31 July 2018

THỢ HỒ NGHỈ ỐM - Hồng Hoang


Tặng Uyn yêu dấu
Sách báo văn chương thường tả kỹ và rạch ròi thời tiết nơi này khác nơi kia, ngày nay khác ngày qua. Các cô thông báo thời tiết trên ti vi trông đẹp thế, cô nào cũng ngực nở mông to, chân dài váy ngắn, làm cho đám thợ hồ kiếm ăn xa nhà khi nhìn thấy dễ bị sóng lòng day dứt phân tâm chẳng thể tập trung chú ý được nơi nào khác nơi nào bao nhiêu độ.

Tuy vậy chúng tôi vẫn cố để ý xem quê mình ngày mai mưa hay nắng, có giông gió lụt lội gì không. Tất cả chúng tôi đều nhớ nhà.
Đàn ông quê tôi biết cất váy áo vợ trước khi trời đổ cơn mưa và thuộc lòng câu ca "Mắng vợ thì mắng sớm mai. Mắng vợ buổi tối lấy ai mà nằm". Đàn bà quê tôi biết làm đúng lời mẹ dặn từ thời con gái: "Không được gây chuyện với chồng vào giờ gà lên chuồng", tránh xích mích về đêm.
Gái làng tôi thắm tình và chung thủy nổi tiếng từ xưa, nhưng thường lấy chồng sớm. Cứ khoảng độ tuổi 16 -17 là đã có trầu cau ăn hỏi sẵn rồi chỉ chờ chớm 18 cưới liền, đăng ký kết hôn sau. Có đám bê cả bụng phồng lên Ủy ban xin làm đăng ký kết hôn sau cưới.
Sử làng lưu truyền nước giếng làng làm con gái sớm dậy thì, làm đàn bà mắn đẻ. Còn đàn ông con trai cần cù và dai sức hơn hẳn đàn ông con trai làng khác. Tuy vậy các cụ bà vẫn thọ lâu hơn. Thiên sử miệng của làng còn kể ngày xửa ngày xưa khi đất làng quá rộng dân làng quá thưa; có một thầy phong thủy giang hồ qua làng, ông thương làng neo người đã cắm huyệt đào giếng làng vào đúng huyệt rốn Cô Tiên, nên gái làng dáng cao thon thả. Không thắt đáy lưng ong cũng mình trắm cẳng giang. Cô nào cũng da trắng mịn màng, mắt sáng môi thắm cười tươi như hoa. Được vậy đều là nhờ vào nước giếng rốn tiên cả. Các cụ ông những lúc tụ hội trà thuốc hay nói câu ca dao: “ Đàn bà mình chắm cẳng giang, một đêm chấp cả bảy chàng trai tơ”. Cá chắm thân mình tròn lẳn chắc thịt. Giang là giống chim trời có chân cao lêu đêu như con sếu. Gái làng tôi dáng cao chân dài đẹp như người mẫu.
Làng tôi êm đềm hạnh phúc như câu hát: "… Làng tôi sau lũy tre mờ xa… bình yên những nếp nhà…".
Tôi yêu cái giếng trong mát của làng tôi, yêu cái đình cái cổng, yêu những con đường ngõ xóm với biết bao những bờ ao bụi cỏ thân quen.
Vì sao khi ốm đau mới thấy rõ cái nhớ mạch lạc rành rọt thế nhỉ? Uyn ơi!
Đời thợ hồ tha phương, chỉ khi nào hết việc hay ốm nằm bẹp nhà trọ mới thấy được tác động của mưa nắng ngấm vào người. Tôi là anh thợ hồ đang ốm nằm bẹp nhà trọ đây. Sốt hầm hập là mất tiêu ngày công và tiền thuốc nữa rồi. Chiều qua tôi chưa ốm, đứng trên giàn giáo cốp pha của tấm sàn lầu bốn, chúng tôi đang chuẩn bị cho việc đổ bê tông. Ngôi nhà đó ở gần ga Hòa Hưng nên tiếng còi tàu rất rõ, đứng trên cao nghe còn rõ hơn. Thỉnh thoảng tôi vẫn đọc thấy tiếng còi tàu hỏa được viết mô tả ra là: "Tu… tu…". Nếu tả con tàu lăn bánh còn có thêm mấy chữ: "Xình… xịch…" (Tôi thật không biết mấy chữ “tu tu… xình xịch…” là của nhân dân, hay là chữ của tay nhà văn nào). Vậy mà cái tai tôi nghe thế nào cũng chỉ ra là: "Uyn… Uyn…" không hề Tu… tu. Chắc tại tôi nhớ Uyn. Không biết lúc này em đang làm gì? Trời Bắc quê mình tháng này lạnh nhiều hơn chưa? Tiếng còi tàu lại kêu to như chính tôi đang gọi tên em ra tới tận ngoài đó.
Mãi sau tôi mới nghĩ ra được tàu hỏa đầu máy hơi nước có còi kêu: "Tu…tu…". Còn tàu hỏa đầu máy diezen có còi kêu như gọi tên người tôi yêu tha thiết "Uyn…uyn…".
Uyn và tôi cùng thi trượt đại học, cùng ở xóm Hàng Chiếu, những khi việc nông nhàn tôi thường sang nhà Uyn giúp mẹ Hai của Uyn gấp túi giấy. Mẹ đẻ của em mất sớm, hơn một năm sau bố em đưa về một người đàn bà cùng chung mái ấm với bố con em. Bà chính là mẹ Hai bây giờ.
Bố Uyn cũng không còn nữa. Ông qua đời để lại cô con gái duy nhất sống với người vợ hai của ông. Cảnh sống éo le đã làm cho nét mặt của Uyn không được tươi vui dễ chịu. Đó là vẻ đăm đăm "khó đăm đăm" và vẻ trơ lì "vô cảm trơ lì". Thế nên khi nhìn kỹ vào mắt Uyn, tôi cũng không đoán nổi liệu em có biết tôi yêu em lắm rồi không! Yêu em từ đận lớp 10. Dù vẻ mặt em lì lì đăm đăm nhưng tôi cũng đã thấy có lần em cười tươi sáng rạng rỡ dễ vui lây. Nhưng sao em quá hiếm cười tới mức xem như bằng không. Tôi đã phải lòng em và đang nín chờ cơ hội tỏ tình. Mỗi ngày không thấy em một lần là tôi bứt rứt bồn chồn, làm gì cũng không yên.
***
Chiếc khăn ướt đắp trên trán để hạ nhiệt đã khô từ lâu, tôi bỏ qua một bên, quay đầu nhìn thấy một tờ báo dán trên vách tường của nhà trọ có mấy chữ màu xanh lá mạ: "Mùa thu – mùa yêu anh". Thì ra là tên của một bài thơ. Đang trong tâm trạng nhớ tình, tôi thấy tựa đề này thật hay, thật nhiều tình yêu và thi hứng mà nhẹ nhàng âu yếm biết bao. Chán là khi đọc mấy dòng trong bài thơ thấy toàn ghép vần vè những câu về thời tiết với vài kể lể. Chỉ có mỗi một câu như văn nói mà rất thơ: "15 năm là mấy…" thật đúng là được yêu và biết yêu ở cả câu thơ ngắn ấy. Hay là vì tôi được Uyn yêu và biết là Uyn biết yêu và Uyn biết là tôi biết yêu Uyn? Ôi… thơ khó thế.
Uyn yêu dấu lì lì đăm đăm vậy mà cũng làm thơ. Tôi xem trộm được, thơ của em cục cộc lắm. Đọc lên nghe vừa đau vừa sướng vừa tức cười, đám thợ xa nhà thích lắm, vì thợ ở nhà với vợ rồi thì không cần thơ nữa. Lúc bấy giờ Uyn cũng đã biết tôi yêu em, lòng em cũng đã yêu tôi lắm mà vẫn tảng lờ như không được, sao em nhịn giỏi thế nhỉ?
Nhớ bữa khi tôi cùng em gấp túi giấy xi măng cho mẹ Hai, đương tự nhiên em đứng lên đi về phía bể nước mưa chỗ hồi nhà. Tôi hồi hộp ngay tức thì, tim đập thịnh thịch cái một. Tôi lường khoảng cách cự li để chạy theo em ra bể nước, chỗ khuất ấy. Tôi lấy đà…
Vừa đi tới gần bể nước lại thấy em chạy vụt lên nhà trên với tiếng "Dạ" rất to. Tôi chưng hửng, bước chân loanh quanh, rồi trở về chỗ cũ bần thần ngồi gấp túi giấy.
Em né tránh tôi chăng? Dường như nỗi khổ loáng qua trong tim. Phải chờ dịp khác.
Dịp khác đến vào khoảng gần một tháng sau. Một lần gần giống lần trước, chỉ khác hướng chạy của em lần này là nhà bếp. Bếp còn kín khuất hơn cả phía sau bể nước. Tim tôi lại đập mạnh. Ngó quanh không thấy mẹ Hai đâu, tôi băng theo em vào bếp. Em đứng sững ngay giữa bếp với nét mặt hơi dữ dằn quát khẽ: "Anh vào đây làm gì?" Tôi chột dạ rồi nói như đứt hơi: "Anh…anh… định… anh định…". Tôi thấy mình đang run nhưng vẫn tiến vào cầm tay em nói: "Anh yêu em lâu rồi". Em đứng lặng im, tôi liền áp người tôi dịn sát người em hơn nữa. Bỗng thấy tay em siết chặt tay tôi rồi bung nhanh ôm choàng lấy tôi, em thốt lên: "Thằng chó sao bây giờ mới nói". Tôi thấy người em cũng run run. Tôi không biết em mong chờ phút này đến thế, tôi thật đáng được mắng hơn nữa. Ví dầu tôi ngỏ lời sớm hơn chắc gì thấu được lòng em yêu và chờ đợi tình yêu đến cháy ruột "ác chiến" như thế.
Hạnh phúc đến giản dị. toàn thân tôi trong ngoài cùng cười sung sướng. Cười từ trong máu, trong thịt trong gân, trong mỗi tế bào. Chúng tôi thôn quê ôm nhiều nói ít. Em im lặng tôi im lặng, cả hai cùng run run ấm áp. Nước mắt em đã nhỏ xuống vai tôi.
Bỗng đâu có tiếng quát: "Hai đứa ra ngay". Mẹ Hai xuất hiện bất ngờ. Thì ra bà biết hết và đã canh chừng chúng tôi từ lâu. Lần tôi theo hụt em ở bể nước không qua được mắt mẹ Hai. Lần ấy bà nóng vội đã quát gọi con chồng hơi sớm. Thế mà tôi chẳng nghe thấy gì, chỉ mình em nghe thấy tiếng mẹ Hai gọi giật. Lần này mẹ Hai rút kinh nghiệm, bà đã để im xem sao, "tia" chúng tôi chạy theo nhau vào bếp bà đã để cho hai đứa ôm nhau lâu, đủ để không chối cãi vào đâu được.
Liền sau đó bà quát tiếp: "Hai đứa lên nhà ngay tao bảo".
Đời mẹ Hai có quá khứ còn buồn tủi hơn Uyn. Mẹ biết cách để hết buồn tủi cho quá khứ. Chỉ còn cáu bẳn và vui giận thất thường ở lại hẳn trong tính nết của mẹ. Nhiều khi chuyện nhỏ nhoi mà quát tháo ầm ĩ, rồi oà khóc như nhà có đám tang. Mặc dù lòng dạ mẹ Hai không nghĩ hại cho ai bao giờ nhưng với cái mồm ông ổng thái quá, lại thuộc lòng nhiều câu chửi vần độc địa tới mức nếu không hiểu nhầm bà thì cũng khó ai ưa được. Chắc cũng vì thế khi ở lâu với bà Uyn chỉ còn lại hai vẻ mặt thiếu vắng thân thiện.
Hai chúng tôi theo bà lên nhà trên, bà chỉ vào chiếc ghế gỗ dài: "Anh chị ngồi bên kia". Còn bà ngồi đối diện chúng tôi, ở giữa là bàn trà nước kê trước bàn thờ có để tấm ảnh của bố Uyn. Một tấm ảnh phóng to từ ảnh chứng minh thư, thật khó đẹp. Mẹ Hai lườm chúng tôi đầy dụng ý, bà nói: "Thắp hương lên bàn thờ đi rồi tao nói chuyện". Chúng tôi thắp hương xong bà lại nói: "Hai đứa nghe tao hỏi! Chúng mày có thật thương nhau không? Có lấy nhau thành vợ chồng không? Hay nước "rốn cô tiên" làm chúng mày rực không chịu được"?
Bà mẹ Hai này thật quá quắt vừa "anh chị" vừa "hai đứa" lại vừa "Tao -tôi". Xưng hô lộn xộn chẳng coi chúng tôi ra gì. Nhưng nghe thấy câu "có lấy nhau thành vợ thành chồng không" trong lòng mừng lắm, mắt tôi tìm mắt Uyn dò ý, thấy ánh mắt em cười, tôi vui hơn cả lúc ôm được em trong bếp, tôi trả lời mẹ Hai độc một tiếng "Có". Bà quát liền: "Có là có thế nào? Tao hỏi có lấy nhau hay có dửng mỡ? Nói cho rõ ràng!".
– Thưa mẹ Hai, con có lấy Uyn làm vợ, con yêu Uyn lắm, yêu không chịu được.
– Anh nói thật lòng không?
– Dạ, thật!
– Có thật thật không? Đàn ông các người hay kêu không chịu được lắm.
Tôi nói lại rõ với mẹ Hai:
– Thưa mẹ, con yêu Uyn thật.
– Được, nếu đồng lòng thì cả hai thề trước bàn thờ và khấn xin bố con Uyn đi.
Thấy Uyn có vẻ lừng khừng bà quát to: "Chị kia có thề có khấn xin bố chị không, hay chỉ thích ôm nhau trong bếp?". Uyn không trả lời mẹ Hai. Tôi và em lặng lẽ ra trước bàn thờ, cùng thề yêu nhau cho đến cuối cuộc đời và xin cho kiếp này được làm vợ chồng của nhau. Trong lúc nghiêm trang hệ trọng như vậy tôi không ngờ em bấm đầu ngón chân nháy nháy vào chân tôi. Em nháy nháy kều kều đầu ngón chân có nhịp điệu lúc nhanh lúc chậm hồi hộp như nhạc phim (chiêu này của em xuất thần mẹ Hai không hề biết). Thì ra trong máu em chảy xen lẫn cả hóm hỉnh vui đùa, tôi thích lắm, mấy ngón chân của em làm tôi đờ đẫn hết cả người.
Mẹ Hai có vẻ sốt ruột: "Thề gì lâu thế…? Xong chưa?" Chúng tôi cùng nói "xong rồi" và trở lại chỗ ngồi như cũ chờ xem mẹ Hai có thuyết giảng gì không.
Mẹ Hai thuyết giảng: "Anh biết rồi, tôi với con Uyn là người dưng nước lã khác máu tanh lòng (bà lại ác khẩu). Đời nó ra sao là nhờ hết vào duyên phận. Bây giờ thề với nhau rồi duyên phận của nó là anh (Bà bỗng mất giọng, nói chen lẫn tiếng khóc) về bảo bu anh kiếm cơi trầu sang nói chuyện với tôi".
Tôi nghe mẹ Hai nói trong mếu máo mà như nghe mệnh lệnh của hạnh phúc.
***
Cả tôi và Uyn đều không còn cha, nhưng tôi còn mẹ đẻ. Uyn không được tình mẹ con đùm bọc thương yêu nhiều bằng tôi. Cưới được em về, hai mẹ con tôi sẽ bù đắp những thiệt thòi cho em. Tôi sẽ làm em có chửa, và khi sinh em bé tình cảm ruột thịt của chính em sẽ giúp em cảm thông cho tính ác khẩu của mẹ Hai tốt bụng.
Quân lệnh như sơn, mẹ tôi mang cơi trầu sang dạm ngõ nhà Uyn, chẳng rõ hai bà nói những gì mà đoạn cuối cứ vịn vai nhau khóc suốt.
Về nhà mẹ tôi bảo: "Cuối năm sau chúng mày cưới. Cưới xong ở luân phiên mỗi nhà một tháng, không ở dâu ở rể gì đâu, hai chúng tao chỉ còn mỗi hai chúng mày".
Một phần tương lai hạnh phúc của chúng tôi được hai bà mẹ quy hoạch rồi. Chỉ còn lo thực hiện. Tôi nghĩ cách kiếm tiền thêm, nếu chỉ trông vào ruộng đồng thì gay to. Thời xửa thời xưa làng tôi hơn đôi chục nóc nhà, ruộng đồng bát ngát bỏ hoang không có người có sức mà làm. Thời bây giờ đây đất chật người đông, ruộng làng chia theo "khẩu" mỗi "khẩu" tính ra chưa đến 150 mét vuông ruộng, cày cấy làm sao cho đủ ăn.
Tôi theo cậu Phúc vào Nam làm thợ hồ, bây giờ ốm nằm đây nhìn thấy câu thơ: "…15 năm là mấy…" mà xao xuyến. Nhưng sao lại là mấy? Chả là bằng quãng đời lưu lạc thăng trầm của một cô gái Trung Hoa cứ lừng danh mãi trên đất Việt "Vương Thúy Kiều" đó thôi. Còn tôi và Uyn sẽ phải già đi 15 tuổi chứ? Chắc chúng tôi sẽ vẫn yêu nhau như lúc chưa già cho dù sức khỏe có kém đi. Hôm chia tay Uyn ở chỗ bể nước, chúng tôi ôm nhau lưu luyến. Vẫn là ôm nhiều nói ít. Em thì thào vào tai tôi một câu cổ điển: "Anh đi chân cứng đá mềm!" Tôi nghe vầy vậy thôi lòng dạ còn đang lâng lâng vì ôm ấp em. Đúng là tôi đang ôm hạnh phúc trong tay. Đến chiều hôm đó tôi và cậu Phúc đi bộ ra ga. Từ ấy tôi có ba người đàn bà mong chờ: Hai bà mẹ góa và Em.
Ốm đau thật xui xẻo. Chiều qua tôi chưa kịp ốm, khi đang làm cốp pha tôi nghe tiếng còi tàu kêu Uyn… Uyn, tự nhiên buột miệng nói: "Anh chưa về đâu". Cậu Phúc quay sang hỏi cái gì? Tôi nói: "Không".
– Tao vừa nghe mày nói lí nhí gì mà?
– Không đâu cậu. Cháu nói với cái tàu hỏa ấy mà.
– Tao nghe mày nói: "Anh chưa về đâu"
– Vâng cháu bảo cái tàu.
– Mày hâm rồi, nhớ lắm phải không, con Uyn bỏ bùa mày rồi.
– Vâng!
– Ơ cái thằng bị người dưng cho ăn bùa gì mà đứng trên nóc nhà lầu bốn nói chuyện với tàu hỏa?
Cả tốp thợ cười ồ, tôi cũng cười và thầm nghĩ: "Uyn ơi anh thích được em bỏ bùa, cứ bỏ bùa mãi cho anh nhé, tàu hỏa ra Bắc đấy anh nhắn cho em rồi ".
Trong đám thợ hồ có tiếng hò: "Hò ơ ơ… Con cò nó mổ con trai, con trai khép lại mà nhai… ớ… ơ… con cò".
Đám thợ cười rống lên, có người cố ý hỏi tôi: "Thằng em chắc được hưởng cái bùa "trai" nhai "cò" rồi phải không?
Tôi hiểu ra câu hò của thợ rồi. Chúng tôi chưa như thế, dưới kia lại có còi tàu kêu Uyn… Uyn. Bỗng cậu Phúc đứng lên lấy tay bắc loa miệng hướng về con tàu gào rất to: "Anh chưa về đâu" – cậu quay sang tôi: "Phải thế thì tàu hỏa nó mới nghe thấy" – Cậu Phúc cười.
Thì ra không riêng gì tôi nhớ quê, chắc cũng không riêng gì cậu Phúc nhớ quê.
Bên tai tôi còn câu tình yêu trong bếp của Uyn: "Thằng chó sao bây giờ mới nói". Tôi hít một hơi thật sâu vào lồng ngực như còn đây mùi áo quê phơi nắng vai em.
Tôi đỡ nhiều rồi, ngày mai tôi lại đi làm.

Hồng Hoang