khuôn mặt
khắc khổ và trông già dặn hơn các bạn đồng lớp, giọng nói nặng nhưng không khó
nghe lắm. Học chung với nhau được một vài tháng, tôi nhận thấy Thành không có ý
kết thân với ai, với các bạn chỉ tiếp xúc chừng mực như cố giữ khoảng cách.
Trong lớp, tôi đã có vài đứa bạn rất thân từ mấy năm trước, hay đi chơi chung với
nhau. Nhưng khi tôi rủ Thành nhập bọn thì Thành thường từ chối. Lúc đó tôi
có nhận xét là do mặc cảm hơi quê mùa nên Thành ngại. Sau này tôi mới biết tôi
đã có nhận xét sai, nhưng cũng chính vì nhận xét sai lầm đó mà tôi cảm thấy
thương hại và với cơ hội ngồi cùng bàn, tôi và Thành trở nên thân thiết hơn.
Theo như lời
Thành kể, vì cha mẹ Thành ở ngoài quê đều qua đời nên phải vào Sài Gòn sống với người anh làm công chức ở Bộ Y tế.
Nhà người anh thì nhỏ, gia đình lại đông con nên Thành cũng chỉ nhờ mỗi ngày
hai bữa cơm, thiếu chỗ yên tĩnh để học hành. Vào thời đó còn phải thi trung học
đệ nhất cấp nên khi nghe Thành tâm sự tôi cũng chạnh lòng. Về nhà kể lại cho
cha mẹ tôi nghe, cha tôi bảo nếu tôi thích thì buổi tối gọi Thành lại nhà học
chung cho có bạn. Khi tôi nói ý kiến của cha tôi thì Thành chấp thuận
ngay. Từ đó, vài ba ngày Thành đến nhà tôi cùng nhau học hành, ăn ngủ...
Bấy giờ tuổi
tôi chỉ trên dưới mười lăm, chưa có ý thức gì về chính trị, nhưng trong những
lúc thong thả ngồi nói chuyện với nhau, Thành hay hướng đề tài qua các vấn đề về
tình hình đất nước, về quốc gia và cộng sản. Thành tỏ ra hiểu biết về các cuộc
cách mạng vô sản ở Nga và Tàu, thường ca ngợi những thành quả do cách mạng mang
lại. Với đầu óc non dại thuở ấy, hai chữ cách mạng đối với tôi mang một ý nghĩa
hết sức lãng mạn, con người cách mạng tiêu biểu của tôi là Dũng trong truyện
“Đoạn tuyệt” của Nhất Linh. Có lúc tôi cũng mơ mộng
được làm người cách mạng như Dũng, có Loan luôn trông ngóng ở cuối trời, mặc dù
không biết công việc cách mạng của Dũng như thế nào! Trong những lúc thảo luận
với Thành, tôi ngây thơ nghĩ rằng chỉ là sự thảo luận suông của những người
thanh niên mới lớn, muốn hiểu biết thế giới chung quanh, không có mục đích gì
khác. Nhưng dần dà tôi lại có cảm tình với những nhà cách mạng trong thế giới cộng
sản, và thích những hứa hẹn mà chủ nghĩa cộng sản sẽ mang lại cho xã hội.
Năm học
trôi qua, cả hai chúng tôi đều thi đậu. Những ngày hè còn lại tôi cùng bạn bè
vui chơi hồn nhiên, đi đá banh, xem phim... Mỗi lần các bạn kéo nhau
đi chơi đâu, tôi cũng rủ Thành, nhưng Thành thường từ chối, viện lý do bận đi
làm trong một khách sạn để có tiền chi tiêu. Một buổi chiều tôi đi chơi về đến
nhà thì thấy Thành đang ngồi nói chuyện với cha tôi. Gặp nhau, Thành vui vẻ cho
biết đến tìm tôi để rủ tôi đi ăn mừng vừa mua được chiếc xe gắn máy. Tôi tròn mắt
hỏi:
- Sao hay vậy? Tiền đâu mà mua xe?
- Ông anh mình vừa về ngoài quê bán căn nhà
của ông bà già, mang tiền vô chia cho mình một phần nên mới có tiền mua xe.
Mình vừa nói chuyện và xin phép hai bác cho Giao đi chơi với mình tối nay. Bây
giờ mình đi đi!
Tôi hân hoan chào
cha mẹ rồi đi theo Thành. Thuở đó học sinh mà có xe gắn máy rất hiếm, đa số đều
đi bằng xe đạp. Tôi mê xe máy lắm, nhưng đó vẫn còn là một ước mơ xa vời. Gia đình tôi thuộc tầng lớp trung
lưu nhưng cha tôi hứa chỉ khi nào lên đại học mới mua cho xe gắn máy, do đó thấy
Thành có xe là tôi bị lôi cuốn ngay. Bước ra khỏi nhà, Thành đến bên chiếc xe
hiệu Sachs hai màu xanh trắng, mở khoá rồi hỏi tôi muốn chạy thử không, vì chưa
quen lái xe gắn máy nên tôi ngại và từ chối. Biết vậy Thành bảo hôm sau sẽ mang
xe lại chở tôi ra sân vận động, cho tôi “zợt “ vài vòng sẽ quen ngay. Buổi tối
hôm đó tôi được đi ăn cơm Tàu ở Chợ Lớn, rồi đi một vòng Sài Gòn. Cả hai đi đến
khoảng mười một giờ đêm mới trở về. Có lẽ đây là kỷ niệm vui nhất mà tôi có được
với Thành trong thời
đi học. Và cũng từ đó tôi thường
tìm gặp Thành để rủ nhau đi chơi, nếu Thành giao xe cho lái thì tốt, còn nếu được
ngồi sau xe cũng là hạnh phúc lắm rồi.
Một buổi tối
tôi đi chơi với Thành hơi khuya, về đến nhà thấy cha tôi còn thức. Một điều hơi
bất thường vì như mọi ngày khoảng mười giờ là ông đã đi ngủ. Thấy tôi về cha
tôi gọi lại, tưởng sẽ bị la vì chuyện đi chơi về trễ, nhưng ông chỉ hỏi tôi về
Thành. Sau khi nói hết những gì tôi biết về Thành thì cha tôi bảo :
- Con cần phải để ý hành động của nó, vì ba
nhận thấy nó có điều gì đó khả nghi. Nếu không thân cộng thì có thể nó đang hoạt
động cho cộng sản!
Tôi hơi ngạc
nhiên vì lời nói của cha tôi nên hỏi lại:
- Tại sao ba biết nó theo cộng sản?
- Ba đã có dịp nói chuyện với nó và đôi khi
vô tình ba cũng nghe được những gì nó nói với con. Dĩ nhiên ba không có bằng chứng
nhưng ba có nhận xét riêng của ba.
Vốn có thiện
cảm với cộng sản, nên tôi đánh bạo trả lời:
- Con thấy cộng sản cũng đâu có xấu gì, nó
đem lại công bằng cho xã hội, không ai bóc lột ai...
Cha tôi ngắt lời:
- Con đã biết gì về cộng sản mà nói như vậy.
Ba chắc chắn những ý tưởng đó là do thằng Thành gieo vào đầu óc con. Trên đời
này không có cái gì hoàn toàn xấu mà cũng không có cái gì hoàn toàn tốt, vì vậy
cộng sản hay quốc gia cũng có cái mặt xấu mặt tốt của nó. Nhưng kinh nghiệm cho
ba thấy, nếu phải chọn lựa bên này hoặc bên kia thì ba chọn bên này. Tuy nhiên
con còn nhỏ, chưa hiểu được cặn kẽ vấn đề thì không nên để ý vào chuyện này, lo
học hành trước đã.
- Như vậy ba có ý nói con đừng chơi với thằng
Thành nữa?
- Phải, con nên xa lánh nó thì hơn. Nhưng phải
tìm cách giản ra từ từ, đừng làm nó nghi ngờ.
Cha tôi giải
thích thêm những điều hơn thiệt cho tôi nghe rồi mới đi ngủ. Tôi có thói quen
không đối chất với cha mẹ, vì vậy trong lòng không đồng ý hoàn toàn những gì
cha tôi nói, bởi tôi chưa nhìn thấy hành động nào gọi là cộng sản của Thành cả,
nhưng cũng đành im lặng. Dù đã hứa phải tìm cách xa lánh Thành, nhưng cả hai đứa
vẫn thường gặp nhau. Tôi nói dối với Thành là cha tôi la vì từ khi có xe gắn
máy, hai đứa đi chơi nhiều nên tốt hơn là Thành đừng đến nhà tôi nhiều như trước.
Thật tình tôi cũng không thích lắm tính tình độc đoán của Thành, nhưng điều khiến
tôi còn giữ liên lạc là vì chiếc xe gắn máy. Biết ý tôi thích xe nên lần nào gặp
nhau hay hẹn hò đi chơi Thành đều giao cho tôi lái. Nhiều người quen biết gặp
Thành và tôi chở nhau trên chiếc xe gắn máy, vô tình nói lại cho cha mẹ tôi
nghe. Tôi lại bị cha tôi mắng cho một trận, do đó tôi không dám gặp Thành nhiều,
năm bảy ngày mới có một lần. Nhưng không hiểu tại sao mỗi lần tôi lén lút đi
chơi với Thành là hầu như cha tôi đều biết, mặc dù tôi đã cố tránh mọi người.
Cha tôi cho là tôi không nghe lời, vì vậy gần đến ngày tựu trường, ông quyết định
gửi tôi lên nhà chú Tánh, em ruột của cha tôi trên Đà Lạt để ăn học và xa cách Thành.
Lúc đầu tôi
quyết liệt từ chối việc đi xa nhà, nhưng cha tôi không nhượng bộ. Ông đích thân
dẫn tôi lên nhà chú Tánh. Tại đây tôi thấy hai người bàn bạc to nhỏ với nhau,
sau đó chú tôi dắt tôi lên trường Trung học Trần Hưng Đạo để xin cho tôi vào học
lớp đệ tam. Nhìn thấy ngôi trường nằm trên đồi soi bóng mặt hồ, tôi rất thích
nên cũng bớt đi nhiều buồn phiền. Hai cha con tôi về lại Sài Gòn để tôi
thu xếp đồ đạc, chuẩn bị chuyến đi xa nhà lần đầu tiên trong đời.
Tôi rời Sài Gòn vào một buổi sáng sớm trời mưa. Tôi bịn rịn chia tay mẹ và các em rồi cha tôi
đưa tôi ra bến xe bằng chiếc Vespa của ông. Trên đường đi, cha tôi dừng xe ở một
tiệm phở để cùng nhau ăn sáng. Tính tình của cha tôi nghiêm khắc nhưng chắc
trong lòng cũng buồn khi xa tôi. Trong lúc ngồi ăn, ông khuyên tôi nên lo chuyện
học hành, đừng mơ màng những chuyện hão huyền. Ông cũng khuyên tôi sau này nên
học sư phạm, vì làm thầy giáo thì bắt buộc phải có cuộc sống đạo đức, sau nữa
là cái nghề thầy giáo có làm có ăn, không thể hoặc ít khi có thể nhận bổng lộc
nào khác. Khi ra đến bến xe, cha tôi mua vé xong, cả hai cùng đứng đợi giờ xe
chạy. Thấy tôi buồn buồn, như để động viên tinh thần, cha tôi bảo nếu sau nửa năm học trên Đà Lạt mà kết quả học tập tốt thì sẽ thưởng cho một chiếc xe gắn máy. Tôi
xúc động vì phải đi xa nhà và tình thương của cha mẹ, cố giữ không để rơi nước
mắt tôi bước nhanh lên xe. Khi xe chạy khuất ra khỏi ngã tư còn thấy cha tôi đứng
nhìn theo. Tôi tự hứa sẽ cố gắng không làm cha mẹ tôi phải buồn vì tôi nữa.
Nhà chú
Tánh ở Đà Lạt khá lớn, chú thím chỉ có hai người
con, một trai một gái đều nhỏ tuổi hơn tôi. Tôi được ở một phòng riêng rộng
rãi. Chú làm ăn khá giả nên không tính toán gì về chi phí ăn ở của tôi với cha
mẹ tôi, chỉ yêu cầu tôi dạy học thêm cho hai đứa em. Tôi còn có may mắn được
chú Tánh mua ngay cho một chiếc xe gắn máy mới tinh để đi học. Chú nói vì thấy
khoảng cách từ nhà đến trường khá xa, mà Đà Lạt lại nhiều dốc đồi, sợ tôi đi xe đạp mệt, không còn sức học tập. Nhưng
tôi cũng hiểu mua xe cho tôi, ngoài việc cho tôi đi học còn có thể chở thím đi
công chuyện những khi chú bận, và lại còn được lòng cha mẹ tôi vì biết lo cho
cháu. Dù gì đi nữa thì tôi cũng được một chiếc xe Puch ba đèn, ba số, chạy êm
như mây trời. Thói đời được voi đòi tiên, tôi lại ngắm nghía chiếc xe Peugoet
403 màu xanh đen bóng loáng mà mỗi tuần chú Tánh cho phép... rửa!
Trong thời
gian ở Đà Lạt, tôi chỉ chú tâm vào chuyện học hành và
vui chơi với các bạn. Đà
Lạt đã cho tôi một khung
trời êm đẹp, bình yên. Thỉnh thoảng có nghe tin tức của Thành qua báo chí, vì
Thành sinh hoạt trong Tổng hội sinh viên học sinh. Từ ngày rời Sài Gòn, tôi không còn liên lạc gì với Thành nữa. Thời
gian êm đềm trôi qua, học xong trung học tôi thi vào trường sư phạm như ý của cha tôi. Tốt nghiệp xong tôi được nhận dạy
học ở Đà Lạt, rồi gặp Hiền để trở thành vợ chồng, rồi
con cái ra đời... Tôi sống an phận với nghề thầy giáo. Cha tôi đã có một thời
theo Việt Minh, chắc vì vậy mà ông có kinh nghiệm để
nhận xét về Thành. Còn với tôi, có lẽ cha tôi đã nhìn thấy trước sự tầm thường
của đứa con trai đầu lòng của ông; sẽ chẳng làm nên vương nên tướng gì cả thì đừng
để bị cuốn hút vào chuyện cách mạng với chủ nghĩa.
Tôi yêu mến Đà Lạt nên tin tưởng sẽ sống mãn đời ở đó, nhưng cuộc
đời không như tôi suy nghĩ. Sau ngày miền Nam thất thủ, gia đình tôi kẹt lại ở Đà Lạt trong khi cha mẹ và các em tôi đều di tản sang Mỹ. Bốn năm sau gia
đình tôi mới vượt biên và định cư ở Canada cùng với tất cả gia đình Hiền. Bây
giờ tôi mang một quốc tịch khác với cha mẹ và các em tôi. Nhớ lại buổi sáng trời
mưa năm nào, cha tôi đưa ra bến xe đi Đà Lạt, lần đó tôi rời gia đình và mãi mãi không
còn được gần gũi nữa!
*
Khoát và tôi đứng
nói chuyện một lúc thì có thêm vài người bạn tụ lại, trong đó có Đức, anh là
người bạn láng giềng của gia đình tôi ở Sài Gòn, sau khi chào nhau, hỏi thăm nhau về gia đình của
hai bên, anh có vẻ chán chường:
- Thấy tuyết ngập trời thật là
chán, tôi chỉ muốn về lại Việt Nam, sáng sáng ra đầu ngõ uống ly “xây chừng” ngắm nhìn thiên hạ qua lại mà vui!
- Bây giờ anh muốn về cũng được mà, anh đã
nghỉ hưu rồi chứ gì?
- Thì tôi đã nghỉ hưu được hơn một năm nay,
nhưng muốn về cũng phải chờ thay đổi chế độ trước đã.
- Anh có “ nợ máu với nhân dân “ đâu mà phải
sợ, anh chẳng có dính dáng gì với nguỵ quân nguỵ quyền mà?
- Đúng vậy, với chế độ mới lý lịch của tôi rất
tốt, tuy nhiên thấy những hành vi chướng tai gai mắt của họ tôi không chịu được.
- Nghe nói bây giờ thay đổi nhiều lắm rồi
anh ơi! Thiên hạ về hà rầm anh không biết sao?
- Biết là vậy nhưng tôi vẫn chưa thay đổi được
thành kiến...
Một người có lẽ
là bạn của Khoát đứng bên cạnh nghe chuyện bèn lên tiếng:
- Về Việt nam hả! Không bao giờ tôi về, bố
tôi chết trong trại học tập cải tạo, nhà cửa, tài sản của gia đình tôi từ mấy đời
nay đều bị tịch thu, cả nhà tôi phải ra đi với hai bàn tay trắng. Tôi không đội
trời chung với chúng nó...
Nghe anh bạn
nói vậy, tôi hình dung đến số phận nghiệt ngã mà sau cuộc chiến đã có một số
không ít gia đình phải hứng chịu. Thật khó dùng từ ngữ nào để nói chuyện với
anh ta trong trường hợp như thế này.
Đang nói chuyện
rôm rả thì Hiền đến nhắc tôi :
- Khoảng nửa giờ nữa mình chuẩn bị về là vừa,
tối nay có tuyết, đi đường nguy hiểm lắm.
- Ừ, em làm gì thì làm khi nào muốn về thì gọi
anh.
Tôi lại tiếp tục
nói chuyện cùng các bạn cho đến khi Hiền trở lại mang theo áo lạnh cho tôi để
chuẩn bị ra về. Bắt tay từ giã và chúc Tết các bạn rồi cả hai chúng tôi mặc áo ấm
cùng đi ra cửa. Nhưng khi vừa ra đến cửa thì gặp Thành bước vào. Gặp tôi, Thành nhìn một lúc rồi lên tiếng:
- Có phải là Giao không?
Tôi làm như không
biết gì đáp:
- Phải, tôi là Giao, còn anh có phải Thành
không?
Đúng , Thành đây,
lâu lắm mình mới gặp lại nhau!
- Ừ, có đến hơn ba mươi năm. Thành qua đây hồi
nào, qua chơi hay định cư ở đây?
- Mình qua định cư luôn cùng bà xã và mấy đứa
nhỏ.
- À, đây là Hiền, bà xã mình, còn bà xã
Thành đâu?
- Nhà tôi và mấy đứa nhỏ vừa ra về theo xe của
ông anh. Gia đình mình qua đây do anh ấy bảo lãnh, chắc Giao còn nhớ ông anh
mình chứ! Mình qua đây cũng vì muốn cho mấy đứa nhỏ có cơ hội học hành tốt
hơn...
- Thành đã có việc gì làm chưa?
Thành trả lời
theo tiếng thở dài:
- Hiện tại mình
làm ở tiệm ăn của ông anh, tương lai chưa biết ra sao. Dù muốn dù không thì
cũng phải bắt đầu làm lại thôi!
Nói chuyện một
lúc, tôi trao đổi địa chỉ với Thành để liên lạc và nói lý do phải về sớm rồi
chia tay.
Trên đường về,
tuyết rơi lất phất, hai bên đường những hàng cây trơ cành trụi lá, lạnh lẽo bao
trùm không gian. Âm thanh những khúc nhạc mừng Xuân phát ra từ cái đĩa nhạc Hiền
mới mua, ca ngợi nắng Xuân ấm áp, cỏ cây xanh tươi làm xót xa thêm nỗi lòng người
xa xứ. Hiền im lặng lắng nghe nhưng bất chợt hỏi tôi:
- Anh Thành gặp ở cổng ra có phải Thành hoạt
động trong Tổng hội sinh viên học sinh ngày xưa, đến 30 tháng 4 thì lăng xăng theo đoàn bộ đội vào Sài Gòn không?
- Phải, nó học chung với anh năm đệ tứ.
- Sau này thấy anh ta cũng viết báo viết
sách gì đó, năng nổ dữ lắm. Tưởng theo cách mạng đã có quyền cao chức trọng rồi,
sao bây giờ lại chạy qua đây?
Tôi không muốn Hiền
bàn sâu vào chuyện này nên cười trả lời:
- Đâu có phải ai theo cách mạng cũng có quyền
có chức đâu em! Muốn có quyền hành thì số phải tốt, cung quan lộc phải có tử phủ
vũ tướng, tả phù hữu bật nữa chứ!
Đúng như ý tôi,
Hiền chuyển đề tài:
- À ! Anh nhớ ông Tống, chồng bà Phương
không, đang làm ăn khá giả bên này, bây giờ về Việt Nam thường xuyên, nghe nói có bồ nhí ở đâu bên đó rồi.
Đàn ông thật tệ! Mà cũng chỉ vì cộng sản thôi, nếu biết lo cho dân giàu nước mạnh
thì mấy ông bên này đâu có đem tiền về mà mồi chài mấy cô gái trẻ bên đó được.
- Ai lại kết
án theo kiểu trăm dâu đổ đầu tằm như vậy hả em! Hậu quả nào cũng phải có nguyên
nhân của nó, chỉ vì ông Tống mà kết luận chung như vậy thì đâu có công bằng.
Hiền không nói gì
thêm, im lặng một lúc rồi lên tiếng:
- Cứ mỗi lần đi chợ Tết như thế này em lại
nhớ Đà Lạt, nhớ cái không khí lành lạnh của những
ngày cuối năm, nhớ những năm êm đềm sống với ba mẹ, nhớ tiếng pháo đêm giao thừa...
Chắc hết cuộc đời mình cũng không thể về sống lại ở Đà Lạt, phải không anh?
Hiền nói phải,
chẳng bao giờ tôi còn mong tìm lại được cuộc sống an phận ngày xưa. Có những
ràng buộc cuộc đời tôi với xứ sở mới này và những khó khăn ngăn chặn đường về
quê cũ. Tôi ngậm ngùi nghĩ đến thân phận của những người Việt tha hương ở thế hệ
như tôi, những ưu tư của bao người phải bỏ nước ra đi vì lẽ này lẽ khác, mà mỗi
khi Xuân về lòng nghe ray rứt bởi tiếng réo gọi
của cội nguồn. Tôi lại nghĩ đến Thành, trong lòng thương cảm và nhận ra mình
còn có may mắn hơn Thành nhiều lắm. Tôi không trách việc Thành theo phía bên
kia, ít ra Thành cũng là người sống có lý tưởng. Giờ đây, dù lý tưởng đó có phản
bội hay không còn thích hợp với mình, thì cũng an ủi rằng mình đã sống một thời
hăng say, sôi nổi. Chỉ tiếc thế hệ chúng tôi sinh ra vào lúc vận nước đang hồi
đen tối, đầy những biến động khiến nhiệt huyết của tuổi thanh niên phải hao
phí, lắm khi lại bị chà đạp phũ phàng. Nếu được sống ở một đất nước thanh bình,
cái lý tưởng của Thành được đặt đúng nơi đúng chỗ sẽ cho một kết quả xứng đáng
hơn, chứ đâu phải như bây giờ mới bắt đầu làm lại cuộc đời, khi tóc đã bạc màu,
thân đã mệt mà tâm cũng chẳng an.
Mỗi năm,
khi Xuân về trên đất Việt xa xôi, tôi đều đi chợ Tết của cộng đồng người Việt,
mong tìm lại chút hương xưa ngày cũ của quê hương. Một quê hương thương yêu
ngàn trùng xa cách, một quê hương bị tàn phá bởi chiến cuộc lâu dài. Chiến
tranh bom đạn thì đã qua hơn nửa thế kỷ, những tàn tích trong chiến tranh như
bom, mìn, súng đạn rơi vãi trên mặt đất, dần dần được gom nhặt lại để phá huỷ
đi, những hố bom mìn cũng được san lấp để trồng lúa trồng rau. Nhưng cho đến
bây giờ chiến tranh vẫn còn để lại ít nhiều trong lòng người dân Việt khắp nơi
những hố hầm cách biệt, bởi ý thức hệ, bởi hận thù, bởi thành kiến... Quê
hương Việt Nam thân yêu đó, vẫn có người ra đi, vẫn có
kẻ tìm về, nhưng biết đến bao giờ thì những hố hầm kia mới được lấp đầy, để mỗi
khi Xuân về, tôi đi chợ Tết sẽ không còn phải nghe đâu đó những tiếng thở dài,
oán than. Một mùa Xuân nào đó, người ta đến đây hoàn toàn chỉ vì ý nghĩa của
mùa Xuân: vui tươi, hy vọng, hạnh phúc... Tôi trông chờ mùa Xuân ấy từ mấy mươi
năm nay, nhưng rồi mùa Xuân vẫn cứ ở nơi đâu!
QB 11/06
Hà
Đạo Hàm