Năm 1981, khi tôi còn bị giam trong trại cải tạo Z30C Hàm
Tân, Thuận- Hải, cứ vào buổi chiều, tôi cùng vài anh bạn tù lại ngồi quây quần
bên nhau trên sạp xi măng, nhâm nhi từng ngụm cà phê chế bằng cơm cháy, ôn lại
chuyện đời cho nhau nghe.
Hầu như bữa nào cũng vậy, dù trời tạnh ráo hay mưa bão dầm dề,
thế nào chúng tôi cũng được nghe tiếng guitar thánh thót của một nhạc sĩ tay
ngang Cựu Thiếu Tá Hồ Văn Hùng, gốc Cảnh-Sát Quốc-Gia và tiếng ca trầm buồn ảo
não của chàng ca sĩ ngang xương Cựu Thiếu Úy Nguyễn Văn Vinh gốc Biệt Cách Nhảy
Dù.
Chúng tôi mất nước đã gần chục năm, xa nhà cũng đã gần chục
năm, nên những lời buồn thảm, bi ai: “Tìm đâu những ngày thơ ấu qua…”- “Những
ngày xưa thân ái, xin trả lại cho ai…” vừa cất lên, thì người đàn, người hát,
người nghe cùng chạnh lòng, nhớ mẹ, nhớ cha, nhớ vợ, nhớ con, nhớ bạn bè, nhớ
xóm giềng, và nhớ quê hương.
Anh nhạc sĩ Hồ Văn Hùng, xưa kia là Cảnh- Sát tỉnh Hậu-Nghĩa;
nay bị giam cùng buồng, cùng đội lao động với tôi. Anh thuộc nhiều bài hát lắm.
Tôi xin anh chép lại cho tôi trọn bộ lời Pháp của bài “Chanson d’Orphée”
Anh ta chỉ cần dạo nhạc cho tôi đôi lần, là tôi đã thuộc nhập
tâm bài hát này ngay. Trong bài ca ấy, tôi thích nhất câu “Le ciel a choisi mon
pays. Pour faire un nouveau paradis” (Thượng Ðế đã chọn quê hương tôi để dựng
lên một Tân Thiên Ðường)
Ngày xưa Thượng Ðế đã ban cho tôi một Thiên Ðường, mà tôi lại
vô tình không nhận ra, đó là đất nước Việt-Nam Cộng-Hòa. Năm 1975 Thiên Ðường của
tôi đã không còn nữa.
Một năm sau ngày được thả, đầu Thu 1989 tôi gặp lại Hồ Văn
Hùng trước một sạp báo cạnh nhà thương Sùng Chính, Chợ- Lớn. Khu này quy tụ khá
nhiều dân gốc “Ngụy”: Một sạp báo do anh cựu nhân viên Phủ Ðặc Ủy Trung Ương
Tình Báo làm chủ, một thợ hớt tóc là cựu Hải quân Thiếu úy, kế đó là một ông
già mài dao, mài kéo, xưa kia làm tới Phó Quận xuất thân từ trường Quốc-Gia
Hành-Chánh.
Anh chủ sạp báo là bạn tù tôi quen trong thời gian bị giam
giữ ở Z 30 D. Vì làm bạn với anh chủ sạp báo, nên dần dà tôi quen “lây” sang
hai ông “Ngụy” kế bên. Lâu lâu tôi ghé chơi, thấy tóc tôi dài, ông Hải quân lại
đè đầu tôi xuống hớt tóc giùm, không lấy đồng bạc nào.
Thấy yên sau xe đạp của Hùng chất đầy sách vở, tôi hỏi anh
làm nghề quái quỷ gì mà nhiều sách thế thì anh vênh mặt lên,
– Tớ đi dạy.
– Dạy nhạc hả?
– Nhạc gì?
– Thì nhạc Việt, tân nhạc… hồi còn trong trại tù cậu và thằng
Vinh Biệt Cách hay hát cho tớ nghe…
Hùng xua tay, lắc đầu quầy quậy,
– Tớ có biết nhạc với nhiếc con mẹ gì đâu? Guitar tớ học
lóm, chẳng có thầy bà nào dạy cả! Nhạc lý, nhạc Pháp cũng làng nhàng. Hiện giờ
tớ đi dạy Anh Văn!
Tôi nghi ngờ vặn lại,
– Anh Văn của cậu cỡ nào mà dám đi dạy?
Hùng cười hì hì,
– Ối trời ơi! Sao cậu ngây thơ thế? Bộ suốt đời lính không
lúc nào cậu bị ở vào cái thế lang bang, không chức vụ hả? Cứ lang bang không chức
vụ là được gởi đi học. Tớ biết khối thằng có đầy bằng cấp chuyên môn chỉ vì lý
do không có chức vụ trong đơn vị nên cứ có lớp là bị tống đi học. Hồi xưa, lúc
còn lang bang không chức vụ, tớ có dịp được đề cử theo học một khóa Anh Văn, rồi
lại bị đưa đi học tu nghiệp ở Mã-Lai. Năm ngoái ra khỏi tù cải tạo, tớ kiếm
hoài không ra việc, tưởng là phải chết đói. Ai ngờ gặp đúng lúc đổi đời, nhà
nhà học Anh Văn, người người học Anh Văn. Tớ vội ôn lại văn phạm vài ngày là đi
dạy kiếm cơm được rồi. Cả khu phố của tớ đều mù, tớ là thằng chột. Xứ mù, thằng
chột làm vua! Tớ đếch cần làm vua, chỉ cần gạo thôi…
Tôi không phục cái ngai vàng trên nước mù và chột của người
bạn thời đi tù cải tạo này, nhưng tôi thích tiếng đàn guitar của anh, thích giọng
ca của Nguyễn Văn Vinh mà tôi đã được nghe trong những chiều buồn nơi lán trại
của Z 30 C, Hàm-Tân năm nào.
Tôi kéo Hùng ngồi xuống bên bàn cờ tướng của ông thợ hớt
tóc. Tôi giới thiệu Hùng với hai ông bạn “Ngụy” của tôi. Ông Hải quân mời Hùng
uống trà; ông Ðốc Sự cũng xúm vào góp chuyện. Hùng là người Huế, ông Ðốc Sự
cũng là dân Huế; chỉ vài phút sau hai ông đã ra chiều tương đắc.
Thấy trên tường có treo cây guitar của ông thợ hớt tóc, bên
cạnh là cây đờn cò của ông mài dao kéo, giáo sư Hùng gật gù,
– Các cha ở đây có cả Tân, Cổ giao duyên vui quá há?
Nghe Hùng nói, tôi chợt nhớ chuyện xưa, nên cầm tay Hùng tôi
khẩn khoản yêu cầu anh hát lại khúc “Những ngày thơ mộng” của Hoàng Thi Thơ cho
tôi nghe.
Chiều ý tôi, ông giáo sư Anh Văn bỏ nón xuống bàn cờ tướng,
ông uống cạn ly trà móc câu, ôm cây guitar kê lên đùi, so dây, lấy giọng, rồi bắt
đầu: “Tìm đâu những ngày thơ ấu qua? Tìm đâu những ngày xanh như mộng?…
Khi Hùng vừa xuống giọng câu chót: “Tìm đâu? Biết tìm đâu?
đâu giờ…” thì anh bắt ngay qua “Matin, fait lever le soleil…” (Buổi sáng, mặt
trời lên…) của bài hát tiếng Tây “Chanson d’Orphée”
Hứng chí, ông thợ mài dao ôm cây đờn cò “í!a! í!a!…” phụ họa,
còn ông thợ hớt tóc thì hai tay thủ hai cái giũa sắt múa “cạch! cạch! cành!
cành!…” trên thành cái chậu nhôm chứa nước như một tay trống điêu luyện, lành
nghề.
Người qua đường dừng lại mua báo, khách của bác thợ mài dao,
khách của bác thợ hớt tóc đứng ngây nghe các bạn tôi đàn hát. Tiếng hát não nuột,
tiếng guitar réo rắt, tiếng trống sắt rộn ràng, và tiếng đờn cò nức nở làm cho
lá vàng rơi tới tấp trên đường Trần Hưng Ðạo một chiều Thu năm 1989.
Mấy bé con tan trường từ một lớp tiểu học gần đó xì xào với
nhau: “Nhạc vàng, nhạc ngoại, hay quá trời, lại nghe coi tụi bây ơi!”
Sau khi chấm dứt câu cuối, “Chante chante mon coeur. La
chanson du matin. Dans la joie de la vie qui revient…”
(Hát lên, hát lên trái tim tôi. Bài hát của buổi mai. Trong
niềm vui vừa trở lại…) thì Hùng chợt hốt hoảng la toáng lên,
– Ủa chi rứa? Bà con làm chi rứa?
Thì ra… bà con qua đường tưởng bốn thằng tôi là gánh hát dạo,
họ bỏ tiền vào cái nón của giáo sư Hùng, cái nón nằm ngửa trên bàn!… cái
nón đầy tiền loại 20 đồng màu tim tím…
Bốn anh cựu quân, cán, chính, Việt-Nam Cộng-Hòa nhìn nhau,
miệng mếu xệch.
Mười bốn năm sau khi Miền Nam sụp đổ, hàng trăm ngàn cựu tù
cải tạo đã lẫn vào và như đã biến mất trong cái xã hội hỗn mang, hạ cám thượng
vàng. Họ chìm vào giòng đời dưới những bộ mã khác nhau: Ông Thiếu Úy Hải quân
thành ông thợ hớt tóc; ông Thiếu Tá Cảnh Sát thành ông thầy dạy Anh Văn lưu động;
ông Phó Quận Hành Chánh thành ông mài dao kéo; nhưng cái giá trị nhân bản tiềm ẩn
trong con người họ vẫn còn đó. Trái tim họ vẫn không ngủ quên.
Cũng như trăm ngàn đồng ngũ Việt-Nam Cộng-Hòa khác, ngày về
của tôi cũng là ngày đầu một cuộc sống mới, đầy ngỡ ngàng. Sau đó, tôi cũng từ
từ lẫn vào, và biến mất trong dòng chảy của một xã hội hạ cám, thượng vàng. Tôi
bắt đầu xây lại cuộc đời với một chiếc xe đạp thồ.
Cái xe đạp thồ của tôi quả là một con ngựa đa năng, đa dụng.
Nó chẳng đòi ăn, đòi uống, nghỉ ngơi, giải trí, chuyện trò gì. Tôi chất bất cứ
vật gì lên lưng nó, nó cũng im re, không than van nặng nhọc nửa lời. Nó giúp
tôi buổi sớm tinh mơ chuyển hàng cho thân chủ từ Chợ-Lớn về Chợ Bến-Thành. Buổi
tối, chở hàng từ Cầu Chữ Y sang đổ nơi bến xe Miền Ðông. Trời nắng chang chang,
nó chở tôi và một giỏ cá khô từ Sài-Gòn lên Thủ-Ðức, len lỏi trong những con hẻm
ngoằn ngoèo, để tôi rao bán lẻ từng ký cá khô, tôm khô.
Nó chở vợ chồng tôi từ Sài-Gòn đi Thủ -Ðức tới nhà anh bạn
Ngô Văn Niếu của tôi để họp mặt anh em cùng khóa 20 Võ-Bị chào mừng mười cựu sĩ
quan khóa 20 Võ-Bị mới được tha, trong đó có tôi. Dịp này nơi bãi cỏ đậu xe trước
sân nhà anh Niếu, nó được đứng xếp hàng chung với những chiếc xe Dream, Honda,
Vespa của các bạn tôi. Tôi thấy chiếc xe đạp thồ của mình có vẻ “oai phong”
không kém gì chúng bạn, vì so chiều ngang, chiều dài, nó đâu có kém ai? Nhìn kỹ,
tôi thấy nó còn có vẻ “phong trần bạt mạng” hơn mấy chiếc xe máy bóng loáng,
kiêu sa, yểu điệu, của các ông bạn tôi nữa đó!
Tôi có anh bạn làm Trung Tá Cảnh Sát. Anh ấy và tôi được thả
ra khỏi trại cải tạo cùng giờ, cùng ngày. Nhà anh bạn tôi ở gần Thảo Cầm Viên
Sài-Gòn.
Mỗi lần tôi ghé thăm nhà anh, vừa thấy mặt tôi, bà mẹ anh đã
đon đả gọi con,
– Bảo ơi! Có “Anh Long Xe Thồ” tới thăm con kia kìa!
Trung Tá Cảnh Sát Phan Trần Bảo, Trưởng Ty Cảnh Sát tỉnh
Phan-Thiết là bạn tôi; mấy chục năm sau anh ấy còn nhớ cái tên “Anh Long Xe Thồ”
mà mẹ anh ta đã đặt cho tôi.
Trước ngày lên đường đi Mỹ định cư, nếu tôi ra khỏi nhà thì
thế nào con ngựa thồ của tôi cũng đi theo. Chỉ khi nào tôi lên rừng tìm vàng,
đào thiếc, tôi mới chịu để nó ở nhà.
“Ngựa nào cũng là ngựa, xe nào cũng là xe!” vợ tôi thường
an ủi tôi như thế, mỗi khi thấy tôi có vẻ áy náy mời nàng dời gót ngọc lên yên
sau con ngựa thồ để tôi chở đi đây, đi đó. Nàng lúc nào cũng giản dị bình thường.
Có tôi bên cạnh, vợ tôi hết lo âu, nhìn đời lúc nào cũng đẹp. Sau những chuyến
đi dài ngày đào thiếc, tìm vàng trên Cao-Nguyên, tôi trở về Sài-Gòn; vợ chồng
tôi lại chở nhau trên lưng con ngựa thồ, lang thang rong chơi quanh phố. Ðường
phố Sài-Gòn thời 1988-1990 thênh thang. Khu Nguyễn Cảnh Chân có nhiều giáo sư của
Trường Trung Học Hưng Ðạo, nơi đứa con gái thứ nhì của tôi đang theo học. Qua
những buổi họp phụ huynh học sinh, cô giáo hướng dẫn lớp con tôi đã quen mặt vợ
tôi. Bà cũng biết rõ tôi là sĩ quan Việt-Nam Cộng-Hòa đi tù cải tạo.
Chắc chắn hình ảnh chiếc xe đạp thồ của tôi bay lượn trong
khu Cao Thắng, Nguyễn Cảnh Chân đã lọt vào những đôi mắt tò mò.
Một hôm, con tôi về nhà sau buổi học, nó cười: “Sáng nay cô
giáo hướng dẫn lớp con vừa hỏi con rằng ba của em đã về chưa? Con nói bố em mới
về. Lúc đó cô giáo con mới nói cô có thấy một người đàn ông lạ chở má bằng xe đạp
đi qua nhà cô.”
Ðời sống riêng tư của những bà vợ trẻ của sĩ quan chế độ cũ
luôn luôn là mục tiêu theo dõi dòm ngó của xóm giềng. Những câu hỏi dò la, tọc
mạch, chận đầu, bắt nọn như thế không thiếu trong xã hội này. Tôi chạnh nghĩ,
qua mười mấy năm dài, xã hội đảo điên dưới chế độ mới, giá trị của nếp xưa Khổng
Mạnh cũng còn là chút gì đáng giá cho người ta lưu tâm. Rồi tôi thấy thương vợ
vô cùng.
Chuyện xe đạp nổ lốp giữa phố đối với cặp uyên ương này là
thường xuyên. Lốp xe nổ, thì vợ chồng nắm tay nhau, dắt xe đi bộ, về nhà, vá lốp
xe! Ngựa nào cũng là ngựa, xe nào cũng là xe. Ngày xưa mình đi xe Jeep, ngày
nay mình đạp xe thồ; ngựa xe nào cũng dùng làm phương tiện di chuyển có gì mà
phải kén chọn, quan tâm? Ðiều quan yếu là: Ngày xưa mình có nhau, ngày nay mình
vẫn còn có nhau. Mười ba năm, vật đổi, sao dời, mình còn nguyên vẹn như thế này
là quý lắm rồi!
Một hôm có người mang đến cho cặp vỏ xe mới, mừng ơi là mừng!
Anh bạn quý của tôi lúc này đang làm “gác-dan” cổng sau khách sạn
Continental. Hắn chắt bóp mãi mới được món tiền mua tặng tôi cặp lốp mới.
Hắn tên là Lê Văn Chánh, người Huế. Chánh vốn là một cựu sinh viên Dược Khoa
Sài Gòn thời 1960s. Hắn có máu đàn ca và đã có lúc viết nhạc bán cho một nhạc
sĩ đã thành danh để có tiền đi phòng trà Anh Vũ mỗi buổi tối. Học hành chật vật
mãi vẫn chưa thành Dược Sĩ, hắn bị gọi nhập ngũ khóa 15 Sĩ Quan Trừ- Bị Thủ-
Ðức để cứu nước. Rồi hắn trở thành sĩ quan An- Ninh Quân- Ðội.
Tôi và Chánh gặp nhau và thân nhau ở Trại Nam-Hà A. Chúng
tôi ăn chung mâm, ngủ cùng sạp một thời gian rồi cùng được thả ra cùng một
ngày, sau mười ba năm bị giam giữ, tù đày.
Thời mới đi tù cải tạo về, tôi gặp hắn dễ lắm. Cứ đi ngang
qua đường Lê Thánh Tôn, tới cổng sau Khách Sạn Continental là thấy chàng ta ngồi
nơi góc.
Những lần về phố, tôi đều ghé thăm Chánh. Gặp nhau, bù khú một
lúc, hai đứa lại rủ nhau ra tán dóc với anh thợ vá lốp, sửa xe bên đường Hai Bà
Trưng. Anh vá lốp xe máy, sửa xe đạp này thời xưa làm Thiếu Tá Chỉ Huy Trưởng
Trung -Tâm Huấn- Luyện Chi- Lăng của Sư Ðoàn 1 Bộ Binh, Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa.
Anh ta tên là Hoàng Trai xuất thân khóa 19 Võ-Bị. Ba chàng ngồi bên nhau, chuyện
nổ như pháo. Hai bạn tôi chỉ quanh quẩn ở Sài-Gòn, nên thích nghe tôi kể chuyện
đường rừng, mạo hiểm, như chuyện đào vàng, đào thiếc, chuyện bẫy khỉ, giữ lô,
chuyện khai thác gỗ quý, săn ngải, tìm trầm…
Chánh kể cho tôi nghe rằng, nó có đứa con gái lớn tên là Lê
Lâm Quỳnh Như. Cháu Quỳnh Như lớn hơn đứa con gái đầu của tôi một tuổi. Một
ngày từ rừng trở về thành phố, tôi nghe bạn Chánh khoe, con gái anh vừa đứng đầu
cuộc thi tuyển lựa ca sĩ của Thành Phố Hồ Chí Minh. Phần thưởng mà con anh nhận
được là cái dây chuyền 7 chỉ. Chánh nhìn tôi, cười, miệng xuýt xoa: “Thế là có
tiền lo thủ tục hồ sơ đi H.O”
Sau đó khá lâu, gia đình Lê Văn Chánh đi Mỹ theo danh sách
H.O 16. Qua tới Mỹ thì ca sĩ Quỳnh Như đổi tên là Như Quỳnh, danh tiếng nổi như
cồn.
Thời gian đầu, khi Chánh còn cư ngụ ở Philadelphia thì tôi
và Chánh vẫn thường xuyên liên lạc điện thoại thăm nhau. Bây giờ thì tình
hình đã đổi thay nhiều. Chỉ có tôi và anh Trai là gặp nhau thường, vì hai đứa
tôi cùng là cư dân Tiểu Bang Washington. Chúng tôi rất khó tiếp xúc với anh bạn
cựu tù Lê Văn Chánh ngày xưa. Nghe đâu, cách đây vài năm, Như Quỳnh mua cho bố
Chánh một căn nhà ở Cali, khu cư xá giống như một Fortress City, có rào cản, có
cameras, hệ thống alarms cao cấp, security tuyệt hảo, phone của Chánh lại
chuyển số luôn luôn, nên tôi và anh vá lốp xe đạp không chuyện trò với anh được.
Lâu ngày không nói chuyện với nhau, chắc anh Chánh quên tôi rồi?
Riêng tôi, không bao giờ tôi quên “Chánh Phăng Si Ða”, anh bạn
tù sốt rét kinh niên cùng buồng 16 ở trại Nam-Hà A Phủ- Lý của tôi.. Sở dĩ
Chánh có biệt hiệu “Chánh Phăng Si Ða” chỉ vì lúc nào trong túi anh cũng dự trữ
sẵn một vỉ thuốc sốt rét cực mạnh mang nhãn hiệu Fansidar. Không rõ bạn tôi có
hiểu rằng, trong mấy năm nay, anh chàng đào vàng trên rừng Nắp Bắc Ðà-Lạt và
anh chàng sửa xe đạp trên đường Hai Bà Trưng Sài- Gòn nhớ nhung anh gác-dan
Khách Sạn Continental không nguôi?
Những sự mất mát nhẹ nhàng như thế, những hình bóng mờ dần
vì vô tình hay cố ý như thế, làm cho tôi thấy thương, thấy quý những giây phút
bạn bè khăng khít bên nhau. Bây giờ, những sợi tơ thân thiết cột buộc chúng ta
cứ mỏng dần, mỏng dần theo thời gian.
Ôi! Biết tìm đâu? Những ngày xưa thân ái! Biết tìm đâu xứ sở
mà Thượng Ðế đã chọn làm một Thiên Ðường? Biết tìm đâu Việt-Nam Cộng-Hòa của
tôi?/-
Vương Mộng Long
Seattle tháng Tư năm 2018