Đang ngồi tán gẫu với mấy cô đồng
nghiệp Pháp, khách sạn cho hay có người đến kiếm. Tôi đảo mắt khắp cái hall
rộng mênh mông của The Grand Hyatt Hotel và nhận ra khách. Một người đồng
hương, cận thị nặng, gầy tong, búng một cái chắc bay qua bên kia Fifth Avenue,
lưng còng còng, nách ôm kè kè một bọc ny lông dầy cộm. Cái bọc ny lông to tổ bố
ấy là cái nguyên cớ đương sự đến kiếm tôi, ngoài lý do tìm gặp một người bạn
cũ. Viễn Cận.
Khách chính là Viễn Cận, tự Thi sĩ
Xa Gần, tự Viễn kiết, tự Bỉ sắc tư phong, tự NCCCDĐĐ, ngày nay là một công dân
Hoa kỳ, Michael Vien Van Pham. Xa Gần là do bạn bè diễn nôm chữ Viễn cận. Viễn
kiết vì không lúc nào người có môt xu dính túi. NCCCDĐĐ – Người Có Cu Chỉ Dùng
Để Đái – là biệt danh nói lên cái sự nghiệp tình dục của người, trước khi gặp
Quỳnh Giao.
Bỉ sắc tư phong là do cái nòi tình của Viễn đối với Nguyễn Du. Một hôm,
bạn bè, sau vài két la de, đưa người xuống xóm. Sau môt giờ nằm với một cô, y
ra về, thoải mái. Cô gái nói Viễn rất phong nhã, trả tiền sòng phẳng – sòng
phẳng cũng dễ, tiền do bạn bè hùn nhau tặng ông Viễn, nhân ngày sinh nhật của
Viễn – nhưng không đụng đến người cô nàng. Viễn có 6,7 ngày sinh nhật. (Hôm nay
là ngày sinh nhật của tôi, cậu nào muốn tổ chức ăn nhậu cứ tự nhiên, đừng ngại,
nhưng đơn giản thôi…) Trong một tiếng đồng hồ, y nằm giảng về Nguyễn Du, về
truyện Kiều. Cô gái nói anh Viễn ngâm Kiều tuyệt hay, giảng Kiều tuyệt hay, nhờ
anh Viễn mà cô trở thành một trong những cô gái ăn sương hiếm hoi ở Gò Vấp
thông hiểu cái triết lý bỉ sắc tư phong của cụ Tiên Điền.
Sau 75, tôi mất tin Viễn. Như mất
tin rất nhiều người khác. Những người thân, như những chiếc lá vàng, rụng tơi
tả, bị gió bão cuốn đi trăm ngả. Bây giờ, Viễn đứng đó, lù lù trước mặt tôi,
bằng xương bằng thịt. Bằng xương đúng hơn là bằng thịt. Đem lóc người ông Viễn,
giỏi lắm được vài lạng thịt nạc. Thịt mỡ còn hiếm hơn. Viễn Cận bóp chặt hai
vai tôi, lay mạnh:
– Tiên sư ông, kiếm ông mấy chục
năm, hộc xì dầu. Có hồi sang Pháp cả tháng, đi lùng khắp nước Tây kiếm không
ra. Tối qua, cô Hạnh gọi cho hay, tưởng cô ấy nói dỡn.
Chỉ trong những lúc khẩn trương, y
mới tiên sư ông, tiên sư cậu. Khi Viễn « phải lòng » Quỳnh Giao, y bao tôi đi
ăn thịt bò khô, sau khi quật ngã 7 chai la de, y lè nhè:
– Tiên sư, không hiểu nó có cái gì
khiến mình mất ăn mất ngủ.
Nói là bao cho hách, người
trả tiền không bao giờ là Viễn, vì một lẽ đơn giản: không bao giờ y có một xu
dính túi. Tiền bạc với Viễn là hai thứ rất ít có cơ hội gặp nhau. Nếu có gặp
nhau cũng chỉ chào hỏi qua loa rồi ai đi đường nấy. Y là một người quyết tâm
không đội trời chung với tiền bạc. Hay đúng hơn, tiền bạc kỵ anh cu Viễn.
Mỗi lần gặp bạn bè, y nói: tôi bao
cậu một bữa. Với cái giọng rất sư, rất cha nhà thờ, làm như chuyện được y bao
là một vinh hạnh. Ăn uống xong, y phán: Cậu trả tiền, mình về. Và để bày
tỏ lòng bao dung, y khen: bún thang nó làm được đấy. Rồi ân hận, thấy
lòng đại lượng có hơi quá đáng, y thêm: lần sau bảo nó cho bớt mắm tôm ; cái
anh bún thang, cho mắm nặng tay một chút, nước dùng nó nồng ngay.
Khi ngà ngà rượu, y cao hứng trình
bầy những khám phá mới nhất về truyên Kiều, về Nguyễn Du, cái đam mê của y. Y
nói Nguyễn Du là tất cả văn chương Việt nam. Nguyễn Du là một tay phù thuỷ.
Bằng chữ nôm, Nguyễn Du đã diễn tả được tất cả mọi trạng huống, mọi tình cảm
một cách thoải mái, quên rằng mình bị gò bó trong thơ lục bát, như một người đi
lại chạy nhẩy tự do trong nhà giam, quên béng mình đang ngồi chơi xơi nước nhà
tù. Trước khi chia tay, y vê vê hai ngón tay: có tiền cho tao vay mười tì. Mỗi
lần nghe đến tên cụ Tiên Điền, chúng tôi chuẩn bị mười tì. Có thằng đâm ra ác
cảm với Nguyễn Du, với Thúc Sinh, Hoạn Thư, Bạc Hạnh, Bạc Hà, ngay cả với Thuý
Vân, người đàn bà hiền lành, đức hạnh, ngay cả với Thuý Kiều, người đàn bà đa
tài mệnh bạc.
Viễn có vẻ cận hơn trước – Viễn có
thể cận hơn trước? – vì mặc dù với đôi kính dầy đến không thể dầy hơn, y phải
nheo nheo mắt để nhìn. Nhìn Viễn, tôi ý thức cái số lượng thời gian đã trôi qua
từ ngày chúng tôi xa nhau: tóc Viễn lốm đốm bạc và một vẻ mệt mỏi in hằn trên
từng phân vuông của bộ xương người biết đi trước mặt tôi. Lần cuối cùng khi
Viễn bao tôi nhậu thịt bò lúc lắc ở cầu chữ Y, tóc y còn xanh và đôi mắt
lúc nào cũng long lanh những đam mê. Khi đã làm hết 4 dĩa bò lúc lắc và nửa
chai đế ngâm rắn, y hỏi: tôi đố cậu trong truyên Kiều, (tôi thò tay vào túi,
chuẩn bị 10 tì,) nhân vât nào đáng coi là một chính nhân, theo cái nghĩa gentilhomme
của Tây? Viễn lắc đầu mỗi lần tôi nêu danh một nhân vật: Từ Hải, Kim Trọng,
Vương Ông…Đó là lần cuối cùng tôi nộp 10 tì cho Viễn. Tôi vẫn không biết ai là
bậc chính nhân trong truyện Kiều, vì sau khi bỏ 10 đồng vào túi, Viễn bị rượu
ngâm rắn quật ngã, đập đầu xuống sàn gạch, máu me đầm đề.
Sau mấy năm cải tạo, Bỉ sắc Tư Phong
vẫn còn cái vẻ ngơ ngác của một người chưa hoàn hồn. Y nói:
– Tôi mời cậu đi ăn cơm Mỹ.
Tôi mỉm cười, thò tay vào túi kiếm
10 tì và chột dạ: 10 tì bây giờ là mười đô la. Y trấn an:
– Mời thực đấy. Tôi không kiết như
hồi xưa đâu. Nếu muốn, tôi có thể mua một nửa New York.
Với thời gian, Viễn đã điềm đạm và
khiêm tốn hơn trước, nếu không y đã mua cả New York, hay ít nhất là hai phần ba
thành phố.
Tôi nói chắc khó đi ngay được, vì
sắp họp với đồng nghiệp. Y gạt ngang: quan hệ mẹ gì, cậu cứ lỉnh đi, ai biết
đâu. Có mợ thì chợ cũng đông, không mợ… Tôi nói đồng nghiệp toàn là Tây đầm,
tôi là người Giao Chỉ duy nhất, có trốn đằng trời. Nhận ra anh Giao Chỉ, dễ
lắm: anh ta có hai ngón chân cái giao nhau. Viễn quyết định, lúc nào y cũng làm
chủ tình hình:
– Cứ khai bệnh. Tôi cũng khai bệnh
đến đây. Bệnh tật, ai lường được.
Ra khỏi khách sạn, cái oi nồng khó
chịu phà vào mặt. New York, thành phố của những cánh cửa chia cái mát lạnh của
khách sạn điều hoà không khí với cái nóng hừng hực của đường phố. Thành phố của
những ông tổng giám đốc lãnh lương một tháng bằng 5 năm lương của người thợ.
Thành phố của những cú điện thoại trao đổi hàng triệu đô la và của những người
ngửa tay xin 25 xu. Thành phố của những nhà chọc trời, ban đêm bỏ trống khi hết
giờ làm việc, trong khi người ta ngủ lây lất ngoài đường.
Từ một máy điện thoại công cộng, tôi
gọi một cô đồng nghiệp ở khách sạn, cho hay là bị đau bất ngờ, bụng đau nhói,
mồ hôi vã ra như tắm, chắc phải nằm trong phòng ngủ cả ngày. Con nhỏ nói: đúng
rồi, ăn đồ Mỹ là khả nghi lắm, tao cũng không ngủ được cả đêm.Tây đầm, vốn hãnh
diện vì cái ăn cái mặc của họ, không quên chỉ trích cách ăn uống thô kệch của
người Mỹ. Nhận xét đầu tiên của mấy cô đầm Pháp khi ngồi trên xe ca từ phi
trường vào thành phố: dân địa phương nhiều người đi giầy basket. Không có gì
quê hơn là diện quần áo bảnh bao mà đi giầy vải. Dân New York lội bộ suốt ngày,
hùng hục chạy suốt ngày như bị ma đuổi, chuyện quan trọng với họ là làm sao cho
khỏi đau chân. Người Mỹ, người ta ăn cho mập, mặc cho ấm, chuyện thanh lịch là
một ý niệm rất đỗi mơ hồ.
Ngồi trong tiệm ăn, tôi hỏi:
– Quỳnh Giao đâu?
Viễn lúng túng ra mặt. Y hỏi: ketchup?
Tôi lắc đầu: đổ ketchup vào món ăn, cái hành động bạo tàn ấy, phải là
người Mỹ mới dám làm. Người bình thường, ai nỡ làm chuyện đó. Người Mỹ, họ rất
quyền thế. Họ muốn ở đâu có chiến tranh là ở đó thiên hạ choảng nhau chí choé.
Họ muốn yên là thiên hạ bắt tay, hôn hít nhau rối rít. Nhìn anh cu Viễn đổ
ketchup vào đĩa thịt, tôi nghĩ sớm muộn gì người Hoa kỳ cũng đem cái văn minh
ketchup đỏ lên đầu lên cổ thiên hạ. Ở Paris, nhiều quán cà phê trước kia là nơi
họp mặt của nghệ sĩ, ngày nay đã biến thành những tiệm fast food.Ở một
xứ Đông Âu, tôi thấy người ta phá một cái nhà thờ kiến trúc gothique để
mở một tiệm Mc Donald’s. Trong vài năm nữa hai phần ba nhân loại sẽ trở thành
những người mập ù trên 150 kí lô, trong cơ thể lưu hành một nửa là máu, một nửa
là coca cola, hay ngươc lại.
– Quỳnh Giao đâu? Tôi lập lại câu
hỏi.
Viễn loay hoay với dĩa thịt bò, loay
hoay với chai ketchup, loay hoay lấy kiếng ra lau đi lau lại, cuối cùng trả
lời:
– Moa sống một mình. Độc thân.
– Sao vậy?
– Chuyện dài lắm. Để thư thả, sẽ kể
cho toa sau.
Y lắc lắc cái chai một cách nóng
nẩy. Tôi nói ông đổ một nửa cái chai ketchup của nó rồi đó nghe. Viễn mở cái
bao ny lông to tổ bố vẫn ôm kè kè bên nách, đặt lên bàn một cọc giấy dầy cộm,
đủ khổ, đủ mầu sắc.
– Thơ của tôi, làm từ mấy chục năm
nay. Nếu không gặp lại cậu, chắc tôi không đọc cho ai nghe.
Tôi nói làm thơ mà không cho người
khác đọc thì có gì thú. “Cũng thú chứ,” Viễn cãi, “thú một mình. Cũng như thủ
dâm vậy.”
Cái liên hệ giữa thi ca và thủ dâm
là một điều ít người nghĩ tới. Viễn mù giải thích:
– Tính tôi, cậu biết đấy. Nếu không
có đàn bà sáng giá, tôi nằm thủ dâm một mình, không tằng tịu lăng nhăng. Mệt cu
mà không ích lợi gì cho quốc gia dân tộc.
Câu tuyên bố trên cho thấy tác giả
là một người yêu nước và là một người rất … lười. Tác giả luôn luôn nghĩ đến
đất nước, nhưng vì sợ mệt cu, tác giả chưa làm gì cho nước. Như vậy cũng đã là
người khả kính, vì nói chung, người An nam không những không làm gì cho nước mà
còn tìm mọi cách phá thối nhau để đất nước rách bươm. Người Mỹ không hỏi Hoa kỳ
đã làm gì cho mình, mà tự hỏi mình đã làm gì cho nước Mỹ. Người Pháp không hỏi
mình đã làm gì cho nước Pháp, chỉ hỏi nước Pháp đã làm gì cho mình. Người Nhật
nghĩ đất nước là đất nước chung, mỗi người phải ghé vai vào gánh vác. Cái anh
An nam, anh ta nghĩ đất nước là đất nước chung, mình không phá thối, chúng phá
cũng uổng.
Viễn cận cầm từng trang giấy, lên
giọng ngâm thơ. Mới đầu còn thầm thì, dần dần cao hứng, gào bô bô trong tiệm
ăn, bất chấp những người Mỹ chung quanh đưa mắt nhìn. Nhìn chi mà nhìn. Nhờ các
anh một tí. Cái gã đàn ông gầy còm, cận như mù đó, y đã bỏ ra hơn hai mươi năm
để làm mấy trăm bài thơ, các anh làm ơn cho phép y ngâm vài bài. Y có làm mất
cái yên lặng của tiệm ăn vài phút thì đã chết ai. Tôi tự nhiên muốn trèo lên
bàn, gào lên cho cả tiệm ăn biết là cái thằng cha bạn tôi, hắn đã nằm 12 năm tù
vì một cái tội mà hắn không hề biết, ngoài cái tội làm mấy bài thơ lỉnh kỉnh.Y
chỉ có một cái tội đã bỏ gần một nửa đời người mà không làm nổi một bài thơ
hay. Mười hai năm tù về cái tội ấy kể cũng có hơi quá đáng. Ngày xưa,người ta
quàng vòng hoa vào cổ thi sĩ và đuổi ra khỏi thành phố. Ngày nay, trước khi
tống cổ y, người ta nhốt y 12 năm, hành hạ như con chó. Chó ta, bởi vì chó tây,
chó Mỹ,người ta sung sướng, nhàn hạ lắm các ông ạ, đụng vào họ là các hội bảo
vệ súc vật nhao nhao phản đối. Ở xứ tây, giơ chân đá đít anh chó một cú, rắc
rối lắm ông ạ. Ở xứ ta, nếu anh có tí quyền hành trong tay, buồn buồn, anh đá
đít dân đen, dân đen không oán hận gì, chỉ xoa đít cám ơn ông đã nhẹ chân. Đi
qua nhà dân, thấy cái vườn đẹp, nẩy ra ý muốn tặng đào nhí. Bèn vác súng và lâu
la đến tịch thu cái vườn. Dân hiền như thế, không đá đít cũng phí của trời.
Viễn mù liên miên ngâm hết bài thơ
này tới bài thơ khác trong khi tôi ngồi đánh vật với mấy chai Budweiser, một
thứ bia Mỹ nhạt tanh như nước đái bò. Viễn hăng say như người lên đồng. Đôi mắt
cận mệt mỏi của đương sự đột nhiên long lanh và tôi bắt gặp Viễn mù của mấy
mươi năm trước. Mặc dù tóc đã điểm bạc,những nét nhăn chém trên trán, chiếc
lưng còng một ngàn cân đè xuống của người bạn, tôi chợt có cảm tưởng đang ngồi
nhậu thịt bò lúc lắc với Bỉ sắc tư phong ở cầu Ông Lãnh.
Tôi đọc ở đâu đó rằng con người
giống như một giòng sông, biến đổi không ngừng, nhưng lúc nào cũng là một. Sông
trôi không ngừng nhưng lúc nào cũng là khúc sông ấy. Hay ngược lại, người ta
không bao giờ tắm trong cùng một con sông.
Viễn hỏi: Cậu thấy thế nào?
– Cái gì?
– Thơ của tôi.
– Cũng được.
– Cũng được! Mẹ kiếp, thơ như vậy mà
cậu phán cũng được. Tôi vẫn tưởng cậu có đôi chút khả năng thưởng ngoạn thi
phú.
Y bất bình ra mặt. Đúng ra là một vẻ
thất vọng kéo khuôn mặt y dài ra 5 phân:
– Tâm hồn cậu cũng khô héo như thiên
hạ. Đó là cái bi kịch lớn nhất của những thằng ly hương.
Viễn mù nhìn tôi, thở dài, như nhìn
một cái gì rất đáng thương, rất đáng tội nghiệp, cái nhìn tuyệt vọng của của
một ông thầy thuốc thấy con bệnh hết thuốc chữa. Ngày xưa, Viễn nói hết
thuốc lào, hay chu đáo hơn, hết thuốc lào Vĩnh bảo.
Tôi nói thơ Viễn không phải bài nào
cũng là thơ để đời (và nghĩ không có bài nào là thơ để đời) nhưng thỉnh
thoảng có những hình ảnh đẹp, những câu hay bất ngờ. Tôi nói như vậy cũng đã là
nhiều, vì rất nhiều người cả đời không làm được mộ câu thơ hay, đủ để véo đùi
ngâm cho thoả. Thơ văn, nó cũng như một người đàn bà tuyệt sắc, nó đến với mình
một thoáng rồi đi. Làm thơ hay, khó lắm. Đâu phải ai cũng là Nguyễn Du, Lord
Byron hay Beaudelaire. Cả đời,Lưu trọng Lư chỉ làm một bài Tiếng thu, Thâm Tâm
một bài Tống biệt hành, Vũ Đình Liên bài Ông đồ. Tôi có thể tiếp tục cái danh
sách ấy, nếu Viễn đã không đứng lên, ngâm thơ như gào lên, mặt đỏ bừng vì rượu.
Trong khi Viễn lên đồng, tôi ngồi
nhai đĩa thịt bò vô vị, to tổ bố, đủ để nuôi môt tổng, phủ đầy dầu đậu phọng.
Người Mỹ có đầu óc sáng tạo ra đủ thứ tối tân, nhưng không đủ khả năng nấu một
miếng thịt cho có tư cách. Phải chăng món ăn là một hình thức văn hoá. Và văn
hoá nó không như khoa học hay kinh tế, nó cần thời gian, không thể đốt giai
đoạn. Giai đoạn 1: ăn lông ở lỗ, giai đoạn 2: kiếm ra lửa, giai đoạn 3: chế
biến món ăn thành một tác phẩm nghệ thuật. Người Mỹ đang ở giai đoạn 2, kiếm ra
lửa, biết nướng miếng thịt cho chín. Phải cầu kỳ rắc rối lắm mới như Tây, ngồi
tọng thức ăn vào họng con ngỗng để nuôi cái gan ngỗng làm foie gras, như
người Tầu cho ngựa ăn búp trà trên sườn đồi rồi chém cổ ngựa để làm trảm mã
trà (cái thú đi kèm với cái độc ác: đó cũng là một nét văn hóa rất Tầu),
như người Nhật dành cả đời người học cách pha một ly trà, như người Việt tỷ mẩn
ngồi chọc đít con cà cuống để làm nước chấm bánh cuốn, một hôn nhân kết hợp lạ
kỳ không máy điện toán nào nghĩ ra. Bánh cuốn: phải cầu kỳ lắm,trang trọng lắm
mới ngồi nặn đầu óc nghĩ ra chuyện nghiền gạo thành bột, rồi tráng lên nồi hơi
nước, làm một thứ bánh tráng vừa đủ dầy để bọc nhân, đủ mỏng để giữ cái trang
nhã, quý phái, đủ trong để thấy cái nhân thịt nhưng không quá trong để giữ cái
vẻ mập mờ, nửa kín nửa hở, khiêu gợi. Giống như chiếc quần dài trắng của người
đàn bà Việt, vừa che vừa mở. Một anh bạn người Pháp nói anh ta đứng ngẩn ngơ cả
buổi ở Sai gòn nhìn những người đàn bà mặc quần trắng mỏng đi lại. Anh ta quê ở
Saint Tropez, nơi đàn bà trần truồng tồng ngồng tắm biển mà không ai nhìn. Một
đĩa bánh cuốn, nhìn không cũng đủ ngon, không nỡ ăn. Cái bánh tráng tế nhị ôm
lấy miếng nhân, cái nhân người ta chế biến thế nào, với hành, với tiêu, môc
nhĩ, để thịt không còn cái trần tục của thịt. Và chấm với nước mắm cà cuống.
Ông trời sinh ra con cà cuống, chắc chắn đã nghĩ đến bánh cuốn, nếu không sinh
ra con cà cuống để làm gì? Người ta bảo trong vũ trụ, mỗi vật đều có một phận
sự nào đó. Vai trò của cái anh cà cuống chắc chắn là để làm thơm cho bánh cuốn.
Ở những nơi không có bánh cuốn, ai biết mặt mũi cái anh cà cuống. Anh ta sống
vô danh, vô dụng.
Trong khi Viễn ngâm thơ, tôi nghĩ
tới Quỳnh Giao, tự hỏi chuyện gì xẩy đến với Quỳnh Giao. Tại sao Viễn mù lúng
túng lảng tránh khi tôi đề cập tới Quỳnh Giao? Ở California, tôi hỏi một người
quen hồi này làm ăn gì. Một chị bạn kéo tôi ra một góc, căn dặn:
– Ơ bên này, đừng hỏi nghề nghiệp
của nhau. Có những nghề nghiệp kỳ quái, không liên hệ gì đến ngôi vị, chức tước
của người ta ở bên nhà. Ông bộ trưởng đi rửa xe, ông giáo sư đi gác đêm. Cũng
đừng hỏi thăm vợ con người ta. Nhiều chuyện đổi đời, phiền lắm, anh ạ.
Chị bạn nói, chúng ta như những ngọn
cỏ bị bứng rễ, theo gió cuốn đi, trôi dạt chân trời góc biển. Giá trị cũ tàn
rụi, giá tri mới chưa thành. Không có gì bám víu, con người mất quân bình, đưa
đến những ly tán đổ vỡ. Trong xã hội Việt nam, người ta sống cho mình thì ít,
cho gia đình, cha mẹ anh em thì nhiều. Cá nhân con người bé nhỏ, xoá nhoà.Trong
xã hội Việt nam, cái tôi không có. Một người Việt nam ít khi là tôi, mà là con
của người này, bố mẹ, anh em của người kia, hay chú, bác, cô, dì,cậu, mợ, con
rể, anh em cột chèo. Một xã hội tôn ti trật tự chặt chẽ, anh nào ngồi chỗ anh
đó, không anh cu nào lộn xộn chạy qua chạy lại.
Trong một cặp vợ chồng hoà thuận,
bao giờ cũng có một người hy sinh. Ở Việt nam, cái người hy sinh ấy bao giờ
cũng là người đàn bà. Ra ngoại quốc, người ta chới với trước cái tự do vừa tìm
thấy, người ta khám phá ra cái tôi, người đàn bà đòi quyền sống, tự
nhiên đưa đến tan vỡ. Một ông ở San Francisco tâm sự: vợ mình nó như đàn bà Mỹ
ở thế kỷ 21 trong khi mình vẫn là cái anh An Nam thời cụ Bá Đa Lộc. Mình vẫn
muốn làm MC điều khiển chương trình, vẫn coi đàn bà là một trong ba cái lăng
nhăng nó quấy ta, quên rằng người đi làm kiếm ra tiền là bả, người lo chạy
chọt giấy tờ là bả, mình chỉ dài lưng tốn vải, ăn no lại nằm, hay ngồi
phét lác với mấy ông bạn trong quán cà phê.
Trong xã hội Việt nam, tình yêu nó
nhạt đi cũng không sao. Vẫn còn gia đình, họ hàng, làng xóm, cụ Khổng, cụ Mạnh
đứng lù lù đó canh chừng. Bây giờ không còn gì giữ lại, tất cả rã rời, theo
nước cuốn đi, như cánh bèo trên dòng nước lũ.
Cái anh Việt nam ly hương, anh ta
bất lực đứng nhìn cả một nếp sống cũ tan rã, một xã hội mới lạ hoắc, không thể
thích nghi, anh ta ngẩn ngơ, anh ta lạc lõng, mười hai con giáp không giống con
giáp nào.
Tôi sẽ không hỏi Viễn hồi này làm ăn
gì để có thể mua một nửa New York, nhưng tôi không thể không thắc mắc chuyện gì
xẩy đến với Quỳnh Giao. Bởi vì cuộc tình giữa Viễn mù và Quỳnh Giao, tôi là
người chứng thường trực, nhiều khi bất đắc dĩ.
Một buổi, Viễn mù rủ tôi đi nhậu, và
nói cậu phải giúp tôi việc này. Cậu trả tiền rồi theo tôi. Tháng trước,
một người bạn dạy ở một trường trung học bị đau, nhờ Viễn dạy thế. Trong đám nữ
sinh, có một con nhỏ làm Viễn mù xây xẩm mặt mày. Đó là một chuyện bất bình
thường, vì bình thường, Viễn không để ý, coi phái đẹp như pha. Mỗi tuần, y yêu
hai ba người đàn bà, đi nhậu một chuyến quên béng mất. Nhưng lần này tình hình
có vẻ nghiêm trọng. Tối ngủ không được, ngày ngủ không được (y là vua ngủ
ngày), Viễn sáng tác một số lượng thơ đáng kể trong một thời gian kỷ lục, bài
nào cũng nói đến Quỳnh Giao, bài nào cũng nồng nàn, sôi nổi. « Ngày nào tao
cũng chờ nó ở cửa trường, nhưng không sao lại gần được. Lúc nào nó cũng đi một
bầy với mấy con bạn. Mình dù sao cũng là thầy, nhất nhật vi sư, khó làm
ăn quá. Tao theo nó tận nhà, nhưng nó có hai thằng anh to lớn như Tarzan, bố
bảo mình cũng kgông dám bén mảng lại gần. »
Viễn mù nhờ tôi đến chờ ở cổng
trường, lôi con nhỏ ra góc đường để Viễn tán. Y nói: mày là tay mồm miệng đỡ
tay chân, chuyện ấy dễ như trở bàn tay.
Chúng tôi đứng ở bên kia đường, chờ
giờ tan trường. Viễn nóng nẩy, đi đi lại lại như người chờ vợ đẻ lần đầu.
Khi đám học sinh ùn ùn kéo nhau ra
khỏi trường sau tiếng chuông rền rĩ, Viễn chỉ một đám nữ sinh líu lo bên kia
đường:
– Đó, cái con bé bên cạnh gốc me đó.
– Cái con bé mắt lé, măt rỗ hoa?
– Cái con nhỏ mặc áo dài trắng, dắt
chiếc xe đạp xanh.
– Hàng trăm con nhỏ áo dài trắng, xe
đạp xanh.
– Nó không giống con nhỏ nào khác.
Mày nhận ra nó giữa năm triệu người đàn bà bình thường. Nó đi đêm không cần đèn
đuốc vì hào quang sáng rực. Đó, cái con nhỏ đưa tay vuốt tóc đó. Lẹ nên, nó
trèo lên xe là hư hết công chuyện nhà nước.
Tôi sang đường, tiến lại phía con
nhỏ người ta nhận ra giữa năm triệu người đàn bà khác, đang tíu tit truyện trò
với mấy con nhỏ bạn. Tôi nói:
– Tôi là Sơn, con bác Chân đây. Bác
Chân dưới Mỹ Tho.
Mấy cô bạn trèo lên xe, trong một
thoáng, cái biển xe đạp kêu kính kong và những tiếng cười rúc rích xa dần, để
lại Quỳng Giao và tôi trên con đường vắng, giữa những tiếng ve kêu nhặng xị
trên những cành me hai bên đường. Con nhỏ nheo mắt, quả thực nó có cái nheo mắt
dễ nhận ra giữa 5 triệu người đàn bà bình thường, hay 3 triệu người, vì ông
Viễn nói cái gì cũng nên trừ hao đi một phần.“Bác Chân? Giao đâu biết bác Chân
nào?”
Tôi thú thực không có bác Chân, bác
tay gì, chỉ có ông thầy triết tháng trước muốn nói chuyện; nếu ông ấy không gặp
được Quỳnh Giao, ông ấy dám mổ bụng hara kiri tại chỗ, ngày mai báo Sai
gòn Mới đăng hình Quỳnh Giao trên trang nhất, tai tiếng cả nước. Quỳnh Giao
nói chuyện chi dị hợm, nhưng cũng tò mò dắt xe theo tôi qua đường. Sau này,
Quỳnh Giao cho hay đã thương ông giáo cận ngay từ ngày đầu, khi nghe ông
Bỉ sắc Tư phong say sưa giảng Kiều, mặc dù Nguyễn Du, truyện Kiều không dính
líu xa gần gì đến chương trình Triết học.
Buổi chiều, tôi hỏi kết quả cuộc gặp
gỡ, Viễn mù nói rất tốt đẹp, mặc dù có trục trặc đôi chút. Y mời con nhỏ uống
nước dừa, uống xong mới hay là cả hai không đứa nào có một xu dính túi. Con nhỏ
phải để lại cây bút máy.
Viễn đưa tôi đến một tiệm ăn Việt
nam ở Canal Street, khu thương mại sầm uất của người Á Châu. Hàng hoá đủ loại
chất như núi, thiên hạ đi lại quần quật. Tôi không khỏi mỉm cười nghe thấy,
giữa lòng New York, trong cái đám bộ hành đủ mọi quốc tịch ngược xuôi đi lại,
tiếng một bà đồng hương lanh lảnh: Đù mẻ, làm ăn như vậy thì bỏ mẹ rồi. Buôn
bán không lo, chỉ lo rút bài với mấy thằng cô hồn. Cùng giờ này, trên khắp
xó xỉnh trên thế giới, nhiều người đang đù mẻ om xòm.
Chịu đựng bao nhiêu năm chiến tranh
tang tóc, đến khi bình yên, người Việt, vốn gắn liền với quê hương như cỏ với
đất, bị hất ra khỏi quê hương, trôi dạt, vương vãi, tơi bời, tản mát cùng khắp
như một đàn gà lạc mẹ. Đi tới hang cùng ngõ hẻm nào, bạn cũng đụng đầu với một
ông đồng hương mà ngọn sóng đã đánh dạt vào như một khúc củi trôi vật vờ trên
mặt biển. Một lần, trong một làng khỉ ho cò gáy trên bờ sông Nil, Ai Cập, một
ông hầu bàn tại một tiệm ăn mà tôi tưởng là người Tàu, ghé tai tôi: Chú đừng
kêu thit cừu. Thịt nó để cả tuần, thiu hết, ăn bịnh chết. Ngày nay, ban đi
tới đâu cũng có một ông đồng hương khuyên bạn đừng kêu thịt cừu hay cá thối.
Khiá cạnh tích cực của cuộc sống lưu vong.
Viễn kêu hai tô phở mà y khoe là
ngon nhất New York.
Tôi đóng vai thầy bàn:
– Phở ăn được, nhưng phở ở ngoại
quốc, muốn làm thế nào thì làm, muốn ngon đến đâu, nó vẫn thiếu cái gì đó, cái
mùi phở. Hồi mình còn nhỏ, ở Hải phòng, buổi sáng, mỗi khi ông hàng phở cất
tiếng rao đầu đường, ở trong nhà đã nghe thấy mùi phở. Sau này, không
bao giờ mình được nghe lại cái mùi phở ấy.
Viễn khen cậu coi vậy mà có tâm hồn
thi sĩ:
– Cậu có để ý thấy mấy ông thi sĩ
rất thính tai. Ông ấy nghe thấy những cái người khác cảm thấy. Huy Cận: nghe
trời nằng nặng, nghe ta buồn buồn. Lưu trọng Lư: anh có nghe mùa thu?
Xuân Diệu: Đã nghe rét mướt luồn trong gió; đã vắng người đi những chuyến
đò. Và Thâm Tâm: ly khách ven trời nghe muốn khóc. Không khóc, chỉ
muốn khóc. Cũng không muốn khóc, chỉ nghe muốn khóc. Nếu khóc được người
nó sẽ nhẹ nhõm đi biết bao nhiêu. Nhưng cái buồn nó nghẹn ở cổ. Ly khách ven
trời nghe muốn khóc…
Tôi đưa Viễn mù về với thực tế:
– Câu có nhớ cái mùi phở của Quỳnh
Giao?
Và nhìn Viễn dò hỏi, nhung y không
trả lời. Bình thường, mỗi lần hội thảo về Quỳnh Giao, y tham dự một cách nồng
nhiệt, muốn chen nửa câu cũng không được.
Lần cuối cùng tôi ăn phở Quỳnh Giao
là cái lần họ gây nhau dữ dội. Sự thực chuyện hai đứa gây nhau là chuyện cơm
bữa. Họ không thể sống mà không gây nhau. Một ông bác sĩ phân tâm học nói: nến
bạn biết có cặp vợ chồng nào không gây gổ, bạn bảo họ đến tôi khám nghiệm xem,
chắc chắn có cái gì bất bình thường. Những cuộc gây gổ trong đời sống lứa đôi
là một thứ ớt làm tăng gia vị cho bát phở. Đôi khi tô phở nhiều ớt quá, trở
thành một tô bún bò Huế, làm chẩy nước mắt. Nhưng nhiều người thích bún bò Huế,
ăn món khác, chỉ thấy cái nhạt nhẽo. Với Viễn và Quỳnh Giao, đó là một tô ớt
hiểm, có chêm một chút bún bò để đưa cay.
Bao nhiêu lần, Quỳnh Giao đến gặp
tôi, khóc mùi mẫn, kể lể, thề sống thề chết sẽ không về với Viễn nữa – em
thà chết còn hơn sống với ông ấy –, rồi 15 phút sau, tôi thấy hai đứa ríu
rít bên cạnh nhau, bên cạnh một hàng cơm tấm, hay một tiệm bánh tôm. Viễn kể
chuyện tếu và con nhỏ ôm bụng cười. Lần cuối cùng tôi ăn phở Quỳnh Giao là lần
họ gây nhau kịch liệt. Buổi tối, Viễn đến tỵ nạn, trên người chỉ mặc một chiếc
quần xà lỏn. Y nói may mà toàn mạng tới đây. Quỳnh Giao đang đốt quần áo của y,
đập phá chén đĩa đồ đạc, liệng ra đường. Nguyên do là Viễn mù gặp một thằng bạn
cũ, bỏ đi ba ngày liền và một cô bạn Quỳnh Giao cho hay đã thấy tận mắt
Viễn mù đi rước đèn với đào ngoài phố.
Viễn nói trong khi mặc quần xà lỏn
chạy khắp thành phố, y đã suy nghĩ rất chín. Lần này là thực sự chấm dứt, không
thể kéo dài thêm một giờ; một phút. Giọt nước làm tràn cái ly. Y có một người
bạn làm hiệu trưởng một trường trung học ở Đà nẵng, có thể dành cho y một vài
giờ. Y ngủ nhờ một đêm, ngày mai sẽ lên đường. Bỏ của chạy lấy người, ba mươi
sáu chước, vắt giò lên cổ là chước hay nhất. Để trả ơn tôi là người hôm sau sẽ
bỏ tiền mua vé xe đò, y có nhã ý ban một lời khuyên: đừng bao giờ liên hệ,
dính líu đến đàn bà ; mỗi người đàn bà có một cách hành hạ mình, phương pháp và
hình thức khác nhau, nhưng đều dẫn tới một kết quả: biến cuộc đời mình thành
địa ngục.
Viễn nhờ tôi lên nhà xem tình hình,
có thể Quỳnh Giao đang đốt cả khu phố. Cần nhất là cứu mấy tập thơ, đồ đạc,
quần áo tao bất cần.
Tôi măc quần áo hối hả đi chữa cháy.
Tới nơi, từ đầu đường đã ngửi thấy, đã nghe thấy mùi phở ngào ngạt. Người mở
cửa là một Quỳnh Giao vừa tắm xong, diện áo dài mới toanh, trang điểm xinh đẹp
như một nữ sinh ngày phát phần thưởng cuối năm, tươi như một đoá tuy líp. Nhà
cửa dọn dẹp sạch sẽ, ngăn nắp, không còn dấu vết gì của chiến cuộc buổi chiều.
Trên bàn, một dĩa bánh phở trắng ngà, thịt tái nồng, thit nạm vàng, thịt chín
nâu, rau và hành tươi xanh ngát, ớt đỏ rực rỡ. Tất cả những mầu sắc táo bạo ấy
hoà hơp với nhau như một bức tranh tĩnh vật rực rỡ của Matisse.
– Anh coi, gây nhau …có một tí mà
ông ấy bỏ biệt nhà cửa. Anh đi kiếm ông ấy, lôi về cho em.
Tôi nói có kiếm đằng trời, Sai gòn
có hàng triệu người, dễ gì kiếm, mặc dù một ông gầy còm, cận thị nặng, diện
quần xà lỏn, chạy như bị ma đuổi ngoài đường chắc chắn là không giống ai.
– Thế còn nồi phở của em?
– Măc cô. Lần sau, có ghen tuông
cũng vừa vừa phai phải thôi.
– Em không ghen, em chỉ tức thôi.
Không đáng cho em ghen.
Cái biên giới giữa cái ghen và cái
tức, nếu bạn không phải là đàn bà, bạn sẽ không bao giờ tìm ra. Nể lời Quỳnh
Giao, tôi ngồi lại, giúp cô ấy thanh toán nồi phở thơm ngào ngạt. Tính tôi thế,
hay giúp người này một chút, người kia một chút. Quỳnh Giao chất vấn giữa hai
tô phở:
– Anh nghĩ ông ấy có làm bậy không?
– Cái đó thì chắc rồi. Nó dám giết
vài chục mạng cho hả giận. Thằng ấy, khi nó lên cơn…
Về đến nhà, căn phòng sặc sụa khói
thuốc, phải năm phút sau quen mắt mới thấy ông thi sĩ mù sau màn khói dầy đặc.
Y hỏi: sao? – Lôi thôi lắm. Cả khu phố náo loạn. Xe chữa lửa, xe cứu thương rầm
rộ.Y thị đốt cả phố rồi tự sát. Hara kiri. Ruột gan treo tòng teng trên dây
điệnngoài đường, trông khiếp bỏ mẹ.
Suốt đêm, Viễn ngồi phun khói, nói
về những dự án to lớn trong cuộc đời mới kể từ sáng hôm sau, khi y lên xe rời
Saigon, vĩnh viễn. Đó là một ông Viễn mù quyết tâm, không gì có thể lay chuyển
nổi. Sáng hôm sau, hai đứa còn đang ngủ vùi, có người gõ cửa. Quỳnh Giao. Cô ta
nói, thản nhiên, ngon lành.
– Giờ này còn ngủ. Không dậy đưa em
đi mua đồ. Nhà không còn một cái chén ăn cơm. Tối nay lại mời hai vợ chồng anh
chị Nhã.
Viễn cười hề hề, mượn một bộ quần
áo, riu ríu theo vợ đi chợ.
Chuyện Viễn rước đào đi diễu phố
chắc chắn là vô căn cứ. Viễn không phải là người nhẩy từ đàn bà này sang đàn bà
khác. Khi vợ xuống tỉnh lo cho bà nội đau nặng, ngoài giờ đi dạy, y nằm bẹp
trong nhà, đọc sách. Ngày vợ về, y tắm rửa sạch sẽ, vỗ vỗ cu, lẩm bẩm: sắp
bận rồi, sắp bận rồi!
Sắp Bận Rồi là một biệt danh khác của Viễn.
Buổi tối, khi chúng tôi đi dọc bờ
sông nước đen, với những ngọn đèn nhập nhoè, tôi hỏi:
– Ngoài những lúc đi cày cho Mỹ và
thủ dâm, ông làm gì cho hết ngày?
– Thiền
Y đốt một điếu thuốc, nuốt khói: Thiền,
cậu ngạc nhiên hả?
Không, tôi không ngạc nhiên. Tôi
quen nhiều người nhờ thiền mà không phát khùng, mà sống thoải mái trong những
năm tù cải tạo cùng cực. Như hầu hết những người Việt nam, tôi theo phật giáo
vì cha mẹ theo phật giáo, không thắc mắc gì. Những năm dài ở ngoại quốc, tôi
tìm đọc ngấu nghiến sách báo nói về Phật giáo như người chết đuối chới với tìm
một cái phao. Tôi nhìn Viễn, khám phá ra là dù xa nhau vạn dặm, chúng tôi vẫn
đi chung một con đường. Cái gì đã khiến chúng tôi xích lại gần một ông hoàng Ấn
độ, cách đây 2500 năm, rũ áo từ bỏ mọi chuyện vào rừng tĩnh tâm dưới cõi bồ đề.
Cái gì đó, phải chăng là nỗi cô đơn, lạc lõng nơi xứ lạ, một nền văn minh vật
chất, phương tiện dư thừa nhưng bế tắc, ứ đọng bốn bề. Cái gì đó phải chăng là
những tang tóc, chia ly, cái hư ảo của đời sống và cái bất toàn của con người?
Chúng tôi đã bỏ xa cái tuổi tam
thập nhi lập mà chưa “lập” được gì. Viễn vẫn chạy theo một bài thơ để đời.
Tôi suốt đời âm mưu, một cách âm thầm nhưng lỳ lợm, cái chuyện chữ nghĩa, nhưng
mỗi lần viết xong một trang giấy, đọc lại, thấy ngượng với mình và tủi cho giấy
bút. Bao nhiêu đêm thức trắng, bôi bác hàng ngàn trang giấy, cuối cùng chỉ chật
cái sọt rác, không dám in một cuốn sách mỏng. Nhìn vào gương, thấy mặt mũi mình
khả ố. Suốt đời, tôi trân trọng với chữ nghiã, tại sao chữ nghiã bạc với tôi?
Tam thập nhi lập, tu parles
Viễn sắp vượt qua, và tôi chập chững
đi vào cái tuổi tri thiên mệnh, nghĩa là hiểu mệnh trời, nghĩa là hiểu đời,
nghĩa là hiểu rằng mình sẽ không bao giờ hiểu gì về đời sống.
– Mấy năm sau này, rảnh rỗi, mình
đọc lại hết – Platon, Socrate, Goethe, Kant, Nietzsche, Heidegger, Sartre,
Khổng, Mạnh, Lão, Trang. Chỉ thoả mãn một phần. Mỗi ông chỉ cho mình một câu
trả lời trong muôn ngàn thắc mắc. Chỉ có Phật giáo là một câu trả lời thoả đáng
và toàn diện. Mình như được giải thoát.
Tôi nghĩ như vậy trong hai chúng
tôi, tỷ lệ được giải thoát là 50 phần trăm. Thái tử Tất Đạt Đa, khi lên đường
hành đạo, chắc cũng không mong gì hơn một tỷ lệ khả quan như thế.
Viễn búng tàn thuốc và nói, bình
thản:
– Cũng may mà có ông Phật. Nếu
không…Nếu không, đã có nhiều lúc mình nghĩ đến chuyện tự tử. Cậu ngạc nhiên hả?
Không, tôi không ngạc nhiên, vì cái
ý nghĩ ấy đã lởn vởn trong đầu tôi, rất nhiều lần. Tôi thấy ái ngai cho cái cô
đơn của Viễn, măc dù với tôi, sự cô đơn, từ lâu, đã trở thành một chỗ quen
thuộc. Như một nhân vật của John Updike, tôi sống, ăn ngủ, làm tình với cái cô
đơn đã lâu, nó trở thành một người bạn chí tình. Ly dị với một người đàn bà,
rất dễ ; ly dị với cái cô đơn đã ăn nằm với mình nhiều năm, rất khó. Cô
đơn khi sống môt mình, cô đơn gấp hai khi sống với một người khác, và cô đơn
cùng cực giữa một đám đông.
– Câu có hay gặp vợ chồng Hạnh?, tôi
hỏi.
– Không, Viễn lắc đầu. Mệt lắm. Tụi
nó toàn nói chuyện tiền bạc. Dollars là một phương tiện sống, với họ đã trở
thành một tôn giáo.
– Như vậy, họ đã đổi đạo. Trước kia,
họ là Phật tử.
Viễn mỉm cười. Đó là lần đầu tiên
tôi bắt quả tang ông Viễn mỉm cười từ hôm gặp lại.
– Có lần, tôi làm được mấy bài thơ
ưng ý, đến đọc cho họ nghe, hai vơ chồng vừa nghe vừa nhìn trộm đồng hồ. Từ đó,
tôi né.
Ông Viễn khó quá, người ta mua cái
đồng hồ Rolex mười ngàn dollars, ông cho phép người ta thỉnh thoảng coi giờ một
chút.
Hôm trước, tôi ngồi ăn với vợ chồng
Hạnh trong cái phòng ăn rộng mênh mông ở nhà Hạnh. Họ huyên thuyên, mê mải nói
chuyện làm ăn, mua nhà, mua xe, mua đất, cổ phần, chứng khoán. Trong hai giờ,
chữ dollars được nhắc đi nhắc lại 76 lần. Như tín đồ thuần thành đọc kinh. Nam
mô A di đà Phật …Nam mô A di …Tôi ngồi im, nhìn Hạnh hào hứng nói chuyện kinh
tài, nghĩ đến câu một người bạn nói về vợ chồng Hạnh với một thoáng ghen tị: nó
ở cái nhà giống như nhà Elizabeth Taylor.
Hạnh hỏi anh nghĩ gì mà đần ra
vậy.Tôi nói tôi đang nghĩ tới Liz Taylor. Hạnh bảo cái ông này, vẫn chưa chừa
cái tật ăn nói dấm dẳn.
Tôi ngồi đần ra không biết
nói gì, mặc dù lúc ngồi taxi đến đây, tôi hồi hộp nghĩ đến giây phút tái ngộ.
Biết bao nhiêu kỷ niệm để gợi ra, kể lại. Ngồi trong cái phòng khách (giống y
chang phòng khách Liz Taylor, dù không biết cái phòng khách Liz Taylor mặt mũi
nó thế nào), đặt mông trên chiếc divan 5 ngàn dollars, đạp chân trên chiếc thảm
Iran ba ngàn dollars, bên cạnh một pho tượng 6 ngàn quan mua ở Paris, tôi đưa
cho Hạnh coi một tấm hình cũ, đen trắng, vàng ố. Hình chụp một buổi tối văn
nghệ bỏ túi ơ một buôn thượng trên cao nguyên Trung phần cách đây trên 20 năm,
lúc chúng tôi còn là sinh viên, hoạt động xã hội, giúp đồng bào thiểu số học
chữ quốc ngữ, chữa bệnh, trồng cây đào giếng. Trong cái buôn thượng đìu hiu
trên đỉnh cao, ngọn lửa bập bùng, những chiếc bắp ngô nướng vàng ngọt, tiếng ca
của Hạnh nóng ấm, đùi Hạnh nóng ấm kề bên đùi tôi, mắt Hạnh to đen, phản chiếu
ánh lửa bập bùng.
Hạnh nhìn tấm hình, yên lặng, mắt
ươn ướt và nói:
– Những ngày đó vui quá, anh há? Nếu
chỉ được sống lại một ngày..
Trong một thoáng, Hạnh quên dollars,
quên tụng niệm. Tôi gặp lại đôi mắt đen ươn ướt, phản chiếu ánh lửa bập bùng
của người bạn gái rất xinh và đầy nhiệt tình một đêm nào trên đỉnh cao nguyên
heo hút. Tôi lại không khỏi nghĩ đến câu chuyện của giòng sông.
Tối hôm sau, Viễn đưa tôi xuống
Greenwich Village, la cà trong mấy cái bar nghe nhạc jazz. Tiếng nhạc blues
buồn, giọng hát nghẹn ngào bồn cái buồn da đen ray rứt. Mượn cái ngà ngà say
của whisky, tôi gợi chuyện:
– Nêu Quỳnh Giao ở đây, được nghe
nhạc này, chắc cô ấy thích lắm.
Và nhìn Viễn dò xét, chờ đợi. Y nói:
– Để tôi đọc cho cậu nghe một bài
lục bát tôi mới sáng tác. Thơ lục bát đến như thế này là cùng. Viễn mù ngâm thơ
và tôi tự hỏi chuyện gì đã xẩy đến cho Quỳnh Giao. Mỗi người trong chúng ta vừa
sống một cơn mộng dữ. Biết bao nhiêu gia đình ly tán, biết bao nhiêu chuyện đổi
dời. Tôi nghĩ đến một người bạn, sau mười năm cải tạo, thất thểu trở về, thấy
vợ con đã đã trở thành vợ con người khác.
Ra khỏi quán nhạc jazz, không khí về
đêm đã bớt oi nồng. Đường vắng. Thỉnh thoảng một chiếc taxi vàng, một chiếc xe
cảnh sát hụ còi vun vút chạy qua, xé rách cái yên tĩnh của đêm hè. Viễn mù vung
tay, gào lên:
Chúng tôi đi,
Nhà chọc trời vây phủ
Nỗi tủi hờn không tìm được lối ra
Mấy người Mỹ đen ngủ ngoài đường lồm
cồm bò dậy. Một anh khổng lồ tiến lại, hỏi bằng giọng ồm ồm: chuyện gì vậy?
Viễn sorry sorry rối rít. Ông khổng lồ ngửa tay xin tiền. Viễn nhìn đối
thủ: hai chúng tôi cộng lại không bằng một phần ba ông Mỹ đen. Viễn mù móc túi,
dúi vào tay ông Schwarzenegger đen một dollar, làu bàu: mẹ kiếp, xứ sở gì mọi
rợ, đọc thơ cũng phải nộp tiền mãi lộ. Tôi cười: nộp tiền mãi lộ còn hơn đi nằm
cải tạo mười hai năm.
Cuốc bộ suốt đêm, Broadway, 14th
Street, Morton Street, Washington Square, Grover Street đến bẩy giờ sáng, chân
đau buốt, tôi tụt giầy ra, xách tay. Viễn tiếp tục lải nhải ngâm thơ. Tôi thỉnh
cầu:
– Buồn ngủ bỏ mẹ. Ông tạm ngưng cái
chương trình tao đàn ở đây đi.
Viễn tiếc rẻ:
– Ngày mai cậu về à?
Tôi gật đầu, hy vọng Viễn hiểu đã
đến lúc cho tôi hay tin tức về Quỳnh Giao. Y nói:
– Hay là cậu ở lại ít bữa.
Dịch ra Việt ngữ: hay là cậu ở lại
ít bữa cho tôi đọc nốt hai ký rưỡi thơ còn lại. Máy bay mà ông Viễn mù làm như
xe đò Saigon Lục tỉnh, muốn trèo lên lúc nào cũng được.
Bẩy giờ sáng, đêm ngắc ngoải và ngày
rục rịch trở dậy. Anh cu Viễn ngồi phờ ra trên ghế công viên. Cả người y là một
đống mệt mỏi. Nhìn cái đống mệt mỏi 49 ký rưỡi ấy, không cần phải là thi hào,
bất cứ anh thi sĩ làng nhàng nào cũng có thể có cái cảm hứng của Pablo Neruda:
Il arrive que je me lasse de mes
pieds et de mes ongles
Et de mes cheveux et de de mon ombre
Il arrive que je me lasse d’être homme
(Đôi lúc tôi thấy chán cả đôi chân
tôi, chán cả móng tay tôi
Và tóc tôi và bóng tôi
Đôi lúc tôi thấy chán cả làm người)
Về đến khách sạn gần chín giờ sáng,
vừa đủ thì giờ cạo râu, uống vội một ly cà phê đắng, theo bọn đồng nghiệp vào
phòng họp. Chọn một chỗ kín đáo trong cái phòng họp mênh mông, nói với Martine,
con nhỏ đồng nghiệp bên cạnh: tao ngủ một giấc, chừng nào đến giờ pause
café, nhớ gọi tao dậy.
Trên diễn đàn, một ông Tây đang
trình bầy tình trạng phát triển của công ty trên khắp thế giới. Khi tôi chập
chờn ngủ ông ta đang nói đến các nước ở Nam Mỹ. Không biết tôi ngủ được bao
lâu, khi bị đánh thức bởi những tràng vỗ tay, Martine nói: ngủ tiếp đi, mới tới
Trung Đông, còn cả Á và Úc châu. Và ngủ an tâm, ở đâu đảng ta cũng thắng lợi.
Trong giấc ngủ chập chờn, tôi cứ
loay hoay nghĩ cái gì đã làm Viễn mù và Quỳnh Giao xa nhau. Chắc chắn không
phải cuộc tình đã đén hồi lạnh lẽo. Không nhớ ông Tây nào (Honoré de Balzac?)
nói trong một cặp, bao giờ cũng có một người đau khổ và một người buồn nản ; Dans
un couple, il y en a toujours un qui souffre et l’autre qui s’ennuie. Một
người buồn nản thấy cuộc tình đã kéo dài quá lâu, người kia đau khổ thấy cuộc
tÌnh đã bay hơi. Viễn và Quỳnh Giao không ai có thì giờ để buồn nản: họ gây gổ,
lục đục, hoà giải, hú hí với nhau rồi gây gổ, lục đục, hoà giải và hú hí với
nhau suốt ngày. Đó là một cuộc tình sôi nổi, liên hồi, thường trực, không có pause
café, không có entracte, một cuộc tình non stop, túi bụi, mệt
nhoài, một cuộc tình full time, cuống quýt, ồn ào, náo nhiệt, nhức đầu,
mệt xác.
Một buổi sáng chủ nhật, Viễn tới
nhà, lay tôi dậy, nhờ tới nhà y khuân dùm hành lý. Y nói đêm hôm trước, Quỳnh
Giao gây vì một chuyện vô lý, làm như cái liên hệ giữa đàn ông và đàn bà là một
chuyện hữu lý. Chịu không nổi, y bớp tai vợ và người đàn bà bù lu, bù loa suốt
đêm. Viễn nói sau khi suy nghĩ rất chín, y đi tới quyết định là nhất quyết chia
tay. Nếu không, sợ có ngày sẽ có án mạng. Y nói đã quyết định đăng lính, một
cách giải quyết vĩnh viễn.
Đến trước nhà, y bảo cậu lên lấy dùm
tôi vài cuốn sách, tập bản thảo và một bộ quần áo. Tôi từ chối. Tôi đã tham dự
vào việc họ lấy nhau, không muốn tham dư vào việc họ bỏ nhau. Viễn nói nếu vậy
cậu chờ tôi năm phút. Năm phút, đủ cho y thu dọn vội vàng những thứ cần thiết.
Tôi đứng chờ ngoài hiên, nhìn bong
bóng mưa rơi vỡ trên măt đường, dạ không khỏi bùi ngùi nghĩ đế cái cảnh chia
tay trong truyện cổ. Chỉ thiếu con sông vắng, thiếu quán rượu đề thơ và thiếu
bầu rượu nóng. Nhưng có người tráng sĩ lên đường, có người cô phụ ở lại và có
cơn mưa rả rích cũa một ngày tháng bẩy.
Mười lăm phút, ba mươi phút, một giờ
sau vẫn không thấy Viễn mù xách hành lý ra. Tôi đứng dưới mái hiên, đọc hết tờ
báo, từ tin chiến sự Đồng Xoài, danh sách tân nội các (đi dô đi ra thằng cha
khi nẫy), tới mục gỡ rối tơ lòng cho một độc giả thối chân, hôi nách bị vợ bỏ,
mục gia chánh dạy nấu sườn xào chua ngọt, tin người đẻ ra khỉ ở Cà mau, đít đỏ,
lông lá xồm xoàm.
Sốt ruột, tôi đi mò vào xem xét tình
hình. Nghe thấy tiếng đàn bà: giết em đi, giết em đi! Vốn máu trương
phu, mặc dù trói gà không chặt, tôi suýt tông cửa xông vào cứu người đàn bà cô
thế. Thằng này, quả thực là một tên vũ phu. Áp tai vào cánh cửa gỗ ọp ẹp, nghe
tiếng Quỳnh Giao rên rỉ: mạnh vô, mạnh vô. Ý! đừng cắn vú em đau.
Và tiếng ông thi sĩ mù thở hổn hển
như vừa chạy marathon 42 cây số. Tiếng đàn bà: khoan, để em kê cái
gối dưới mông.
Tôi bỏ ra đường, tự nghĩ một người
đàn bà kêu khoan, để em kê cái gối dưới mông không nhất thiết là một
người đàn bà lâm nạn. Một người, dù là đàn bà, trong cơn nguy cấp, chắc kêu cứu
một cách khác hơn là đòi kê cái gối dưới mông. Đàn bà vốn rắc rối, nhưng không
rắc rối đến như vậy.
Tôi đội mưa ra quán cà phê ngồi,
nhìn thiên hạ qua lại, nghĩ đến cái anh nông dân Việt Nam tinh quái tác giả một
câu ca dao thần sầu: Kim đâm vào thịt thì đau, thịt đâm vào thịt nhớ nhau
trọn đời. Tôi thường rất bực mình vì những cái tào lao của người đồng
hương, nhiều lúc không muốn lai vãng, nhưng cái anh nông dân tinh quái kia, sao
tôi thương anh ấy, chịu anh ấy lạ kỳ.
Ngày cuối cùng ở New York. Tôi hẹn
Viễn ở phi trường JFK ba giờ trước khi máy bay cất cánh. Đủ thời giờ cho Viễn
tâm sự. Trong mấy ngày gặp nhau, Viễn kể cho tôi đủ thứ chuyên, trừ chuyện gì
xảy đến với Quỳnh giao.
Viễn kể những ngày cùng cực của 12
năm cải tạo ở trong Nam, ngoài Bắc, những ngày đói khát, bệnh tật, bị hành hạ
như súc vật, hơn súc vật. Viễn nói sao cái số mình nó khổ thế. Mặc dù
giọng Viễn thản nhiên, không một chút than vãn, tôi an ủi:
– Đó là điều tự nhiên. Đa tài thì
bạc mệnh, được cái nọ thì mất cái kia. Lạ gì bỉ sắc tư phong.
Hai đứa ôm bụng cười. Đã lâu lắm
Viễn không cười, những nếp nhăn căng ra, như mếu.
Nhắc đến truyện Kiều, tôi hỏi:
– À, cái ông gentilhomme trong
truyện Kiều là ai?
– Chắc chắn không phải là Thúc Sinh.
Tử Hải cũng chỉ là một tay hảo hán dại gái. Kim Trọng chỉ làm bổn phận một
người lương thiện. Cái ông thực sự đáng coi là gentilhomme chính là cái ông
khách ở viễn phương. Ông ấy không hề quen biết Đạm Tiên, chỉ nghe danh tài
sắc của nàng mà tìm đến. Đến nơi, nàng đã thành người thiên cổ. Ông ấy khóc
than rồi bỏ công, bỏ của ra xây mộ cho nàng ca nhi xấu số.
Nói đến Kiều, anh cu Viễn Sắp Bận
Rồi – bây giờ phải gọi là Viễn Hết Bận Rồi – lại thao thao bất tận:
– Nằm buồn, mình nghĩ ra một cách
giải trí. Lấy một vài câu Kiều, tìm cách thay đổi một chữ. Chẳng hạn: Bó
thân về với triều đình. Hàng thần lơ láo, phận mình ra đâu. Áo cơm đùm bọc lấy
nhau. Vào luồn ra cúi công hầu mà chi. Sao bằng riêng một biên thuỳ. Sức này đã
dễ làm gì được nhau? Cậu thử coi. Mình nghĩ trong 20 năm trời, không sao
đổi được một chữ, một dấu chấm, dấu phẩy.
Nếu Viễn bỏ ra 20 năm mà không ăn
thua đủ nổi với ông Nguyễn Du, tôi không có hy vọng gì trong 20 phút. Vả lại,
cái bận tâm trước mắt của tôi không phải là ăn thua với Nguyễn Du. Cái bận tâm
của tôi là tìm hiểu chuyện gì xẩy đến với Quỳnh Giao. Trong suốt mấy ngày găp
nhau, tôi không nỡ đẩy Viễn mù vào chân tường. Tôi nghĩ tự Viễn sẽ tâm sự với
tôi về Quỳnh Giao.
Tôi nghĩ đến Hiển. Tôi gặp lại Hiển,
tình cờ, ở một tỉnh miền Nam nước Pháp. Hiển già trước tuổi, tóc bạc phơ, mắt
trũng xuống. Nếu không có mái tóc bạc phơ, cái đầu Viễn là một cái đầu lâu.
Trong suốt hai ngày cuối tuần, hai đứa gác đùi nhau trong cái studio nhỏ
hẹp của Hiển, chúng tôi nói với nhau đủ thứ lăng nhăng, nhưng mỗi lần hỏi đến
vợ con thì Hiển lảng tránh.
Hôm đưa tôi ra ga, năm phút trước
khi tàu chạy, Hiển cho tôi hay chuyện gia dình. Đi tù cải tạo năm năm, khi được
thả, Hiển đưa vợ con xuống thuyền vươt biển. Thuyền đắm, hai đứa con chết chìm.
Vợ Hiển bị hải tặc hiếp. Đến Pháp, hai vơ chồng sống bên nhau như hai cái bóng
ma, suốt ngày không mở miệng. Người đàn bà, một buổi tối không chịu nổi cái cô
đơn, không chịu nổi cái yên lặng nặng như chì, không chịu nổi nụ cười của hai
đứa nhỏ lởn vởn trong đầu, đã uống hết mấy lọ thuốc ngủ.
Khi tôi rời Việt nam đưa con út của
Hiển chưa sanh, đứa đầu lòng mới ba tuổi, tròn mụ mẫm như hạt mít. Trong trí
tôi vẫn còn rõ hình ảnh một chiếc đầu lâu lất phất những sợi tóc trắng cắm trên
một chiếc áo manteau rộng thùng thình, trên sân ga heo hút ở một tỉnh lẻ
miền Nam nước Pháp. Sau đó, nhiều lần, tôi có dịp đi qua cái thị xã hẻo lánh
nơi Hiển cư ngụ, không bao giờ tôi dám bước xuống sân ga. Năm phút tầu ngừng ở
con ga lẻ dài hơn năm mươi năm.
Tôi và Viễn tới phi trường, đang lúi
húi cân hành lý thì gặp một cô bạn cũ. Cô nàng reo mừng:
– Trời, không dè gặp anh ở đây. Nghe
nói anh sang Mỹ thăm bạn bè mà không liên lạc gì với em.
Tôi đang lúng túng tìm câu trả lời
thì Viễn mù chen vào:
– Thôi, để hai người nói chuyện cho
vui nghe. Thế nào mình cũng có dịp sang Paris chơi, mình nói chuyện sau.
Không cho tôi có thì giờ phản ứng,
Viễn bắt tay tôi, chào cô bạn và quay gót. Nhìn Viễn cận ra khỏi phi trường như
bị ma đuổi, tôi tự hỏi cái gì đã khiến Viễn quyết định để tôi ở lại với cô bạn.
Cái biết sống của một người lịch lãm hay chỉ là cái cớ để khỏi phải điều trần
về Quỳnh Giao?
Máy bay rời New York vào giờ tan sở.
Hàng triệu người từ những nhà chọc trời đổ xô ra đường, đen ngòm, lúc nhúc như
kiến, đi đi lại lại, đi ra đi vào, đi lên đi xuống, đi ngang đi dọc, hối hả,
vội vã, tất tả, ngược xuôi.
Trong cái đám chúng sinh lúc nhúc
còn đầy nghiệp chướng ấy, có ông Michael Vien Van Pham, mặt mũi phờ phạc, ngẩn
ngơ ôm kè kè bốn ký rưỡi thơ đi tìm một người đồng điệu.
Một ngày cuối tháng tám oi nồng, tôi
lễ mễ khăn gói về Paris đi cày cho Tây, bỏ lại ông bạn vàng nằm thủ dâm ở New
York.
Từ Thức
(Những danh tính trong truyện, nếu
trùng với danh tính ngoài đời, hoàn toàn là vô tình, ngoài ý muốn của người
viết.)