26 July 2018

THỦNG THẲNG, TRỜI CÓ MẮT - Leo Tolstoy | Bắc Phong phỏng dịch


Nguyên tác: Leo Tolstoy
Bắc Phong phỏng dịch từ bản tiếng Anh God sees the truth, but waits do Thomas Seltzer chuyển ngữ từ nguyên tác tiếng Nga.

Sống ở thị trấn Vladimir, có một thương gia còn trẻ tên Ivan Dmitrich Aksionov. Chàng tự mình dựng lên hai cửa tiệm và một căn nhà.
Aksionov bảnh trai, tóc quăn vàng, vui tính và rất thích đàn hát. Hồi còn thanh niên, chàng sa vào vòng rượu chè và hay gây náo loạn lúc quá chén. Nhưng sau khi lập gia đình thì chàng bỏ rượu, chỉ thỉnh thoảng mới uống.
Hè nọ, Aksionov đi buôn ở hội chợ Nizhny. Khi từ giã gia đình thì vợ chàng khuyên, “Ivan Dmitrich, đừng đi hôm nay, em vừa có ác mộng về anh.”

Aksionov cười và nói, “Em lại sợ anh phóng túng ở hội chợ nữa rồi.”
Vợ chàng trả lời, “Em không biết em sợ chuyện gì nữa, em chỉ biết mình vừa trải qua một cơn ác mộng. Em mơ thấy anh từ hội chợ về, lúc anh cởi mũ ra thì tóc anh ngả đốm bạc hết cả.”

Aksionov cười. “Điềm may đấy em,” chàng bảo. “Đợi coi anh bán có không hết hàng và có mang quà hội chợ về cho em không nhé.”
Rồi chàng nói tạm biệt gia đình và rong ruổi.
Đi được nửa đường, chàng gặp một người quen cũng dân đi buôn. Hai người vào một quán trọ nghỉ đêm. Họ cùng uống trà, rồi đi ngủ ở hai phòng cạnh nhau.
Aksionov không có thói quen dậy trễ và muốn lên đường sớm lúc trời còn mát. Chàng đánh thức tay xà ích trước rạng đông, bảo anh ta dong ngựa vào cương.
Sau đó, chàng đến gặp chủ quán trọ (sống trong căn nhà sau), trả tiền thuê phòng rồi tiếp tục hành trình.
Đi khoảng hai mươi lăm dặm, chàng dừng xe lại để cho ngựa ăn. Aksionov nghỉ một lát ở hành lang quán trọ, rồi chàng ra ngoài hiên, gọi hâm nóng một ấm trà samovar xong lấy đàn ghi-ta ra bắt đầu gẩy.
Bỗng một chiếc xe ba ngựa kéo với chuông reo leng keng từ đâu chạy tới. Một sĩ quan cảnh binh bước xuống cùng hai người lính theo sau. Ông ta đến chỗ Aksionov ngồi và bắt đầu hỏi chàng là ai và từ đâu đến. Aksionov trả lời đầy đủ và mời, “Các ông uống trà với tôi chứ?” Nhưng viên sĩ quan vẫn tra vấn, “Đêm qua anh ngủ ở đâu? Một mình, hay với người lái buôn cùng đi? Sáng nay anh có trông thấy người lái buôn ấy không? Tại sao anh rời quán trọ lúc trời chưa sáng?”
Aksionov ngạc nhiên về các câu hỏi, nhưng chàng vẫn kể lại tất cả mọi chuyện, rồi nói thêm, “Tại sao ông lại tra vấn tôi như một tên ăn cắp hay trộm cướp không bằng? Tôi đi lo chuyện buôn bán của mình, ông không cần phải hạch hỏi tôi như thế.”
Viên sĩ quan bèn gọi hai người lính đến rồi nói, “Tôi là sĩ quan cảnh binh địa hạt này, tôi tra vấn anh vì dân chúng phát giác người lái buôn nghỉ trọ cùng với anh đêm qua bị cắt đứt cổ họng. Chúng tôi phải khám xét hành lý của anh.”
Họ bước vào nhà trọ. Hai người lính và viên sĩ quan cảnh binh mở tung hành lý của Aksionov ra khám. Bỗng viên sĩ quan rút ra một con dao từ túi xách, kêu lên, “Con dao này của ai?”
Aksionov nhìn, khi thấy con dao dính máu được lấy ra từ túi xách của mình, chàng hoảng sợ.
“Tại sao có máu trên con dao này?”
Aksionov gắng đáp, nhưng khó mà thốt nên lời, chỉ ấp úng, “Tôi… không biết… không phải của tôi.” Viên sĩ quan cảnh binh bèn nói, “Sáng nay dân chúng phát giác người lái buôn đó nằm chết trên giường với cổ họng bị cắt. Chỉ có anh là người có thể làm việc này. Cửa nhà trọ được khóa từ bên trong và không có ai khác ở đó cả. Đây là con dao dính máu trong túi xách của anh. Chính vẻ mặt với bộ tịch của anh đã tố cáo anh! Hãy khai anh đã giết người kia như thế nào và cướp được bao nhiêu tiền?”
Alsionov thề chàng không làm việc ấy, chàng không thấy người lái buôn từ lúc cùng uống trà, ngoài khoản tám ngàn rúp tiền riêng, chàng không sở hữu một số bạc nào khác và con dao ấy không phải của chàng. Nhưng giọng chàng nghẹn, mặt chàng tái xanh và thân hình chàng run rẩy như một kẻ phạm tội.
Viên sĩ quan cảnh binh ra lệnh cho lính trói và áp giải Aksionov đi. Khi họ trói chân rồi tống chàng lên xe ngựa, Aksionov làm dấu thánh giá và khóc. Chàng bị tịch thu hết tiền bạc, hành lý và đưa đi giam ở thị trấn gần đó nhất. Các cuộc điều tra về nhân cách của chàng được xúc tiến ở Vladimir. Những chủ tiệm buôn và cư dân khác của thị trấn khai xưa kia chàng có uống rượu và phung phí tuổi trẻ, nhưng chàng là người lương thiện. Rồi phiên tòa cũng diễn ra, chàng bị kết án giết người lái buôn đến từ Ryazan để cướp hai mươi ngàn rúp của ông ta.
Vợ chàng tuyệt vọng và chẳng còn biết tin vào điều gì nữa. Các con chàng đều thơ dại, một đứa còn được nàng bồng ẵm và cho bú sữa. Nàng đưa hết các con đến thị trấn nơi chồng bị giam giữ. Lúc đầu nàng không được phép thăm chồng, nhưng cứ van xin mãi, cuối cùng nàng cũng được các sĩ quan cho gặp. Khi trông thấy chồng mặc áo tù, bị xiềng và giam chung với bọn trộm cướp và tội phạm, nàng quị xuống và ngất đi. Một lúc sau nàng tỉnh dậy, kéo ôm các con vào lòng và ngồi sát chàng. Nàng kể chuyện nhà cho chàng nghe và hỏi chuyện gì đã xảy ra với chàng. Chàng kể lại đầu đuôi tất cả. Nàng hỏi, “Bây giờ mình phải làm sao?”
“Chúng ta phải thỉnh cầu Sa hoàng không để người vô tội phải chết rũ trong tù.”
Vợ chàng nói nàng đã gửi đơn thỉnh nguyện lên Sa hoàng, nhưng đã bị bác đơn.
Aksionov không trả lời, chỉ cúi gầm mặt thất vọng.
Lúc sau, vợ chàng nói, “Chuyện em nằm mơ thấy tóc anh ngả đốm bạc không phải vô nghĩa. Anh còn nhớ không? Lẽ ra anh không nên đi hôm đó.” Vừa vuốt tóc chàng, nàng vừa hỏi, “Vanya yêu quý, nói thật với vợ anh đi, không phải anh đã làm chuyện đó chứ?”
“Em nữa, em mà cũng nghi ngờ anh sao!” Aksionov nói xong úp mặt vào lòng bàn tay, chàng bắt đầu khóc rấm rức. Lúc đó, một người lính đến nói đã hết giờ thăm, vợ con chàng phải đi ra. Aksionov đành nói lời vĩnh biệt với gia đình.
Sau khi vợ con đi khuất, Aksionov nhớ lại buổi nói chuyện. Lúc chàng nhận ra ngay cả người vợ đầu ấp tay gối cũng nghi ngờ mình thì chàng tự nhủ, “Có lẽ chỉ có Thượng Đế biết sự thật, mình phải thỉnh cầu Ngài và chỉ trông chờ lòng thương xót từ Ngài mà thôi.”
Thế rồi Aksionov không viết thêm một đơn thỉnh nguyện nào nữa, buông hết mọi hy vọng và chỉ cầu nguyện Thượng Đế.
Aksionov bị kết án phải lãnh đòn phạt và đày ra vùng mỏ. Chàng bị đánh bằng roi có móc và khi các vết thương rách thịt lành, cảnh binh đưa chàng đi đày ở Siberia cùng với những tội phạm khác.
oOo
Trong hai mươi sáu năm, Aksionov sống như một tội phạm ở Siberia. Tóc ông giờ bạc trắng như tuyết, râu mọc dài, thưa và đốm bạc. Mọi nét vui đùa trẻ trung đã biến mất, lưng còng, đi đứng chậm chạp, ít nói, không bao giờ cười, nhưng ông cầu nguyện thường xuyên.
Trong tù Aksionov học làm giày ủng, ông dùng chút tiền kiếm được mua quyển Cuộc đời các Thánh. Ông đọc sách khi nào phòng giam có đủ ánh sáng. Chủ nhật ông đi lễ nhà thờ, đọc kinh và hát trong ca đoàn vì giọng ông vẫn còn tốt.
Ban quản trại tù thích Aksionov vì ông dễ bảo. Các đồng cảnh kính trọng ông, họ gọi ông là “Ông Nội” và “Ông Thánh.” Khi muốn thỉnh cầu ban quản trại điều gì, họ nhờ Aksionov đại diện phát biểu và khi trong đám tù nhân có tranh cãi, họ đều tìm đến ông nhờ phân giải cho đúng chuyện.
Aksionov vắng bặt tin nhà, vợ con ông sống sót ra sao, ông cũng chẳng biết.
Một hôm có một đám tội phạm mới được giải đến trại. Buổi tối, bọn tù cũ tụ tập chung quanh đám tù mới và hỏi thăm họ đến từ thị trấn hay hay làng xã nào và vào tù vì tội gì… Giống như mọi người, Aksionov ngồi gần đám tù mới nghe chuyện với dáng vẻ buồn nản.
Một gã trong đám tội phạm mới, người cao khỏe, khoảng sáu mươi với râu đốm bạc tỉa ngắn, đang kể cho mọi người nghe nguyên do gã bị bắt.
“Các bạn biết không,” gã nói, “tôi chỉ tháo lấy con ngựa cột ở xe trượt tuyết, thế mà bị bắt và bị kết tội ăn trộm. Tôi nói tôi chỉ lấy nó để phóng về nhà cho nhanh và sau đó đã thả nó ra; hơn nữa, tay đánh xe ngựa là bạn. Vì vậy, tôi nói ‘ổn thỏa cả chứ!’ Nhưng họ bảo ‘Không, anh đã ăn trộm ngựa.’ Nhưng tôi đã ăn trộm ngựa cách nào và ở đâu thì họ không nói được. Thực ra, tôi đã có lần làm một chuyện xằng bậy, đáng lẽ tôi phải bị đày đến chốn này từ lâu rồi, nhưng lần đó lại không ai phát giác. Còn bây giờ tôi lại phải ở đây vì một nguyên do chẳng đáng gì. À thật ra, tôi vừa nói dối các bạn, trước đây tôi cũng đã từng bị bắt đưa đến Siberia, nhưng tôi không ở tù lâu.”
“Bạn từ đâu đến?” một người tù hỏi.
“Từ Vladimir. Gia đình tôi ở thị trấn đó. Tôi tên là Makar, người ta còn gọi tôi là Semyonich.”
Aksionov ngẩng đầu lên nói, “Nói cho tôi biết, Semyonich, ông có biết tin gì về gia đình nhà buôn Aksionov ở Vladimir không? Họ còn sống không?”
“Biết họ không à? Dĩ nhiên tôi biết chứ. Đám nhà Aksionov giàu có, mặc dầu cha của họ là một tội phạm đang ở Siberia như chúng ta, chắc thế! Còn ông, Ông Nội, vì sao ông phải đến đây?”
Aksionov không thích nói ra sự không may của mình. Ông chỉ thở dài và nói, “Vì tội của mình, tôi đã phải ở tù hai mươi sáu năm nay.”
“Tội gì?” Makar Semyonich hỏi.
Nhưng Aksionov chỉ nói, “Tội à — phải mà, tôi đáng tội!” rồi không nói gì hơn. Nhưng các bạn tù kể cho đám tù mới đến tại sao Aksionov phải đi đày ở Siberia; kẻ nào đó đã giết một người lái buôn, rồi giấu con dao vào trong túi đồ của Aksionov và ông ta đã phải chịu án oan.
Khi Makar Semyonich nghe thấy thế, gã nhìn Aksionov, đập tay lên đầu gối mình và thốt lên, “Thật là kỳ thú! Kỳ thú quá đi mất! Nhưng sao trông ông già đi nhiều thế, Ông Nội?”
Mấy người khác hỏi Makar Semyonich tại sao gã lại kinh ngạc và trước đây gã đã gặp Aksionov ở đâu. Nhưng Makar Semyonich không trả lời. Gã chỉ nói, “Các anh em, thật kỳ thú là chúng tôi lại gặp nhau ở đây!”
Mấy lời đó làm Aksionov suy nghĩ không biết gã này có biết thủ phạm đã giết người lái buôn kia không, nên ông nói, “Có lẽ, Semyonich, ông đã từng nghe về vụ đó, hay cũng có thể ông đã gặp tôi trước đây chăng?”
“Sao lại không nghe? Thiên hạ đồn ầm. Nhưng đã lâu lắm rồi, tôi cũng đã quên những gì tôi nghe được.”
“Không chừng ông có nghe ai là thủ phạm đã giết người lái buôn ấy?” Aksionov hỏi.
Makar Semyonich cười đáp, “Đương nhiên là kẻ mà cảnh binh đã tìm thấy con dao trong túi xách của hắn! Nếu nói ai khác giấu con dao ở đó thì như ngạn ngữ có câu ‘ăn trộm có tang, chơi ngang có tích.’ Làm sao có ai giấu được con dao vào túi xách nằm dưới đầu ông? Chắc chắn sẽ làm ông thức dậy chứ.”
Khi Aksionov nghe những lời đó từ Makar Semyonich, ông đoán chắc đây là kẻ đã giết người lái buôn xấu số. Ông đứng dậy và đi ra. Đêm đó Aksionov thao thức. Ông cảm thấy đau khổ khủng khiếp và đủ mọi hình ảnh lại hiện lên trong trí óc. Có hình ảnh của vợ ông khi ông từ giã nàng để đi hội chợ. Ông thấy nàng như đang ở đây; khuôn mặt, đôi mắt nàng hiện ra phía trước ông, ông nghe thấy tiếng nàng cười nói. Rồi ông thấy đàn con thơ dại, như thuở xưa, một đứa mặc chiếc áo choàng bé nhỏ, đứa kia còn ôm vú mẹ. Rồi ông nhớ lại chính mình khi còn trẻ trung và yêu đời. Ông nhớ lúc ông ngồi chơi ghi-ta trước hiên nhà trọ nơi ông bị bắt, sao ông vô tư đến thế. Ông thấy rõ trong tâm tưởng, chỗ ông bị phạt đòn, những kẻ hành xác ông và đám khán giả vây quanh, những xích xiềng, những tội phạm, tất cả hai mươi sáu năm lao tù làm ông già khụ đi trước tuổi. Nghĩ đến mọi chuyện, ông chán đời đến mức chỉ muốn tự tử cho xong.
“Tất cả là do tên gian ác đó gây ra!” Aksionov nghĩ. Ông hận Makar Semyonich đến mức ông khao khát trả thù, dù có mất mạng. Ông cầu nguyện suốt đêm nhưng vẫn không tìm được sự bình an. Ban ngày ông không đến gần Makar Semyonich, ngay cả ghé mắt đến gã cũng không.
Hai tuần trôi qua như thế. Ban đêm, Aksionov không ngủ được, đau khổ khốn cùng đến độ ông chẳng còn biết làm gì.
Một tối, khi đang rảo bước trong nhà giam ông để ý có những hòn đất lăn ra từ một trong những kệ giường nơi tù nằm ngủ. Ông dừng lại xem chuyện gì. Bỗng Makar Semyonich trườn ra từ dưới kệ giường và ngước nhìn ông với vẻ mặt lo sợ. Aksionov tính bước qua luôn không nhìn gã, nhưng Makar nắm tay ông lại và nói với ông là gã đang đào lỗ dưới chân tường, đất thì bỏ vào đôi ủng để mỗi ngày khi đoàn tù được giải đi lao động, gã sẽ đổ xuống lộ.
“Giữ im lặng, cụ nhé! cụ cũng nên trốn đi. Nếu cụ hé mồm, chúng nó sẽ đánh đòn tôi bằng roi cho đến chết, nhưng tôi sẽ giết cụ trước.”
Nhìn kẻ thù của mình, Aksionov giận run. Ông giật tay ra và nói, “Tôi không muốn vượt ngục và ông không cần phải giết tôi; ông đã giết tôi từ lâu rồi. Còn tiết lộ việc của ông, tôi có làm hay không, Thượng Đế sẽ chỉ đạo cho tôi.”
Hôm sau, khi đám tội phạm được dẫn đi lao động, mấy người lính áp giải thấy có tên tù nào đó đã dốc đất trong giầy ủng ra lộ. Trại giam bị xét và đường hầm bị khám phá. Viên Giám đốc trại đích thân đến tra vấn tất cả tù nhân để truy ra kẻ nào đã đào hầm. Nhưng tất cả đều chối không biết gì hết. Người nào rõ chuyện cũng không phản bội Makar Semyonich vì biết gã sẽ bị trừng trị bằng đòn roi cho đến chết. Cuối cùng viên Giám đốc quay sang Aksionov bởi biết ông là người công chính và nói:
“Ông là người trung thực, trước Thượng Đế, hãy nói cho tôi biết: ai đã đào hầm?”
Makar Semyonich đứng như một kẻ chẳng quan tâm, gã nhìn viên Giám đốc không nhiều bằng liếc nhìn Aksionov. Môi mấp máy và tay run rẩy một lúc lâu, Aksionov vẫn không thốt nên lời. Ông nghĩ, “Tại sao ta lại phải che chở cho kẻ đã phá hại đời mình? Hãy để gã trả nợ cho những gì ta gánh chịu. Nhưng nếu ta khai, họ có lẽ sẽ đánh gã đến chết. Và cũng có thể ta đã nghi oan cho gã tội giết người. Nghĩ cho cùng, làm thế có tốt gì cho ta?”
“Nào, ông già,” viên Giám đốc nhắc lại, “Nói cho tôi biết sự thật: ai đã đào lỗ dưới chân tường này?”
Aksionov liếc nhìn Makar Semyonich và nói, “Tôi không thể, thưa ngài. Không phải ý Thượng Đế là tôi phải khai. Ngài làm gì tôi cũng được, sinh mạng tôi đang ở trong tay ngài.”
Dù viên Giám đốc có cố gắng thế nào đi nữa, Aksionov vẫn không nói gì thêm, nên ông ta đành phải bỏ qua việc đó.
Đêm ấy, khi Aksionov đang nằm lim dim trên giường thì có một kẻ rón rén lại ngồi xuống bên giường ông. Qua bóng đêm, ông nhướng mắt nhìn kỹ và nhận ra Makar.
“Ông còn muốn gì ở tôi nữa?” Aksionov hỏi. “Tại sao ông đến đây?”
Makar Semyonich im lặng. Thế nên Aksionov ngồi dậy và nói, “Ông muốn gì? Đi đi, không tôi gọi lính gác.”
Makar Semyonich nghiêng người qua Aksionov và thì thầm, “Ông Ivan Dmitrich, hãy tha thứ cho tôi.”
“Về chuyện gì?” Aksionov hỏi.
“Tôi là thủ phạm đã giết người lái buôn và giấu con dao vào hành lý của ông. Tôi tính giết cả ông nữa, nhưng vì nghe có tiếng động bên ngoài, nên tôi đã giấu con dao vào túi xách của ông rồi trốn ra bằng cửa sổ.”
Aksionov ngồi im, không biết nói gì. Makar Semyonich tụt xuống khỏi kệ giường và quỳ trên đất van xin, “Ông Ivan Dmitrich, xin ông tha thứ cho tôi!” Gã nói, “Tha tội cho tôi! Vì tình yêu Thượng Đế, xin tha tội cho tôi! Tôi sẽ thú tội đã giết người lái buôn. Ông sẽ được thả và có thể về nhà với gia đình.”
“Ông nói thì dễ lắm,” Aksionov nói, “nhưng tôi đã chịu tội thay cho ông hai mươi sáu năm trời. Bây giờ tôi có thể về đâu? Vợ tôi đã chết, các con tôi đã quên tôi rồi. Tôi không có chỗ nào mà về nữa.”
Makar Semyonich không đứng dậy, mà lại đập đầu xuống đất. “Ông Ivan Dmitrich, xin tha tội cho tôi.” Gã khóc nói, “Thấy ông như thế này, tôi chịu không thấu, còn khó chịu đựng hơn là khi họ đánh tôi bằng roi có móc sắt… Ông đã thương hại tôi, mà không khai thật. Vì ơn Chúa, xin tha tội cho tôi, tôi đau khổ lắm rồi.” Và gã khóc rưng rức.
Khi Aksionov nghe gã khóc nức nở, ông cũng bật khóc. “Thượng Đế sẽ tha tội cho ông,” ông nói, “Có thể tôi còn xấu xa gấp trăm lần ông.” Và với những lời đó, ông thấy lòng mình thanh thản, nỗi ao ước về nhà cũng không còn. Ông chẳng khát khao ra khỏi tù nữa, mà chỉ mong đến phút cuối đời mình.
Mặc cho những gì Aksionov nói, Makar Semyonich vẫn đi thú tội của gã. Nhưng khi lệnh thả ông được mang đến, Aksionov đã chết tự lúc nào.

Leo Tolstoy
Bắc Phong
phỏng dịch