Trời tảng sáng, có những cơn gió dát mỏng hơi nước, luồn qua khe
cửa, xoa nhẹ lên mặt, làm tôi chợt tỉnh. Mờ mờ qua khung cửa, mưa đang
rây nhẹ, như rắc thủy tinh lên những cánh hoa treo lơ lửng đầu hè. Hà
Nội có những giây phút lặng yên bất chợt đến như vậy. Và có lẽ,
mãi đến mùng bốn tết đất trời mới giao hòa, mới thực sự vào xuân.
Nó cho ta một cảm giác muốn được đi dưới cái mông lung vần vũ của
đất trời. Tôi bật dậy, muốn ra khỏi thành phố, tìm về nơi mà bao năm
trước cha mẹ đã cất bước ra đi.
Con đường từ Hà Nội về Nam Định đã được làm mới, nếu so với mấy
chục năm về trước, quả thật khá đẹp và thuận tiện. Đi qua cầu treo
Nam Định về các trấn Hành Thiện Xuân Trường, Cát Chử Trực Ninh, Giáo
Lạc Nghĩa Hưng… đã có đường vành đai, không phải đi qua trung tâm thành
phố.
Thật ra, miền biển Nghĩa Hưng không phải quê gốc của tôi. Nó chỉ
là nơi ông nội tôi đã mua nhiều ruộng đất, lập ấp ở đó và có một
phần tuổi thơ tôi đã đi qua mảnh đất nơi này. Và giờ đây, lại là nơi
yên nghỉ vĩnh viễn của cha mẹ tôi, khi sang cát từ Hà Nội đưa về vào
năm 2001.
Về đến quê, nhưng mưa phùn vẫn giăng kín cả bầu trời. Bóng thợ
cấy, thợ cày xuống ruộng sớm đã nhấp nhô trên đồng. Ra mộ thắp hương
cho cha mẹ xong, tôi tìm đến ông em viết nằm, nhà thơ Trần Hồng Giang,
biên tập báo Văn Nghệ Nam Định. Vào nhà thấy hắn nằm nghiêng, gục
mặt xuống, dùng tay teo tóp của mình kẹp bút vào má viết. Lặng yên
nhìn những động tác nhẫn nại và cực nhọc ấy, tôi thực sự cảm phục
nghị lực của hắn. Dường như có linh cảm, hắn ngẩng lên, thấy tôi,
một chút sững sờ, rồi như reo lên: Em không ngờ anh lại về sớm như
vậy…
Hàn huyên với Trần Hồng Giang đến quá giờ trưa, tôi đành phải từ
biệt, đến nhà anh Cu Lớn thắp hương cho chị Hậu.
Nhà chị Hậu là nơi tôi tá túc thời chiến tranh. Ngày đó nhà chị
còn ở ngay trung tâm xã. Sau này, nghe các đồng chí cán bộ dụ ngọt,
chuyển ra gần khu nghĩa địa, nhà chị nhường cho nhà trẻ. Khi chị
nhận đất và tiền đền bù xong, họ không làm nhà trẻ, mà nhượng hay
“cúng cụ” cho ông cán bộ cấp trên xây nhà nghỉ cuối tuần. Đắng cay
quá, anh chị kiện cáo khắp nơi, nhưng kết quả chỉ dừng lại ở những
lời hứa. Chịu hết nổi, cứ rượu vào anh Cu Lớn dắt dao đi tìm cán
bộ. Do buồn và bệnh tật, chị Hậu nằm liệt giường. Năm ngoái nghe tin
chị mất, từ Đức tôi không thể về đưa tang chị. Nhưng ký ức tuổi thơ
với những ngày theo chị đi câu cáy, móc cua đồng làm tôi vẩn vơ mất
mấy ngày.
Vào đến sân, thấy cửa nhà khép hờ, nên tôi ngó quanh. Có lẽ, từ
trong nhà, anh Cu Lớn nhận ra tôi, nên chạy ra: Chú về từ khi nào? Chưa
kịp trả lời, anh đã vồn vã kéo tôi vào nhà. Bên mâm cơm đang ăn dở,
có người khách lạ cũng đứng dậy bắt tay tôi. Nghe giọng nói, tôi
nghĩ anh là dân Bắc Kỳ di cư năm 1954. Anh Cu Lớn bảo tôi ngồi vào mâm
và giới thiệu, người khách tên Phan Việt cũng từ Đức mới về. Nhưng
tôi xin phép anh được thắp hương cho các cụ và chị Hậu trước. Phan
Việt đưa cho tôi hộp quẹt và lẩm bẩm: Nhìn chú, anh thấy quen quen.
Bàn thờ vẫn ở trên nóc cái tủ chè gẫy chân, được kê bằng những
viên gạch cũ chưa kịp vạc vữa đi như chục năm trước, khi tôi về thăm
anh chị. Có khác chăng, chiếc ảnh thờ chị Hậu đã thế chỗ cho một
trong ba tấm hình thờ cha và hai người anh liệt sĩ của chị…
Trở ra, chưa kịp ngồi vào mâm, anh Cu Lớn vỗ vào vai, đưa cho tôi
chén rượu, rồi quay lại bảo Phan Việt: Ngày Mỹ ném bom, chú Trường
sơ tán về nhà mình, thời gian đó bác và em đang lao vào chém giết
nhau ở trong Nam.
Rồi anh Cu Lớn nhìn sang tôi mắt rấn rấn như có nước: Mấy cái
truyện Mắm Cáy, Mùa Bão… của chú viết, khi còn sống, thỉnh thoảng
chị lại lấy ra đọc. Đọc xong, cười rồi lại khóc, nghĩ cũng tội…
Chợt Phan Việt cắt ngang lời Anh Cu Lớn, hỏi tôi: Em là Đỗ Trường
ở Leipzig?
– Vâng ạ.
– Thảo nào nhìn quen lắm, anh đọc chú nhiều rồi.
Tôi cảm ơn và hỏi quan hệ của anh với gia chủ để tiện xưng hô. Phan
Việt còn đang ngập ngừng, anh Cu Lớn chỉ lên bàn thờ: Anh ấy vẫn
ngồi trên nóc tủ đấy!
Tôi còn đang ngơ ngác, Phan Việt đi ra đóng cửa và xua tay, nhưng anh
Cu Lớn cười: Việc gì phải đóng cửa, bác về làng xóm người ta xì
xào bàn tán, có lẽ thằng xã, thằng huyện cũng biết cả rồi. Nhưng
chúng nó giả vờ không biết, vì không thằng nào đủ can đảm phá ngôi
mộ gió của bác ở nghĩa trang liệt sỹ mà thôi. Bởi lính chết càng
nhiều, thì thành tích, huân huy chương của xã của huyện… càng cao,
càng dày.
Vậy là tôi đã hiểu, trên nóc tủ thờ trước đây có ảnh ba người
đàn ông trẻ, cười vô tư, đến nay chỉ còn hai…
Trời về chiều, mưa phùn đã thôi bay, chỉ còn những cơn gió bấc
còn rơi rớt lại, tuy không buốt lạnh, nhưng cũng gai gai rờn rợn trong
người. Anh Cu Lớn và Phan Việt tiễn tôi ra xe. Đi qua dãy nhà xây trên
con sông mới lấp, trông như những lô cốt. Nhìn vào làng chẳng khác
nào cô gái đang đẹp cắm cho cái mặt sứt môi, hở hàm. Phan Việt bảo,
lấp sông bán đất xây nhà, có lẽ chỉ có ở Việt Nam thời nay mới
nghĩ ra cái trò quái đản này. Anh Cu Lớn tập tễnh bước sau, miệng
không ngớt chửi đổng. Đến trước nghĩa trang liệt sỹ, anh chỉ tay, mộ
của anh Phan Việt ở trong đó.
Tôi đùa, người ta lập mộ, tế sống hơn bốn chục năm nay, anh sẽ
sống dai lắm đấy. Phan Việt cười, dặn về Đức nhớ đến anh chơi.
Tôi bảo, tiện xe anh Việt lên Hà Nội chơi vài ngày rồi hãy vào
Sài Gòn.
Anh bảo, không được, vì chị ấy đang ở Huế chờ anh. Ngày mốt, anh
sẽ đi tàu từ Nam Định, đón chị vào Sài Gòn rồi về Đức luôn.
– Sao anh không đưa chị về thăm quê luôn?
– Lần này, thăm dò thôi, nếu không có vấn đề gì, lần sau anh đưa
chị và các cháu về…
Tháng ba vừa rồi, đọc báo biết tôi bị trục xuất về Đức trên
đường vào Sài Gòn, Phan Việt gọi điện, nói sẽ đến thăm tôi. Tôi trả
lời, anh cứ nghỉ ngơi, ngày 26 tháng 4 tới, chở cháu út thi đấu giải
vô địch bóng bàn quốc gia Đức ở Celle gần nhà, em sẽ tạt vào thăm
anh…
Phải nói, cơ ngơi Phan Việt nằm trên khoảng không khá đẹp trong ngôi
làng nhỏ với lối xây dựng trang trại biệt lập. Sau làng là cánh
rừng thông nhân tạo, bao quanh nó bởi những cánh đồng lượn sóng, nhấp
nhô. Dòng suối nhỏ chảy dọc theo con đường dẫn vào cổng nhà, từ xa nhìn
như những bậc thang trắng mềm mại. Từ đây, về trung thành phố Hannover
mất mười lăm, hai chục phút chạy xe. Khu nhà này, trước đây là nơi ở
và làm việc của một đại gia đình nông dân, nhưng đã bỏ hoang nhiều
năm, do vậy Phan Việt mua với giá như mua một căn nhà nhỏ nội đô. Anh
bảo, gần hai chục năm nay, hầu như anh dành tất cả những ngày cuối
tuần hay lễ tết tự cải tạo, sửa chữa, nó mới được như bây giờ.
Cuối tháng tư, về chiều ngoài trời vẫn còn lạnh. Phan Việt kéo
cái lò than to vật vưỡng ra nhà kính giữa vườn nướng thịt cá, uống
bia trò chuyện. Và câu chuyện đời anh được tái hiện… bắt đầu từ
những cốc bia vào chiều tối ngày 26- 4- 2015 như vậy…
Thật ra Phan Việt họ Phạm. Anh là cháu đời thứ sáu của Hoàng Tam
Đăng Phạm Văn Nghị. Sau khi đỗ liền ba kỳ thi (tú tài, cử nhân, tiến
sĩ), cụ Phạm Văn Nghị đã được bổ nhiệm vào làm việc trong Viện Hàn
Lâm và trải qua nhiều chức vụ quan trọng khác của triều đình. Năm 40
tuổi (1845) cụ cáo quan về vùng biển mở trường dạy học. Từ đây cụ
khai khẩn lập ra trại Sỹ Lâm, nay thuộc ba xã Nghĩa Lâm, Nghĩa Hùng
và Nghĩa Hải huyện Nghĩa Hưng tỉnh Nam Định. Năm Mậu Ngọ 1858 khi tầu
chiến Pháp nổ súng ở Đà Nẵng, cụ Phạm Văn Nghị lập ra đội quân
nghĩa dũng 365 người, xin vua được tử chiến với giặc…
Có lẽ, xuất thân từ dòng dõi gia đình khoa bảng như vậy, nên Phan
Việt học rất giỏi. Tuy là mảnh đất truyền thống hiếu học, nhưng sau
cải cách ruộng đất, rồi lại chiến tranh, sức sống của nông dân cạn
kiệt, đói khát đã đến với từng nhà. Do vậy, việc học vô cùng gian
truân. Cả vùng, học cùng khóa với anh ở trường cấp 3 Nghĩa Hưng duy
nhất có Nguyễn Quang. Và học trên anh cũng chỉ có Nguyễn Ngọc Am,
Phạm Văn Bể, Ngô Gia Lễ và Trần Mạnh Hảo (nhà thơ).
Năm 1968 tốt nghiệp cấp ba, Phan Việt và Nguyễn Quang đủ điểm du
học nước ngoài. Vì có bố là liệt sỹ chống Pháp và anh trai bộ đội
tại ngũ ở chiến trường miền Nam, nên Phan Việt trong diện được xuất
ngoại. Nguyễn Quang can tội có ông nội, chú bác cô dì đã di cư vào
Nam, do vậy bị loại, buộc phải nhập ngũ. Thật ra, thành phần lý
lịch như Nguyễn Quang, trước lệnh tổng động viên năm 1968 cũng không
được phép đi bộ đội, mà con đường cũng như tương lai duy nhất lấy đít
trâu làm thước ngắm. Bố Quang là Tuấn Quáng Gà, tuy mắt mũi kèm
nhèm, nhưng lại coi cán bộ không là cái đinh gì. Hôm xã đội trưởng
đến đưa giấy báo nhập ngũ cho Quang, ông đuổi thẳng cổ ra khỏi nhà
và bảo:
– Không bao giờ tao cho thằng Quang mang súng vào trong đó bắn giết
ông bà cô dì chú bác của nó đâu nhé!
Chuẩn bị lên trường ngoại ngữ nhập học, Phan Việt nhận được giấy
báo tử của anh trai. Lòng căm thù Mỹ Ngụy sôi lên sùng sục, Phan Việt
quyết định không du học nữa, xung phong vào bộ đội và đi chiến trường
ngay tức thì. Trước quyết định ấy, nhiều người tiếc cho Phan Việt.
Hôm tiễn quân lên đường, trong tiếng trống hừng hực xung trận, còn lẫn
tiếng kẻng xèng xèng với tấm biển “Hèn nhát như tôi là mất nước”
treo trên cổ Nguyễn Quang, đi vòng quanh khắp làng. Khi bước chân lên xe,
Phan Việt nhìn thấy ông Tuấn Quáng Gà vẫn còn bị trói ở góc sân và
cứ bị ám ảnh mãi lời nguyền vọng lên của ông: Thằng Phan Việt bỏ du
học, rồi mày sẽ ân hận đấy!
Tôi hỏi, đến bây giờ anh có ân hận quyết định này không? Phan Việt
trầm ngâm: Nếu cứ đi du học và trở về, biết đâu bây giờ tôi đã là
cán bộ to, một con sâu béo trục béo tròn hả chú! Nói xong, anh khẽ rùng
mình, tu cạn cả chai bia.
Sau mấy tháng huấn luyện ở Hoa Lư, Ninh Bình, Phan Việt được toại
nguyện, hành quân vào Nam chiến đấu. Cuộc hành quân vòng qua đất
Camfuchia xuống tận cùng đất Việt, quả thật gian nan, tưởng như không
thể vượt qua của chàng học sinh Phan Việt, nhưng lòng hận thù đã
giúp anh chiến thắng. Từ đây, Việt được bổ xung cho một đơn vị địa
phương quân, hoạt động trên vùng sông nước Hậu Giang. Tuy địa bàn này
ít xảy ra những trận đánh lớn, nhưng thường xuyên phải chống trả
hoặc lùi sâu vào vùng đước trước những trận càn của quân đội Việt
Nam Cộng Hòa.
Trải qua mấy năm như vậy, Phan Việt cũng có khá nhiều kinh nghiệm
trận mạc trên vùng sông nước, đầm lầy. Nhưng một lần định mệnh, có
lẽ do chỉ điểm, đơn vị Việt bất ngờ bị quân đội VNCH bao vây. Không
lối thoát. Đáp lại sự kêu gọi đầu hàng, Việt và đồng đội chống
trả quyết liệt. Trong trận quyết tử ấy, đơn vị Việt hoàn toàn bị
xóa sổ…
Khi tỉnh lại, Việt mờ mờ nhận ra hai người đứng quay lưng về phía
mình. Một mặc áo trắng có thể là bác sỹ và người kia có lẽ cũng
là thương binh, bởi tay trái bị cuốn băng tròng trên cổ. Việt không
biết mình đã bất tỉnh bao lâu và ở đâu. Anh định rồi dậy, nhưng không
được. Nghe tiếng động, hai người đàn ông quay lại. Thoáng nhìn trên vai
áo họ, Việt hốt hoảng nhận ra mình đang ở Quân y viện thuộc quân đội
Việt Nam Cộng Hòa. Thấy Việt mở mắt nhìn, người bác sỹ ra hiệu nằm
yên và khám lại cho anh, rồi bảo: Tỉnh là tốt rồi, chúng tôi mới mổ
và đã lấy đầu đạn ra cho anh. Yên tâm nằm tĩnh dưỡng, tuổi trẻ hồi
phục nhanh thôi.
Nghe người bác sỹ nói giọng Bắc, Việt định hỏi, nhưng không thể
cất thành lời. Rồi thấy ông nói nhỏ với người bị thương ở tay câu
gì đó và bước đi. Người thương binh đứng tần ngần một lúc, bất chợt
đi ra và nói với lại: Ông bạn nằm yên đó, chút nữa tôi quay lại.
Đến đây, đột nhiên Phan Việt dừng lại, giọng chùng xuống: Em biết
không, hôm nay là ngày giỗ lần thứ mười của bác sỹ Đặng Huy Lưu,
Trung tá Liên Đoàn Trưởng Quân Y Vùng 4, người đã cứu anh về cả thể
xác lẫn linh hồn. Và năm nay cũng là hai mươi năm ngày mất của Đại
úy Lê Đình Thụy, người đã cứu sống anh, sau này là người bạn thân
thiết nhất và là anh vợ của anh. Nếu không có họ, chắc chắn ảnh
của anh vẫn còn để trên nóc tủ và ngôi mộ ở quê không còn là ngôi
mộ gió nữa…
Tôi cắt ngang lời Phan Việt, có phải bác sỹ Đặng Huy Lưu cũng
người Nam Định và là tác giả tập thơ “Mộng Vẫn Còn Say?” Phan Việt
ngạc nhiên:
– Đúng vậy, nhưng sao em biết?
– Bởi em đã viết lời bình cho tập thơ này.
Phan Việt hỏi một cách bâng quơ: Sao mình chưa được đọc nó nhỉ?
Trời vào đêm. Trăng đầu tháng treo ngược trên ngọn cây, chảy một
màu vàng xuống dòng suối bậc thang đang đổ đều đều như giã gạo
trước nhà. Tôi lặng nhìn một khuôn mặt đã đi trước cái tuổi 65 của
anh. Chị Hà vợ anh, chạy đi chạy lại tần ngần, một lúc sau mới nhẹ
hỏi: Hai anh em còn dùng thêm gì nữa không? Tôi và anh đều khẽ lắc
đầu. Và chợt nhìn xuống, tôi thấy dường như có một giọt nước trong
mắt rớt vào vai anh, khi chị cúi xuống kéo chiếc nghế để ngồi.
Để phá tan không khí u buồn đó, dù cái thời đã đi rất xa rồi, tôi
hỏi: Anh chị sang Đức năm nào? Không trả lời thẳng câu hỏi của tôi,
nhưng anh tiếp lại câu chuyện với cái giọng nghèn nghẹn của mình.
Không biết do vô tình hay chủ ý, khi từ phòng hậu phẫu ra, quân y
viện sắp xếp Phan Việt ở cùng phòng với Lê Đình Thụy, người bị
thương ở tay. Trong hoàn cảnh này, Việt sẵn sàng chờ đợi sự trả thù
hay một điều gì đó chẳng hạn. Nhưng đã mấy tuần trôi qua, không hề
có chuyện gì xảy ra, ngoài việc bác sỹ đến khám và chăm sóc vết
thương cho anh. Hay những ngày đầu khó khăn, Lê Đình Thụy dìu anh đi
lại và giúp đỡ từ những công việc nhỏ nhất, kể cả vệ sinh cá nhân.
Sức khỏe Phan Việt hồi phục khá nhanh. Thời gian đầu, ngày nào
bác sỹ Đặng Huy Lưu cũng tạt qua. Không biết có phải do cùng quê hay
tình thương trách nhiệm của người bác sỹ dành cho tất cả bệnh nhân,
mà lần nào cũng vậy, ông hỏi thăm Việt rất ân cần. Có tối, ông đi
đâu đó về, tạt vào nói chuyện với Việt rất nhiều về xã hội, cuộc
sống, lòng hận thù và luật nhân quả. Và cũng từ đó những nút thắt
trong lòng Việt, dường như dần dần đã được cởi bỏ. Việt đã cảm ơn
ông và các đồng nghiệp đã kéo anh từ tay thần chết trở về. Nhưng ông
lại bảo, chính Lê Đình Thụy mới là người cứu sống anh. Bởi, mặc dù
bị thương, nhưng thiếu úy Lê Đình Thụy vẫn cố gắng chỉ huy trung đội
thu dọn chiến trường và đưa tất cả tử sỹ hai bên ra xe. Khi xác Phan Việt
được hai người lính kéo qua, như có một linh cảm Lê Đình Thụy bảo
dừng lại. Kiểm tra, tuy hơi thở rất yếu, nhưng chưa chết hẳn, anh gọi
y sỹ. Hai người lính bảo, thằng này da nhạt phếch thế này, chỉ tý
nữa là đi hẳn. Để em cho nó phát nhân đạo, thiếu úy cứu nó làm gì
mất công. Thụy trừng mắt, đừng làm bậy…
Vết thương đã khỏi hẳn, Lê Đình Thụy được nghỉ phép trước khi về
đơn vị. Tuy nhà cách quân y viện không xa, nhưng hình như Thụy và Việt
đêm ấy thức trắng trò chuyện. Những hàng rào và khoảng cách thực
sự đã được xóa bỏ. Khi biết ước nguyện của Việt được đi học tiếp,
Thụy rất ủng hộ. Và hồi chánh là con đường duy nhất lúc đó, để
Việt có thể bước chân vào giảng đường đại học.
Rời trung tâm chiêu hồi Thị Nghè, Việt được Thụy giới thiệu về
làm tạm trong xưởng ép mật mía của gia đình mình, ở thành phố Cần
Thơ, để chuẩn bị cho kỳ thi đại học. Tôi hỏi ngạc nhiên hỏi: Học bạ,
văn bằng học hành của anh để cả ngoài Bắc làm thế quái nào mà
người ta chấp nhận cho anh thi? Anh bảo, cũng nhờ can thiệp của Bộ
chiêu hồi, Bộ giáo dục đặc cách cho anh thi lại tốt nghiệp trung học.
Với anh, khó khăn nhất là sinh ngữ, nhưng sáu tháng chuyên tâm học, anh
đã vượt qua tất cả. Cùng năm đó, anh thi vào Đại học kỹ thuật thuộc
Viện Đại Học Cần Thơ với số điểm khá cao.
Năm 1974, đang học năm thứ hai, Phan Việt lập gia đình với Hà em gái
Lê Đình Thụy. Rồi biến cố 30-4-1975 xảy ra, Đại úy Lê Đình Thụy bị
bắt tại Xuân Lộc. Hà sinh cháu đầu. Dòng người tràn xuống Miền Tây
tìm cách di tản. Biết ở lại là nguy hiểm, không chỉ cho bản thân mà
cho cả gia đình ngoài Bắc, nhưng trong hoàn cảnh này, anh không còn
đường để lựa chọn. Anh đành bỏ giảng đường, đưa vợ con về vùng Châu
Phú, An Giang trồng cấy, chăn nuôi. Và lý lịch cũng như cái tên Phan
Việt này, được vận vào đời anh từ đây…
Lê Đình Thụy bị bắt không lâu, vợ anh để hai con nhỏ lại cho ông bà
nội, bỏ đi mất tích. Với Phan Việt, việc thăm nuôi Lê Đình Thụy trong
trại cải tạo được đặt lên hàng đầu. Nhưng chiến tranh biên giới phía Nam,
rồi lên phía Bắc lại bùng nổ, dòng người lại đổ ra khơi. Thụy giục
vợ chồng Phan Việt bằng mọi giá phải rời khỏi Việt Nam. Lần lữa
mãi, mùa hè năm 1979 vợ chồng Việt đưa cả hai con của Thụy vượt
thoát và được chính phủ Tây Đức tiếp nhận.
Kể đến đây giọng Phan Việt như tắc nghẹn lại: Tội nhất là Lê Đình
Thụy, năm 1983 anh ấy ra tù, vợ chồng mình và các cháu làm giấy bảo
lãnh, lằng nhằng mãi mới sang được. Nhưng anh ấy thần kinh có vấn
đề, có lẽ bị ám ảnh bởi chiến tranh, nhất là những ngày bị tù
tội, giam cầm. Chữa mãi không khỏi, do vậy anh ấy vùi đầu vào những
cơn say và mất năm 1995, bởi ung thư gan. Theo nguyện vọng của anh ấy,
vợ chồng mình đưa anh về chôn cất ở Việt Nam. Các con anh đều là kỹ
sư, dù đã có gia đình và đã trên bốn chục cả, nhưng vẫn ở đây với
vợ chồng mình.
Tôi hỏi, sau 1975 anh có liên lạc với gia đình không? Anh bảo, mãi
khi anh sang tới Đức rồi, gia đình nhà vợ mới dám bí mật nhắn cho
mẹ anh. Năm 1995 anh về, mẹ anh đã mất, cho người ra đón vợ chồng Hậu
vào Cần Thơ, anh em gặp nhau. Hậu kể, nghe tin anh còn sống, mẹ vừa
mừng vừa sợ. Tấm ảnh của anh trên bàn thờ, mẹ không cho gỡ xuống. Cu
Lớn chồng của Hậu cười: Mẹ mất rồi, em cũng có dám cho anh gỡ ảnh
xuống đâu.
Hôm rồi anh về nhìn nhà cửa rách nát, hỏi Cu Lớn, tiền anh cho sao
không làm lại nhà. Cu Lớn bảo, Hậu vẫn sợ hàng xóm dị nghị, chính
quyền nhòm ngó, không cho sửa. Tiền của anh, cho cả vào hộp sắt, cất
vào trong ống luồng trên kèo nhà. Hậu mất rồi em cũng không muốn sửa
nữa…
Dừng lại giây lát, Phan Việt thở dài: “Chỉ có tình yêu mới có
thể hóa giải hận thù. Súng đạn và quyền lực có thể bắn trúng mục
tiêu, chứ không bao giờ đi tới đích thực sự”
Đêm đã về khuya, trăng đã rớt khỏi ngọn cây, để lại một khoảng đen
thẫm trên nền trời…
Leipzig 14-5- 2015
Đỗ Trường